You are on page 1of 11

Bộ giáo dục và đào tạo

Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,


TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

Buổi thảo luận thứ sáu


Chủ đề: Quy định về di chúc

LỚP HC47.3
Nhóm 1
Lê Nguyễn Anh Thư 2253801014162
Đặng Quỳnh Bảo Tiên 2253801014173
Nguyễn Ngọc Bảo Tâm 2253801014138
Huỳnh Thị Thanh Thùy 2253801014171
Nguyễn Thiên Thanh 2253801014143
Phạm Thanh Phương Thảo 2253801014149
Hoàng Thị Hà Thu 2253801014158
Trần Quang Thịnh 2253801014156
Trần Thị Cẩm Thủy 2253801014172
Trần Thị Cẩm Tiên 2253801014176

1
MUC LỤC
Hình thức của di chúc 2
Tài sản được định đoạt theo di chúc 4
Di sản chung của vợ chồng 8
Di sản dùng vào việc thừa kế............................................................................................9

 Hình thức của di chúc

1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ Điều 633 BLDS 2015 quy định điều kiện về hình thức để di chúc tự
viết tay có giá trị pháp lý: “ Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di
chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân
theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.”
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong trường hợp di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng
thì những người làm chứng di chúc của ông Này bao gồm em trai, em gái
và cha ông Này đều không là người làm chứng hợp pháp.
- Căn cứ điểm a, b Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về thừa kế theo
pháp luật, ta thấy những người được thừa kế hợp pháp bao gồm cha, em trai
và em gái ông Này. Tuy nhiên, căn cứ Khoản 1 Điều 632 BLDS 2015 quy
đinh về việc làm chứng cho người lập di chúc: “Mọi người đều có thể làm
chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: “Người thừa kế theo
di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.”
- Vì thế, trong trường hợp trên, chính những người được thừa kế hợp pháp lại
là người làm chứng cho việc lập di chúc của ông Này, từ đó suy ra họ trở
thành người làm chứng không hợp pháp.
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
- Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay.
- Căn cứ vào mục Nhận thấy thuộc bản án 83/2009/DSPT ghi: “Để tránh
tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy này để nhà và đất lại cho cháu
Hiếu thừa hưởng sau này ông Này có mất thì cháu Hiếu có chỗ ở và thờ
cúng cho ông Này.”
- Căn cứ vào mục Xét thấy thuộc bản án 83/2009/DSPT ghi: “Trước khi qua
đời, vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn Này lập giấy giao quyền thừa kế
toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho

2
Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai
ông này điểm chỉ và ký tên làm chứng. Xét thấy, giấy thừa kế do ông
Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương công chứng, chứng
thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị
lừa dối đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là
di chúc hợp pháp.”

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông
Này là hợp lý. Căn cứ điều 633 BLDS 2015 quy định về di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng: “Người lập di chúc phải tự viết và tự ký
vào bản di chúc.”
- Di chúc của ông Này là do chính ông tự viết, tự ký với ba người làm chứng
gồm cha, em gái, em trai nên có thể được xem là đã thỏa mãn điều kiện quy
định tại điều 633 BLDS 2015. Ngoài ra, việc có thêm người làm chứng hay
không cũng không ảnh hưởng tới tính hợp pháp của bản di chúc viết tay của
ông Này.
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
- Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau: Ngày 25/11/1998, di chúc là do
cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy
(là mẹ của ông Vũ) ký tên, làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu
mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban
nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
- Cụ Hựu không biết chữ. Quyết định số 874 trong phần xét thấy có câu
“ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?
- Đối với người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc do bị mù chữ thì
pháp luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản, theo thủ tục
công chứng phải lập, công chứng chứng thực di chúc phải có người làm
chứng, quy định tại khoản 3 Điều 652 BLDS 2005: Di chúc hợp pháp di
chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực” và Điều 658 BLDS 2005: “thủ tục lập di chúc tại cơ quan công
chứng hoặc UBND Xã, Phường,Thị Trấn”.
- Việc lập di chúc tại cơ quan công chức hoặc UBND Xã, Phường, Thị Trấn
phải tuân theo thủ tục sau đây:

3
1) Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND Xã, Phường, Thị trấn.
Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc đã được ghi chúng
chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chức viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của UBND Xã, Phường, Thị trấn ký vào bản di
chúc.
2) Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người
làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của UBND Xã, Phường, Thị Trấn, chứng
nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
- Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là di chúc được
lập thành văn bản và có người làm chứng. Hai người làm chứng cho cụ
Hựu là ông Vũ và Cụ Quý. Theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 thì di chúc
của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

*Tài sản được định đoạt theo di chúc

1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu
trả lời?
- Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay
là 302 Nguyễn Thượng Hiền, p5, Phú Nhuận) là tài sản chung của cụ Hương và cụ
Quý
- Đoạn của quyết định 359 cho rằng: “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ
nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc
Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí)”.
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
- Đoạn của Quyết định cho thấy cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung
của vợ chồng cụ Hương: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một
phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ
Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự
đồng ý của cụ Quý là không đúng”
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
- Toà án đã công nhận phần tài sản được chia đều cho 5 người con nhưng chỉ chia
phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa
kế theo pháp luật

4
“Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu
lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hưng (1/2 nhà đất) nên được chia đều
cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn
Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi
đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, còn ½ và 2/3 suất thừa kế theo
pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di
chúc của cụ Hương là có căn cứ).
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Theo Điều 612, Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về di sản: “Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác”
- Trong trường hợp này, tài sản thuộc sở hữu chung của cả cụ Quý và cụ Hương.
Trước khi chết, cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên chỉ có phần tài sản
trong tài sản chung với cụ Quý của cụ Hương mới được coi là di sản. Cụ Hương
chỉ có quyền định đoạt phần đó. Vì vậy, việc Toà xác định chỉ có ½ nhà đất được
chia cho 5 người thừa kế là phù hợp với quy định trên của pháp luật. Theo Điều
644, Bộ luật dân sự 2015 quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc: “1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp
luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ
cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa thành niên, cha,
mẹ, vợ, chồng; b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Vì Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 620 và Khoản 1, Điều 621 của Bộ
luật Dân sự năm 2015. Mặc khác, khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương
cũng không được người lập di chúc cho di sản.Vì vậy, việc Tòa án xác định chia
cho cụ Qúy 2/3 suất thừa kế là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định pháp luật.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài
sản của cụ Hương trong phần tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý.
- Nếu trường hợp cụ Quý để lại di chúc nhưng không có phần của cụ Hương thì
phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ Hương cộng thêm ⅔ suất thừa kế theo pháp
luật mà cụ Hương nhận được từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc. Căn cứ vào khoản 1 điều 644 Bộ luật dân sự 2015:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp
họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di
sản ít hơn hai phần ba suất đó.

5
- Nếu trường hợp cụ Quý để lại di chúc có phần của cụ Hương thì phần di chúc có
giá trị pháp lý của cụ Hương cộng thêm phần di sản mà cụ Hương được nhận. Căn
cứ vào khoản 1 điều 609 Bộ luật dân sự 2015: “Cá nhân có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá
nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”
Nếu trường hợp cụ Quý không để lại di chúc, thì phần di chúc có giá trị pháp lý
của cụ Hương cộng thêm 1/13 di sản của cụ Quý để lại; do di sản của cụ Quý được
chia theo pháp luật (cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm 12 người
con và cụ Hương). Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 điều 651 Bộ luật dân sự
2015 những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự trong điều
luật này.

6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
- Trong trường hợp tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc cụ Hương có giá trị pháp lý.
- Về hình thức, bản di chúc này có công chứng của Phòng công chứng số 4, thành
phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức
khỏe của bệnh viện Phú Nhuận xác định cụ Hương minh mẫn.
- Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lý vì tài sản lúc này thuộc sở
hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ có quyền định đoạt theo quy định
tại điều 609 của Bộ luật dân sự 2015 về Quyền thừa kế: “ Cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là
cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.
Nếu tài sản là sở hữu chung với cụ Quý thì di chúc chỉ có giá trị pháp lý một phần.
Đó là phần tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1, Điều
630 Bộ luật dân sự 2015.
=> Di chúc của cụ Hương lúc này hoàn toàn có giá trị pháp lý.

7. Quyết định 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết?
- Căn cứ vào quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Toà án nhân dân
cấp cao Hà Nội, phần nhận định của Toà án có chỉ ra: “Ngày 07-9-2010, cụ C
chết”. Ngày 21-01-2011, cụ D chết.”;“ Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản án số 13 đã bị thu hồi theo Quyết
định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Vĩnh
Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp
luật bảo đảm theo quy định của Luật đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định
đoạt tài sản trên cho ông D.

6
- Ta có thể thấy rằng ngày 21/7/2010 quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu
hồi mà cụ C đã mất vào ngày 7/9/2010 và cụ D mất ngày 21/1/2011.

8. Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác
định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Trong Quyết định số 58, đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền
sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số
1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị
quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo
quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên
cho ông D1”.
- Về hướng xác định vừa nêu trên của Tòa án là hợp lý. Vì:
+ Thửa đất tại xứ M là tài sản chung của cụ C và cụ D nhưng chỉ có cụ C chuyển
nhượng cho ông Y mà chưa có ý kiến của cụ D, cụ C tự ý định đoạt tài sản chung
của hai cụ thì cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng giữa cụ C
và ông Y, vì vậy quyền sử dụng đất vẫn thuộc về cụ D và cụ C.
+ Xét theo khoản 2 điều 42 Luật đất đai: “Người bị thu hồi loại đất nào thì được
bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để
bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có
quyết định thu hồi” thì mặc dù thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố
V nhưng giá trị quyền sử dụng đất vẫn được bồi thường, vì vậy nên hai cụ có
quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên.

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước
thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi: “Ngoài
ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy
ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có
quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D”.
- Tòa giám đốc thẩm giải quyết theo hướng vừa nêu là hợp lý, theo cơ sở pháp lý là:
+ Khoản 3 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015
+ Khoản 1 điều 630 Bộ luật dân sự 2015
=> Di sản cụ D và cụ C để lại là quyền sử dụng đất vẫn còn vào thời điểm mở thừa
kế, di chúc của cụ D, cụ C là hợp pháp nên di chúc vẫn có hiệu lực.
* Di sản chung của vợ chồng

7
1. Đoạn nào của Bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng?
- Trong Bản án số 14, đoạn cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng là: “Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ
chồng. Trong thời kì hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên
bản thẩm định ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di
chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015.”
2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
- Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015, tuy nhiên BLDS 2015 chưa có điều luật nào tương tự Điều 663 BLDS 2005.
Nên Tòa án đã xét đến nội dung của bản di chúc và các điều kiện khác được quy
định trong BLDS 2015.
- Trích bản án:“Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 BLDS 2015 Xử:
Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày
10/8/2015 là hợp pháp.
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015
- Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan
hệ với BLDS 2015 là hợp tình, hợp lý tuy BLDS 2015 không có quy định cụ thể
về trường hợp này như BLDS 2005. Tòa án đã xét đến nội dung của bản di chúc
và các điều kiện khác được quy định trong BLDS 2015 như sau:
+ Theo Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình
nên di chúc ching này nhằm định đoạt tài sản chung của vợ chồng ông X, bà H là
hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Người lập di chúc là ông X và bà H còn minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc, không bị ai cưỡng ép như trong Bản án đã đề cập phù hợp với Điểm a
Khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
- Về nội dung: di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
phù hợp với quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
- Về hình thức: di chúc này là do ông X tự viết và được vợ chồng ông cùng tự kí tên
vào, theo Kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính là chữ
viêt tay của ông X, phù hợp với quy định về di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015.Vậy nên, tuy BLDS 2015 không có quy định
cụ thể về trường hợp này nhưng việc Tòa án xét về các điều kiện trên để công
nhận di chúc chung của ông X, bà H là hoàn toàn hợp lý.
*Di sản dùng vào việc thờ cúng

1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

8
- Để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý thì di sản đó cần đảm bảo
những điều kiện dưới đây:
 Di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa
lại
 Di sản của người đó không được đem đi chia thừa kế.
 Di sản dùng vào việc thờ cúng phải do người được chỉ định bởi người để lại di sản
quản lý hoặc do thỏa thuận giữa các đồng thừa kế cử ra.
 Di sản đó phải được dùng đúng mục đích cho việc thờ cúng. Khi việc thờ cúng
không được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế (theo pháp luật) của
người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản đó.
 Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
CSPL: theo Điều 645 BLDS 2015
2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?
- Trong phần XÉT THẤY của bản án có đoạn cho thấy di sản có tranh chấp được di
chúc dùng vào việc thờ cúng là: “Tại tờ di chúc ngày 08/07/2004 bà Lùng để lại
nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người
đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và
giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.
3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- Căn cứ vào Điều 645 BLDS 2015, để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp
pháp thì di sản đó cần đảm bảo những điều kiện dưới đây:
 Di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa
lại
 Di sản của người đó không được đem đi chia thừa kế.
 Di sản dùng vào việc thờ cúng phải do người được chỉ định bởi người để lại di sản
quản lý hoặc do thỏa thuận giữa các đồng thừa kế cử ra.
 Di sản đó phải được dùng đúng mục đích cho việc thờ cúng. Khi việc thờ cúng
không được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế (theo pháp luật) của
người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản đó.
- Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
- Trong trường hợp của vụ việc, các điều kiện trên đã không được vận dụng một
cách thỏa đáng. Bởi vì, Tòa án đã vi phạm điều kiện đầu tiên khi quyết định chia
thừa kế giá trị căn nhà cho các đồng thừa kế vốn là di sản dùng vào việc thờ cúng
theo di chúc của bà Lùng để lại ngày 08/07/2004.
4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

9
- Anh Phan Văn Được, anh Phan Văn Thảo, Phan Văn Xuân, anh Phan Văn Nhành
và chị Phan Thị Hoa đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng, còn anh Phan Văn
Tân và chị Phan Thị Hương không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng. Căn
cứ vào đoạn dưới đây trong bản án: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di
chúc để lại nhà đất cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm
anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không
đồng ý”.
5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Cuối cùng Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng.
Điều này được thể hiện ở đoạn: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà
Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh
Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý
chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.
6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu?
- Theo BLDS 2005, căn cứ vào điều 670 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc
thờ cúng. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa
vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương. Như vậy, xét về lý
thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định của BLDS. Nhưng xét về
tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách xử của Tòa vẫn
đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất
được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa
không nhận di sản mà cho lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh
Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp
lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung
của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ chỉ được quản lý.
Tuy nhiên, Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản
phần thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản ra, đánh mất bản chất
chỉ quản lý để thờ cúng mà không định đoạt.

10
11

You might also like