You are on page 1of 7

TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC

I. Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao:
- Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý. Sinh năm 1934.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Hữu Dũng. Sinh năm 1967.
2. Ông Nguyễn Hữu Lộc. Sinh năm 1974.
- Ngày 6/4/2009, cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia
toàn bộ căn nhà và đất sô 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú
Nhuận cho 5 người con. Nay cụ Quý không đồng ý và khởi kiện, yêu cầu
được hưởng ½ giá trị căn nhà ở vị trí bên phải từ ngoài nhìn vào và 2/3 xuất
thừa kế theo pháp luật đối với di sản của ông Hương. Tại bản án dân sự sơ
thẩm số 1162/2010/DS-ST, Tòa án quyết định chấp nhận yêu cầu của cụ
Quý và cho ông Nghĩa, bà Hiếu, ông Đức, ông Dũng, bà Kiều và các con là
ông Trí, bà Nga mỗi người được hưởng 64,3m2 đất và hưởng giá trị tiền xây
dựng là 40.949.950 đồng/ người của căn nhà số 302. Tuy nhiên, Tòa án lại
không tuyên xử buộc ông Lộc (đang sống trong căn nhà số 302) phải trao
trả nhà cho ai nên việc cơ quan thi hành án buộc ông Lộc phải trao trả nhà
cho cụ Quý là trái với bản án, ông Lộc khiếu nại. Tại quyết định kháng nghị
số 322//2013/KN-DS ngày 5/8/2013, bản án dân sự sơ thẩm số
1162/2010/DS-ST bị hủy và yêu cầu xét xử lại.
II. Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội:
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y.
- Bị đơn: Phòng công chứng M.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn D1.
- Cụ D và cụ C sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn
(hôn nhân thực tế). Năm 1959, cụ D mua thửa đất ở xứ M sau đó đổi sang
thửa số 38, tờ bản đồ số 13.
- Năm 1959, cụ D chung sống với cụ N và sinh ra ông D1.
- Ngày 16/12/2009, cụ C lập di chúc để lại di sản cho ông D1.
- Ngày 15/01/2011 cụ D lập di chúc để lại phần di sản của mình cho ông D1.
- Ngày 21/01/2011 cụ D chết. Sau khi cụ D chết thì phòng công chứng M
tỉnhVĩnh Phúc có văn bản công bố di chúc của cụ C và cụ D đối với di sản
của 2 cụ là thửa đất số 38 cho ông D1.
- Ông Y lại cho rằng thửa đất số 38 đã được ông mua của cụ C từ năm 1987,
đến năm 1998 thì hai bên lập giấy bán nhà và chuyển nhượng quyền SDĐ.
 Ông Y kiện phòng công chứng M, yêu cầu phòng công chứng M phải
tuyên bố văn bản công chứng di chúc cụ C và cụ D là vô hiệu. Tại phiên
sơ thẩm,tòa án đã tuyên bản công chứng là vô hiệu. Sau đó ông D1
khiếu kháng cáo.Tại phiên phúc thẩm, tòa án tuyên bố giữ nguyên bản
án sơ thẩm. Ông D tiếp tục có đơn yêu cầu cấp giám đốc thẩm đối với
bản án này. Tại tòa giám đốc thẩm, tòa án đã yêu cầu hủy bản án sơ
thẩm và phúc thẩm.
- CSPL: Điểm a Khoản 1 Điều 337; Khoản 3 Điều 343 và Điều 345 Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015.
III. Câu hỏi:
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của quyết định số 359 cho
câu trả lời?
- Cụ Hương đã định đoạt tài sản là bất động sản. Đó là toàn bộ căn nhà và đất
số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận với diện tích
699m2.
- Đoạn của quyết định số 359 cho câu trả lời: “Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn
Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất số
302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con là:
Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu
Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công chứng
tại Phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.”
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
- Đoạn của quyết định 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương là:
“Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú
Nhuận (số cũ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu) có diện tích 680,6m2, giá trị tiền
xây dựng 433.587.700 đồng là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ
Quý.”
Và đoạn:
“Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý.”
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời?
- Tòa án đã công nhận di chúc có hiệu lực một phần. Cụ thể là phần di chúc
định đoạt ½ là di sản của cụ Hương trong phần tài sản chung của vợ chồng
cụ Quý và cụ Hương (tức là ½ nhà đất).
- Đoạn của quyết định số 359 cho câu trả lời là: “Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực 1 phần đối với phần tài sản
của cụ Hương (½ nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông
bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho
cụ Quý...”
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án giám đốc thẩm là tương đối hợp lý và bảo
vệ được quyền cũng như lợi ích hợp pháp của các đương sự khi nhận thụ lý
vụ án.
- Quyết định chấp nhận yêu cầu chia tài sản theo nguyện vọng của cụ Quý
của Tòa án là có cơ sở pháp luật.
CSPL: Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường
hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Bởi vì cụ Hương và cụ Quý đã chung sống từ năm 1955, lập hôn thú năm
1962, tức đã là vợ chồng hợp pháp. Theo những quy định tại Khoản 1 Điều
33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quyền sử dụng đất tại số 302 Nguyễn
Thượng Hiền là tài sản chung của 2 vợ chồng. Do đó, việc cụ Quý có quyền
sở hữu ½ giá trị nhà đất trên là đúng với pháp luật.
- Quyết định cho cụ Quý (vợ hợp pháp của cụ Hương) được hưởng phần di
sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật (người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc) của Tòa án là hoàn toàn hợp lý và
đúng với pháp luật.
CSPL: Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015.
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc
chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
- Quyết định xét xử di chúc của cụ Hương có hiệu lực một phần đối với phần
tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) của Tòa án cũng là có cơ sở.
CSPL:
Điều 609 BLDS 2015.
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài
sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc
hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”
Khoản 4 Điều 643 BLDS 2015.
“Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực
của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.”
- Tuy nhiên, về phần nhà đất tranh chấp mà ông Lộc đang sử dụng, Tòa án
không buộc ông Lộc trao trả cho cụ Quý là chưa giải quyết triệt để vụ án,
dẫn tới bản án có hiệu lực pháp luật không thể thi hành được.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý?
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì có rất nhiều trường hợp chia thừa kế
có thể xảy ra
Trường hợp 1: Cụ Quý chết trước mà không để lại di chúc:
- Khi cụ Quý không để lại di chúc thì nhà đất số 302 đó sẽ được chia ½ theo
pháp luật cho cụ Hương bởi lẽ căn nhà đó là tài sản trong hôn nhân của vợ
chồng cụ Quý. Và phần tài sản còn lại của cụ Quý sẽ được chia đều cho cụ
Hương và tất cả các người con theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651
BLDS 2015
- CSPL:
điểm a khoản 1 Điều 650 về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“Không có di chúc”
điểm a khoản 1 Điều 651 về Người thừa kế theo pháp luật:
“Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết”
khoản 1 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 về Giải quyết tài
sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là
đã chết:
“1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên
còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc
có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận
cử người khác quản lý di sản”
→ Từ trường hợp này cho thấy phần di chúc của cụ Hương để lại vẫn có
pháp lý 1 phần khi để lại tài sản cho các con của cụ đối với phần tài sản của
cụ Hương

Trường hợp 2: Cụ Quý chết có để lại di chúc cho các con (cụ Hương không
được hưởng thừa kế theo di chúc):
- Trong trường hợp này, mặc dù cụ Quý không để lại di chúc cho cụ Hương
được thừa hưởng thừa kế thế nhưng cụ Hương vẫn được hưởng ⅔ suất thừa
kế phần di sản theo pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 644 BLDS
năm 2015. Như vậy, tài sản của cụ Hương sẽ bao gồm ½ tài sản chung là
nhà đất số 302 với cụ Quý cùng với phần tài sản được thừa kế từ di sản của
cụ Quý
- CSPL: khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp
luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản
hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động”
→ Di chúc của cụ Hương vẫn có giá trị pháp lý 1 phần đó là phần ½ nhà
đất c và phần di sản được hưởng của cụ chứ cụ Hương không có quyền
quyết định toàn bộ tài sản như trong di chúc đề cập là chia toàn bộ nhà đất
số 302 cho 5 người con

Trường hợp 3: Cụ Quý chết có để lại di chúc cho cụ Hương (các con của cụ
không được hưởng thừa kế theo di chúc):
- Trong trường hợp này thì cụ Hương được hưởng ½ nhà đất chung số 302
của vợ chồng cụ. Còn ½ di sản còn lại của cụ Quý nếu các con của cụ
không thuộc 1 trong 2 trường hợp ở khoản 1 Điều 644 BLDS thì không có
quyền được hưởng thừa kế và toàn bộ ½ còn lại của nhà đất số 302 đó sẽ
thuộc thừa kế của cụ Hương.
→ Trong trường hợp này thì di chúc của bà Hương có thể có giá trị pháp lý
toàn phần do khi để lại di chúc cho cụ Hương, các con không được hưởng
thì toàn bộ tài sản thuộc của cụ Hương thế nên việc trong di chúc cụ đề cập
là chia toàn bộ nhà đất số 302 đó cho 5 người con là hoàn toàn có giá trị

Trường hợp 4: Cụ Quý chết để lại di chúc định đoạt toàn bộ nhà đất trong
khối tài sản chung của 2 vợ chồng cho cụ Hương:
- Trong trường hợp này, nếu không có bất cứ trường hợp nào là người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được quy định tại Điều 644
BLDS năm 2015 thì toàn bộ bất động sản trên sẽ thuộc về cụ Hương. Chính
vì thế, cụ Hương có quyền định đoạt số tài sản của mình (là toàn bộ nhà
đất trong khối tài sản chung của 2 vợ chồng) cho 5 người con
→ Di chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý toàn bộ căn cứ theo Điều 609
BLDS năm 2015 về Quyền thừa kế: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là
cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”

6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì
sao?
- Tại thời điểm lập di chúc, về mặt hình thức có công chứng của Phòng
Công chứng số 4, TPHCM và cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của
bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn thế nên di chúc trên là
hoàn toàn hợp pháp. Nên nếu tài sản được định đoạt trong di chúc thuộc
toàn bộ tài sản là của cụ Hương thì theo Điều 609 BLDS 2015: “Cá nhân có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho
người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp
luật”. Tuy nhiên căn cứ vào khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 về Người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, thì cụ Quý (chồng của cụ
Hương) được hưởng ⅔ suất thừa kế khi di sản chia theo pháp luật nằm
trong diện đối tượng được hưởng phần di sản dù không được người lập di
chúc cho hưởng di sản. Phần tài sản còn lại thì mới được chia cho 5 người
con có tên trong di chúc của cụ Hương thế nên di chúc của cụ Hương là hợp
pháp nhưng chỉ có giá trị pháp lý một phần

7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D
đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
- Trong phần Nhận định của Toà án “[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để
lại là quyền sử dụng đất tại thửa số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân
thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị
thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai
cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”

8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Trong phần Nhận định của Toà án “[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để
lại là quyền sử dụng đất tại thửa số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân
thành phố Vĩnh Yên…”
→ Hướng xác định của Toà giám đốc thẩm là hợp lý vì quyền sử dụng đất
là tài sản căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 105 và Điều 115 BLDS
năm 2015. Do đó, cụ C và cụ D hoàn toàn có quyền lập di chúc để lại di sản
là quyền sử dụng đất này dù cho thửa đất số 38 bị thu hồi nhưng nó vẫn
nằm trong diện được Nhà nước bảo đảm và quyền sử dụng đất có thể trị giá
được bằng tiền. Nhận định của Toà án khi Nhà nước thu hồi bồi thường
bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường bằng tài sản trên đất thì ông
D1 được đứng tên và nhận tiền là thuyết phục.
- CSPL:
khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 về Tài sản:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”
Điều 115 BLDS 2015 về Quyền tài sản
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối
với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác”

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà
nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm.
- Trong phần Nhận định của Toà án “[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để
lại là quyền sử dụng đất tại thửa số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân
thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị
thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai
cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”
→ Vì di chúc của cụ C là hoàn toàn hợp pháp vì thế hướng giải quyết trên
là thỏa đáng. Bởi lẽ nó đã bảo vệ lợi ích của người dân ngay cả khi đất bị
thu hồi bởi Nhà nước và công nhận di chúc về phần đất này. Đảm bảo được
quyền lợi vì mặt tài sản của người bị thu hồi đất mà cụ thể là cụ C và cụ D,
hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1 để cụ D1
được hưởng giá trị bồi thường khi Nhà nước thu hồi bồi thường bằng tái
định cư (hoặc nhận tiền) hoặc bồi thường tài sản trên đất thì ông D1 được
đứng tên và nhận tiền.

You might also like