You are on page 1of 4

1.3.Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?

- Di chúc là do ông Này viết tay


Vì: - Trong phần Nhận thấy
Ông Chìa, bà Phước (cha mẹ ông Này) uỷ quyền cho ông Thành (em ruột ông Này)
trình bày: Lúc ông Này còn sống có về nói với gia đình và lập 02 bản di chúc: Một
giấy uỷ quyền dử dụng đất và một giấy thừa kế sử dụng đất đưa ra cho gia đình xem
và nói bây giờ các cháu lớn đều có nhà của riêng, chỉ còn lại cháu út là Nguyễn Thành
Hiếu đang ở với ông Này. Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy này để
nhà và đất lại cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ông Này có mất thì cháu Hiếu có chỗ
ở và thờ cúng cho ông Này. Gia đình hoàn toàn nhất trí theo ý ông Này. Chúng tôi
không yêu cầu hưởng di sản.
- Trong phần xét thấy của toà án có đoạn:
Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn Này lập giấy giao quyền thừa kế
toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho Nguyễn Thành
Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên
làm chứng. Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền
địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn mình mẫn,
sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp.
1.4Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.

Theo Điều 652 của BLDS 2005


1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc
cưỡng ép;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định
của pháp luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn
bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có
đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của
mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép
lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

=> di chúc của ông Này là hợp pháp. Tuy không được công chứng, chứng thực nhưng
thời điểm ông Này lập di chúc thì ông vẫn còn minh mẫn và tỉnh táo, có người làm
chứng (những người làm chứng đều phù hợp Điều 654. Người làm chứng cho việc lập di
chúc BLDS 2005 )
=>Vì thế hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý
1.5 Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
-Quá trình lập di chúc của cụ Hựu là:
25-11-1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngân, bà Đỗ Thị Lựu và ông Vũ
khai di chúc do cụ Hựu đọc chơ ông Vũ viết, cụ Hưu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị
Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày 04-01-1999 bà Lựu mang đi
chức đến cho ông Hoàng Văn Thường (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai
Lâm xác nhận.
1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
-Cụ Hựu không biết chữ
- Tại bản án có đoạn chứng minh cụ Hựu không biết chữ là:
Đối với di chúc đề ngày 25-11-1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngân, bà
Đỗ Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc chơ ông Vũ viết, cụ Hưu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày
04-01-1999 bà Lựu mang đi chúc đến cho ông Hoàng Văn Thường (là Trưởng thôn)
và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Ông Quang xác định cu Hưu là người
không biết chữ.

1.7Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?

Điều 656. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người
khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm
chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ
ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.

Điều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

=>Như vậy, người không biết chữ khi lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu ?
- Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: di chúc bằng văn
bản, có người làm chứng việc lập di chúc.
+ “Di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, sau đó đưa cho ông
Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ông Vũ) ký tên làm chứng. Sau đó, di chúc được ông
Hoàng Văn Thưởng (trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.”
- Cơ sở pháp lý: +Điều 652 của BLDS 2005
+ Khoản 2 Điều 628 BLDS 2015: (Di chúc bằng văn bản): “Di chúc bằng văn
bản bao gồm:
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.”

+ Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: (Di chúc hợp pháp): “3. Di chúc của người bị
hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng
lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
- Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là:
+ “Ông Thưởng (trưởng thôn) không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc. Ủy ban
nhân dân xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận (sau
khi cụ Hựu lập di chúc hơn 01 tháng) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác
nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung di chúc. Mặt khác,
qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu thì Viện Khoa học hình sự Tổng cục
cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên
không đủ yếu tố giám định.”

+ Theo Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015(Điều 656 BLDS 2005): (Di chúc bằng
văn bản có người làm chứng):
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh
máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của
người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm
chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.”

=> Từ đó khẳng định rằng không đủ căn cứ để khẳng định di chúc trên là của cụ Hựu.

1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không?
Vì sao?
- Di chúc nêu trên chưa thỏa mãn điều kiện về hình thức, vì:
+ Trong Quyết định số 874/2011/DS-GĐT (mục xét thấy) có đề cập:
“Ông Thưởng (trưởng thôn) không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc. Ủy ban nhân dân
xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận (sau khi cụ Hựu lập di
chúc hơn 01 tháng) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông
Thưởng chứ không xác nhận nội dung di chúc. Mặt khác, qua giám định dấu vân tay
của cụ Hựu thì Viện Khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ
không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.”

- Cơ sở pháp lý: +
+ Theo Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015( Điều 652 của BLDS 2005 ) (Di chúc
hợp pháp):
“3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

+ Theo Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015(Điều 656 BLDS 2005): (Di chúc bằng
văn bản có người làm chứng):
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh
máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của
người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm
chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.”

1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết chữ.
- Các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không
biết chữ bao gồm: Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 và Khoản 3 Điều 652
BLDS 2005 quy định:
“Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

- 2 Quy định di chúc cho người không biết chữ trong BLDS 2015 và 2005 còn sơ
sài, chưa rõ ràng:
+ Không quy định cụ thể người đi công chứng, chứng thực.
+ Khó khăn cho người lập di chúc và người làm chứng.
+ Nguy cơ thay đổi nội dung di chúc, ảnh hưởng đến ý chí người lập.

You might also like