You are on page 1of 9

BÀI TẬP 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC

 Tóm tắt bản án 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên

Ông Này và bà Trọng là vợ chồng hợp pháp nhưng ông Này lại có quan hệ trai gái với bà
Tâm. Ông Này có lập một di chúc để lại cho ông Hiếu (con ông Này và bà Tâm) toàn
quyền sử dụng lô đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 67735, diện tích
225m² đứng tên ông Này, bà Trọng. Di chúc của ông Này để lại là di chúc viết tay. Sau
khi ông Này mất, ông Hiếu đề nghị Tòa giải quyết di chúc theo ý chí của ông Này và chia
thừa kế diện tích đất 2000m² ở Ealam. Tại phiên tòa, ông Hiếu xin nhận ½ lô đất mà ông
Này đã có giấy giao lại cho ông Hiếu sử dụng và xin nhận nhà, thối lại chênh lệch tài sản
cho bà Trọng và rút yêu cầu chia lô đất ở xã Ealam. Bà Trọng trình bày đã đưa cho ông
Hiếu 80.000.000đ nhưng ông Hiếu không chịu mà yêu cầu bà Trọng đưa 120.000.000đ.
Bà Trọng yêu cầu bác bỏ di chúc của ông Này, chia di sản theo pháp luật, xin nhận nhà,
đất và có trách nhiệm thối lại chênh lệch cho các thừa kế. Tòa quyết định: Bà Trọng được
quyền sử sở hữu toàn bộ tài sản, nhà và đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG
677357. Bà Trọng có trách nhiệm thanh toán cho ông Hiếu số tiền 78.795.000đ là phần
thừa kế nhận theo di chúc của ông Này.

1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.

- Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay (chúc thư thủ tự) có giá trị pháp lý là người
lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn, sáng suốt vào thời điểm lập di
chúc:

+ Thứ nhất, người lập di chúc phải là người bình thường, không bị khiếm khuyết thể chất
liên quan đến các chức năng đọc, viết, nghe, nói, ký tên, điểm chỉ (như câm, điếc, mù, cụt
hai tay, mù chữ).

+ Thứ hai, di chúc phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết tay và tự
mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc. Người lập di chúc không được đánh máy chữ, in vi
tính hoặc bằng các cách thức tương tự. (Trích từ giáo trình “Pháp luật về tài sản, quyền
sở hữu và thừa kế”; Tái bản có sửa đổi, bổ sung/ 467, 468)

 Căn cứ vào Điều 633 BLDS 2015

“Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.


Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 631 của Bộ luật này’’.

1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

- Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm
chứng di chúc của ông này bao gồm cha, em trai, em gái đều là người làm chứng không
hợp pháp.

 Căn cứ vào Điều 654 BLDS 2005 về Người làm chứng cho việc lập di chúc

“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.”

- Cả cha, em trai, em gái đều là người thừa kế theo pháp luật và đều rơi vào trường hợp
không được lập di chúc căn cứ theo khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 Người thừa kế theo
pháp luật

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại.”

1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
- Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay. Căn cứ vào bản án số 83 tại
đoạn:

“Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương
công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt
không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là di
chúc hợp pháp”.

- Dựa vào nhận định của Tòa án có thể kết luận rằng di chúc của ông này là di chúc do
ông Này tự viết tay.

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.

- Theo ý kiến của em, hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của
ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay và công nhận di chúc của ông Này là
hợp lý. Vì:

 Căn cứ theo khoản 1 Điều 652 BLDS 2005:

“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây :

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc ; không bị lừa dối, đe
doạ hoặc cưỡng ép ;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội ; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật’’.

 Căn cứ vào Điều 655 BLDS 2005:

“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 653 của Bộ luật này’’.

- Ngoài ra không có quy định khác về việc công chứng, chứng thực hay người làm chứng
cho di chúc tự viết tay. Trong thời gian viết di chúc ông Này đã tự viết, tự ký, không bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và cũng không trái đạo đức, pháp luật, việc có người làm chứng
chỉ làm tăng thêm tính xác thực cho bản di chúc chứ không phải điều kiện đảm bảo bản di
chúc này được xem là hợp pháp nên việc Tòa án quyết định như vậy là hoàn toàn thích
đáng, đúng quy định, thỏa mãn các điều kiện của pháp luật.

 Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.

- Nguyên đơn: ông Đỗ Văn Quang

- Bị đơn: bà Hoàng Thị Ngâm

Nội dung: Tranh chấp và thừa kế tài sản. Theo đơn khởi kiện ngày 16/1/2007, đơn bổ
sung đơn khởi kiện ngàu 12/9/2007. Cụ Đỗ Thị Hựu kết hôn với cụ Đỗ Văn Hằng có 2
người con là ông Đỗ Văn Hồng (đã hy sinh năm 1968, có vợ là bà Hoàng Thị Ngâm và
có 1 con chung là chị Hạnh) và bà Đỗ Thị Lựu. Năm 1950, cụ Hằng chết không để lại di
chúc. Năm 1954, cụ Hựu sống cùng cụ Sách có 1 người con là Đỗ Văn Quang. Ngoài ra,
cụ còn có 1 người con chung với cụ Dị là Nguyễn Thị Diêm, bà Diêm đã được một gia
đình khác nhận nuôi.

Cụ Hựu chết ngày 6/2/2005, di sản cụ để lại gồm thửa đất 56 diện tích 210m 2, thửa đất 54
diện tích 462m2 và thửa đất 57 diện tích 526m 2 ở Hà Nội, trên thửa đất 57 có 01 ngôi nhà
cấp 4 năm gian và 01 giếng nước; nguồn gốc nhà, đất này là của cụ Hằng và cụ Hựu được
thừa hưởng của tổ tiên cụ Hằng để lại. Hiện tại thì bà Ngâm đang quản lý, sử dụng và
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Qua tìm hiểu ông Quang được
biết khi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất bà Ngâm đã xuất trình 01 bản di chúc của cụ
Hựu năm 1998 với nội dung cụ Hựu để lại tài sản nhà, đất cho bà Ngâm và bà Lựu

Ông Quang nay khởi kiện để yêu cầu hủy di chúc nêu trên của cụ Hựu vì bản di chúc này
không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ Hựu theo pháp luật.

Tại bản án dân sự sơ thẩm:

- Chấp nhận yêu cầu của ông Đỗ Văn Quang về việc mở thừa kế di sản của cụ Hựu để lại

- Chấp nhận 1 phần yêu cầu của ông Quang về việc hủy di chúc của cụ Hựu lập ngày
25/11/1998.

- Hủy 1 phần di chúc của cụ Hựu phán quyết của cụ là tài sản chung của dòng họ Đỗ trị
giá: 1.191.475.100đ.

- Chấp nhận 1 phần di chúc của cụ Hựu để lại (phần tài sản của cụ Hựu trị giá
322.426.400đ) đã di chúc cho bà Ngâm và bà Lựu thừa hưởng.
- Bác yêu cầu chia thừa kế di sản cụ Hựu để lại theo pháp luật của ông Quang

Tại bản án dân sự phúc thẩm:

- Bác yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn Quang, giữ nguyên bản án sơ thẩm

Xét thấy:

- Bà Ngâm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Đỗ Văn Vũ là đại diện cho
dòng họ Đỗ cho rằng nhà, đất nêu trên là tài sản của dòng họ Đỗ, nhưng ông Vũ không
xuất trình được chứng cứ chứng minh. Do đó, có căn cứ xác định nhà, đất tranh chấp nêu
trên là di sản của cụ Hằng và cụ Hựu. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ căn cứ vào
lời khai của ông Vũ và sự thừa nhận của bà Ngâm, từ đó xác định diện tích đất tranh chấp
là tài sản của dòng họ Đỗ là không đúng.

- Về phần di chúc của cụ Hựu, ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 652 BLDS 2005. Trong trường hợp này, di chúc của cụ
Hựu có 02 người làm chứng là ông Vũ và cụ Qúy, có xác nhận của trưởng thôn và xác
nhận của Uỷ ban nhân dân. Tuy nhiên trưởng thôn không chứng kiến, mặt khác dấu vân
tay mờ không thể giám định chính xác.

 Chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu.

1.5 Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?

- Đối với di chúc đề ngày 25/11/1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngâm, bà
Đỗ Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu độc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Đỗ Thị Qúy (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng.

- Sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đên cho ông Hoàng Văn Thưởng (là
Trưởng Thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

1.6 Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời.

- Cụ Hựu không biết chữ.

- Đoạn xét thấy của Quyết định số 874: “Đối với di chúc đề ngày 25/11/1998……Uỷ ban
nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.”
1.7 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật

- Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện được quy định tại khoản
1, 3, 5 Điều 630 BLDS 2015 về di chúc hợp pháp

“Điều 630. Di chúc hợp pháp

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:


a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng
của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong
thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di
chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ
ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

- Ngoài ra di chúc cũng cần phải thỏa mãn tại Điều 634 BLDS2015:

“Điều 634. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh
máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người
lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631
và Điều 632 của Bộ luật này.”

 Di chúc cần thoả mãn 4 điều kiện sau


- Di chúc phải được lập thành văn bản bởi người làm chứng.
- Phải có ít nhất 2 người làm chứng.
- Di chúc phải có chức thực hoặc công chứng.
- Người làm di chúc phải ký tên điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt người làm chứng.
1.8 Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?

- Di chúc của ông Hựu đã được lập thành văn bản

- Di chúc của ông Hựu đã được công chức hoặc chứng thực

1.9 Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?

- Các điều kiện nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu là:

+ Ở điều kiện thứ 3: UBND xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký ông Thưởng (trưởng
thôn) mà không xác nhận nội dung di chúc. Ngoài ra, việc chứng thực di chúc không tuân
thủ theo trình tự thủ tục được nêu tại Điều 636 của BLDS 2015.
“1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà
người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau
khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình.
Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký
vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc,
không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký
xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm
chứng.”

+ Ở điều kiện thứ 4: Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc, thì Viện
khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc
điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.

1.10 Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì
sao?
- Di chúc trên không thoả mãn được điều kiện về hình thức do vi phạm điều kiện thứ 3 và
thứ 4:
+ Di chúc đã không được chứng thực theo đúng thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 636.
Tuy là di chúc của ông Hựu dã được hai người làm chứmg và người làm chứng cũng đã
ký tên xác nhận về việc lập di chúc, nhưng việc ký tên không được thực hiện trước mặt
người có thấm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Điều này được thế hiện qua tình tiết:
sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn một tháng thì ông Vũ và bà Quý mới đem bản di chúc đó
ra công chứng. Bên cạnh đó, người có thấm quyền chứng thực của Ùy ban nhân dân cấp
xã cũng không thực hiện bước chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc là
ông Hựu. Hơn nữa, UBND xã cũng xác nhận chữ ký của ông Thưởng, chứ không xác
nhận đến nội dung của bản di chúc.

+ Không có căn cứ để cho rằng ông Hựu dă chỉ điểm vào bản di chúc theo Điều 634
BLDS. Cụ thể, Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát dã kết luận dấu vân tay trên bản
di chúc mờ, không thế hiện rð các đặc điếm riêng nên không đủ yếu tố giám định.

1.11 Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết chữ.

 Theo khoản 3 Điều 630 tại BLDS 2015

“Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

- Các quy định liên quan đến di chúc của người không biết chữ trong BLDS có khá nhiều
điều kiện về hình thức so với di chúc thông thường. Tuy nhiên, trong thực tế các điều luật
quy định tuy chặt chẽ này vẫn không thế xóa bỏ trường hợp di chúc được lập ra không
hoàn toàn truyền tải được ý niệm của người chết.

- Bộ luật dân sự quy định về việc công chứng và chứng thực của di chúc nhưng không
nêu người đi công chứng hoặc chứng thực là ai. Vì vậy, nên bổ sung thêm quy định này
vào chế định di chúc của người không biết chữ. Theo đó, người đi công chứng hoặc
chứng thực phải là người lập di chúc hoặc là người thể hiện ý chí của người lập di chúc
thành văn bản để đảm bảo sự rõ ràng, chính xác của di chúc, để tránh sự thay đổi di chúc
không đúng với ý chí của người lập di chúc, từ đó tránh các tranh chấp xảy ra trên thực
tế.

- Các nhà làm luật nên cân nhắc đến những hình thức mới cho di chúc của người không
biết chữ như dùng băng ghi hình. Việc lắng nghe trực tiếp tâm tư, nguyện vọng của chính
người lập di chúc sẽ dảm bảo tính xác thực cũng như tiết kiệm thời gian cho quá trình lập
di chúc.

You might also like