You are on page 1of 5

Vấn đề 1: Hình thức của di chúc

* Tóm tắt Bản án số 83/2009/DS-PT


- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh Hiếu
- Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng
- Nội dung Bản án:
Ngôi nhà số 27 đường Lê Lợi, khu phố 6, thị trấn Hai Riêng, huyện sông Hinh, tỉnh Phú Yên
được xây dựng trên diện tích đất 255m2 (đo thực tế 275m2) thuộc thửa đất số 83, tờ bản đồ số 8 –
Bản đồ địa chính trị đất số AG 677357 ngày 02/05/2007 đứng tên ông Nguyễn Này, bà Đặng Thị
Trọng, là tài sản thuộc sở hữu chung hợp pháp của ông Này, bà Trọng. Ông Này và bà Trọng kết
hôn với nhau từ năm 1970 nên được coi là hôn nhân hợp pháp, do đó việc định đoạt tài sản thuộc
sở hữu chung của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của hai bên theo quy định của pháp luật. Do
điều kiện hoàn cảnh nên bà Trọng không ở cùng với gia đình tại căn nhà số 27 đường Lê Lợi mà
ở cùng với con gái là chị Sương tại Ea Lâm, Sông Hinh. Ngày 16/11/2008 ông Nguyễn Này qua
đời, trước khi qua đời ông đã lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu
chung của ông và bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này trước sự chứng
kiến của nhiều người và được lập lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép nên được coi là di chúc hợp pháp nhưng bà Trọng không cho ông Hiếu tiếp tục
hành nghề mà đuổi khỏi nhà . Ông Hiếu đã khởi kiện, xin nhận 1/2 lô đất, xin nhận nhà và thối
lại chênh lệch tài sản cho bà Trọng. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2009/DSST ngày
15/10/2009, Tòa án quyết định chấp nhận yêu cầu của ông Hiếu về việc tranh chấp di sản thừa
kế, bà Trọng được nhận toàn bộ tài sản, nhà và đất và có trách nhiệm thối chênh lệch cho ông
Hiếu số tiền tương đương với một nửa giá trị căn nhà. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trọng, bà
Rơi, bà Sương, bà Sinh và ông Toàn xin rút lại toàn bộ kháng cáo một cách tự nguyện. Vì các lẽ
đó, Tòa án quyết định bà Trọng được quyền sở hữu toàn bộ tài sản, nhà và đất thuộc căn nhà tọa
lạc tại 27 Lê Lợi, khu phố 6, thị trấn Hai Riêng, Sông Hinh do ông Này và bà Trọng đứng tên.
Bà Trọng có trách nhiệm thanh toán lại cho ông Hiếu số tiền 78.795.000 đồng là phần thừa kế
được nhận theo di chúc của ông Này.

* Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT


- Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang
- Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm
- Nội dung của Quyết định:
Nhà, đất tranh chấp tại thôn Lê Xá, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là tài sản
của tổ tiên cụ Đỗ Văn Hằng để lại cho vợ chồng cụ Hằng và cụ Đỗ Thị Hựu quản lý. Sau khi cụ
Hằng chết vào năm 1949, cụ Hựu tiếp tục quản lý nhà, đất đến khi cụ chết(năm 2005). Vào năm
2004 – 2005 bà Hoàng Thị Ngâm đại diện cho cụ Hựu đã đứng tên kê khai, đăng ký đối với đất
tranh chấp. Bà Ngâm đã xuất trình bản di chúc đề ngày 25/11/1998 của cụ Hựu, bà Ngâm, bà Đỗ
Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ
Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc
đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác nhận. Ông Quang
bác bỏ ý kiến trên khi xác nhận cụ Hựu là người không biết chữ. Ông Quang khởi kiện yêu cầu
hủy bản di chúc nêu trên của cụ Hựu vì bản di chúc này không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế
đối với di sản của cụ Hựu theo pháp luật. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 28/2007/DSST
ngày24/12/2007, TAND huyện Đông Anh quyết định: Chấp nhận yêu cầu của ông Quang về
việc mở di sản thừa kế của cụ Hựu để lại, bác bỏ yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hựu để lại
theo pháp luật của ông Quang. Ông Quang kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm. Tại bản
án dân sự phúc thẩm số 41/2008/DSPT ngày 12/09/2008, TAND thành phố Hà Nội quyết định:
Bác bỏ yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn Quang, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Mặt khác, ông
Thưởng trưởng thôn không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc,UBND xã Mai Lâm xác nhận là do
bà Lựu mang di chúc đến xác nhận và UBND chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không
xác nhận nội dung của di chúc. Đồng thời, qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc
thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc
điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó, chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể
hiện đúng ý chí của cụ Hựu. Tòa án cấp sở thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm công nhận di chúc
ngày 25/11/1998 của cụ Hựu là hợp pháp là chưa có đủ căn cứ. Vì vậy, TAND tối cao quyết
định hủy bản án dân sự phúc thẩm số 41/2008/DSPT của TAND thành phố Hà Nội và hủy bản
án dân sự sơ thẩm số 28/2007/DSST của TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội về vụ án
tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Đỗ Văn Quang với bị đơn là bà Hoàng Thị
Ngâm. Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.

1.1) Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc viết tay có giá trị pháp lý là người lập di chúc phải tự mình
viết bằng chữ viết tay, ký tên vào bản di chúc (Điều 633 BLDS 2015)

1.2) Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm
chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Di chúc của ông Này có cha, em gái và em trai ông Này là người làm chứng; căn cứ vào
Điều Điều 632 BLDS 2015, Điều 654 BLDS 2005:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

Mà người thừa kế theo di chúc của ông Này là ông Hiếu, người thừa kế theo pháp luật của ông
Này là bà Trọng, cha ông Này. Vì vậy em trai, em gái ông Này là người làm chứng hợp pháp.

1.3) Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Phần di chúc của ông Này là viết tay. Sau khi nghiên cứu các số liệu của hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận của các bên đương sự, Hội đồng xét sử phúc thẩm đã nhận
định như sau:
“Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn Này lập giấy giao quyền thừa
kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông và bà Trọng cho Nguyễn Thành
Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên
làm chứng. Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền
địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn,
sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp.”
1.4) Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di
chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Nhóm tác giả đồng ý với hướng giải quyết của Tòa án bởi tuy bản di chúc này không có công
chứng, chứng thực của chính quyền địa phương nhưng có hai người làm chứng cho việc lập di
chúc hợp pháp là em gái, em trai của ông Này. Những người này đều là người làm chứng hợp
pháp theo Điều 654 BLDS 2005. Nên bản di chúc này là hợp pháp theo Điều 656 BLDS 2005.

1.5) Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?


Căn cứ vào phần Xét thấy của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao thì di chúc của cụ Hựu là do bà Ngâm xuất trình. Bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Đỗ Văn
Vũ khai di chúc do ông Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Thúy
(mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng. Sau đó bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn
Thưởng (trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác nhận.

1.6) Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Câu trả lời được thể hiện tại phần Xét thấy của Quyết định trong
đoạn : “Bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Đỗ Văn Vũ (đại diện dòng họ Đỗ) khai di chúc do cụ
Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ông Vũ) ký tên làm
chứng” và “ ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.”

1.7) Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức
phù hợp với quy định của pháp luật?
Kế thừa ý chí của BLDS 2005 thì Căn cứ tại Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 quy định về di
chúc hợp pháp: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.” Và đồng thời còn
phải thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 634 BLDS 2015 về di chúc bằng văn bản có
người chứng: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình
đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những
người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và
ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định
tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.”
Do đó, theo quy định của pháp luật thì di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các
điều kiện để có hình thức phù hợp với quy định pháp luật như là:
- Di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản.
- Di chúc phải có công chứng hoặc chứng thực.
- Di chúc có ít nhất hai người làm chứng
- Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những
người làm chứng
- Người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào
bản di chúc.

1.8) Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Di chúc của cụ Hựu đã đáp ứng được những điều kiện về di chúc hợp pháp được quy định tại
Khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 (cũng như tại Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015):
- Di chúc của cụ Hựu có hai người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý.
- Đồng thời, bản di chúc của cụ Hựu là do ông Hựu đọc cho ông Vũ viết, do đó
di chúc đã được người làm chứng là ông Vũ đã lập thành văn bản.
Điều này cho thấy di chúc của cụ Hựu đã đáp ứng được điều kiện là có ít nhất hai người làm
chứng và được người làm chứng lập thành văn bản.

1.9) Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của Hựu là: công chứng chứng thực.
Công chứng chứng thực ở đây là theo thủ tục công chứng chứng thực quy định tại Điều 636
BLDS 2015 về Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp
xã. Trong phần xét thấy Quyết định số 874 thì có xác nhận ông Thưởng (là trưởng thôn) và xác
nhận UBND Xã Mai Lâm xác nhận do bà Lựu mang di chúc để xác nhận (sau khi cụ Hựu lập di
chúc hơn 1 tháng) và UBND Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của Ông Thưởng chứ không xác
nhận nội dung di chúc.
Về điều kiện người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những
người làm chứng thì không đáp ứng được mặc dù chữ ký của hai người làm chứng là ông Vũ và
cụ Quý là phù hợp nhưng dấu vân tay điểm chỉ cụ Hựu lại không được công nhận vì qua giám
định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết
luận: dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.

1.10) Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
Theo em, di chúc được nêu tại Quyết định số 874/2011/DS-GĐT không thỏa mãn các
điều kiện về hình thức. Mặc dù di chúc đã được của cụ Hựu đã được hai người làm chứng và
người làm chứng cũng đã ký tên xác nhận về việc lập di chúc nhưng việc ký tên không được
thực hiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Điều này được thể hiện
qua tình tiết: sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn một tháng thì lúc này ông Vũ và bà Quý mới đem
bản di chúc đó ra công chứng. Bên cạnh đó, người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân
dân cấp xã cũng không thực hiện bước chứng nhận di chúc trước mặt người lập di chúc là cụ
Hựu, và UBND xã cũng chỉ xác nhận chữ ký của ông Thường chứ không xác nhận nội dung của
bản di chúc cho nên di chúc không được chứng thực theo đúng thủ tục được quy định.
Và đồng thời cũng không có căn cứ để chỉ ra rằng cụ Hựu đã chỉ điểm vào bản di chúc. Vì
Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát đã kết luận dấu vân tau trên bản di chúc bị mờ, không
thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.

1.11) Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ.
Quy định liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ được quy định khá chặt
chẽ. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 630 và Điều 634 BLDS 2015 quy định: “Di chúc của người không
biết chữ phải được lập thành văn bản thông qua việc nhờ người khác viết tay hoặc đánh máy,
nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng; người lập di chúc phải điểm chỉ trước mặt những
người làm chứng và những người làm chứng cùng ký tên vào di chúc, và cuối cùng là di chúc ấy
phải được công chứng hoặc chứng thực bởi công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của UBND xã”. Có thể thấy các nhà làm luật đã dự trù được các khả năng xảy ra và có biện
pháp phòng ngừa, tuy nhiên BLDS chưa đề cập đến việc người viết di chúc hộ có được làm
người chứng thực hay không, cũng như chưa đề cập đến việc người mang di chúc đi công chứng
hoặc chứng thực phải là người thể hiện được ý chí của người lập di chúc thành văn để đảm bảo
sự chính xác, rõ ràng của di chúc, để tránh sự thay đổi di chúc không đúng với ý chí của người
lập di chúc, từ đó tránh các vấn đề tranh chấp xảy ra trên thực tế. Và việc phải thông qua nhiều
chủ thể để cho ra đời bản di chúc cuối cùng suy cho cùng là khá tốn thời gian và nhân, do đó các
nhà làm luật nên cân nhắc đến những hình thức mới cho di chúc của người biết chữ như dùng
băng ghi hình. Việc lắng nghe cũng như quan sát trực tiếp tâm tư, nguyện vọng của người lập di
chúc sẽ đảm bảo tính xác thực cũng như tiết kiệm được thời gian trong quá trình lập di chúc.

You might also like