You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ


BÀI THẢO LUẬN 7: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UYÊN
LỚP: HS45.2

Họ và tên MSSV
1. Dương Vinh Quang 2053801013136
2. Lê Trung Nghĩa 2053801013097
3. Đỗ Nhật Quang 2053801013135
4. Nguyễn Tấn Thành 2053801013147
5. Trịnh Lâm An Nhi 2053801013119
6. Văn Thị Ngân 2053801013094
7. Huỳnh Nhật Anh Phi 2053801013125
BUỔI THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 7: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Phần 1: Xác định vợ/chồng của người để lại di sản.


1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Khoản 1 điều 650 BLDS 2015 quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong
vụ việc được nghiên cứu.

Theo em Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc trên là hoàn toàn
hợp lý. Bởi vì “các nguyên đơn khẳng định chỉ có lời trăng trối của bà Tần nói
với các con về việc chia đất cho bà Tiến do bà Bằng ghi lại nhưng bị ông Thăng
xé đi” , như vậy có thể khẳng định rằng di chúc không hợp pháp.

3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Vợ chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Căn cứ điểm a) khoản 1 điều 651 BLDS 2015


Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết

4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không? Vì sao?

Cụ Thát và cụ Thứ không có đăng ký kết hôn. Vì “ông không công nhận cụ
Phạm Thị Thứ là vợ của cụ Thát. Cụ Thứ ở tại nhà ông là do gia đình cho ở
nhờ” , như vậy có thể khẳng định cụ Thát và Cụ Thứ không có đăng ký kết hôn
mà chỉ chung sống với nhau như vợ chồng và có 1 người con riêng là bà Tiến.

5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng quyền thừa kế của nhau? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày có
hiệu lực của Luật hôn nhân và gia đình 1986) dù không đăng ký kết hôn vẫn

1
được công nhận là vợ chồng hợp pháp, như vậy chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng không đăng ký kết hôn vẫn được hưởng quyền thừa kế của nhau.
Khoản 1 điều 11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 và Nghị quyết 35/2000/NQ-
QH10
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau
đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều
14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không
có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như
sau:
a. Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01
năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng
ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu
ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000;
6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào? Đoạn
nào của bản án cho câu trả lời.
Ngoài sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần.
Đoạn:
“Các đương sự đều thống nhất là cụ Thát mất năm 1961 có vợ là cụ Tần mất
năm 1995 có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển.
Theo các nguyên đơn và bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ
(mất năm 1994) có 1 con là bà Tiến.”.
7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối
năm 1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối
năm 1960 thì cụ Thứ không là người thừa kế của cụ Thát. Trường hợp này cụ
Thát và cụ Thứ sống ở miền Bắc thì theo như Khoản a Mục 4 của Nghị quyết
số 02/HĐTP ngày 19/10/1990: ” a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ
(trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục
văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền
Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy
thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp
luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả
các người vợ.”.
8. Câu trả lời có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam thì câu trả lời sẽ khác: Cụ Thứ sẽ là
người thừa kế của cụ Thát. Bởi vì cụ Thứ và cụ Thát sống với nhau như vợ
chồng từ trước ngày 25/3/1977. Căn cứ vào Khoản a Mục 4 của Nghị quyết số

2
02/HĐTP ngày 19/10/1990: “” a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ
(trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 -
đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản
pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối
với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc
kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các
người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại,
người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”.
9. Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế
của cụ Thát.
Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp lý mặc dù thời
điểm khởi kiện là năm 2009, áp dụng Khoản 2 điều 8 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000: “2. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo
quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn;” và Bộ luật
Dân sự năm 2005 ở Điểm a Khoản 1 Điều 676: ” a) Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết;” thì việc xem cụ Thứ là hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thát là không đúng
luật. Nhưng bởi vì thực tế cụ Thứ và cụ Thát đã sống chung như vợ chồng trước
năm 19601 thì vẫn xem như là người thừa kế hàng thứ nhất của cụ Thát.

Phần 2: Xác định con của người để lại di sản


1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Tại điểm a khoảng 1 điều 651 blds 2015 quy định: hàng thừa kế thứ nhất bao
gồm: vợ, chồng , cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết
2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của của người để
lại di sản? nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Căn cứ theo điểm d điều 3 luật hộ tịch năm 2014 quy định: ghi vào sổ hộ tịch
việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nuôi con nuôi chấm dứt việc nuôi con nuôi ( vì vậy 1 người được nhận
và ghi vào sổ hộ tịch thì sẽ trở thành con nuôi của gia đình đó )
Trường hợp nếu đã nhận con nuôi nhưng chưa làm thủ tục đang ký thì theo
khoảng 1 điều 23 nghị định số 19 ND-CP: việc nuôi con phát sinh trên thực tế giữa
công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011,
nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con
nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12
năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.
Khoảng 1 điều 50: việc Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu
lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời
điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và
cả hai bên còn sống;
1
Ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
3
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau
như cha mẹ và con.
3. Trong bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Các nguyên đơn trình bày: các bà có nghe nói trước đây bố mẹ các bà có
nhận bà Nguyễn Thị Tý là con nuôi, sau đó bà Tý về với bố mẹ đẻ và đi lấy chồng.
Anh Trần Việt Hùng, chị Trần Thị Minh Phượng, chị Trần Thị Hồng Mai,
chị Trần Thị Hoa trình bày: Mẹ đẻ của các anh chị là bà Nguyễn Thị Tý trước đây
có là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần trong thời gian khoảng 6 đến 7 năm,sau đó bà
Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống.Trong lý lịch của cụ Thất, cụ Tần không ghi phần con
nuôi là bà Tý.Các con của cụ Thất và cụ Tần cũng biết việc bà Tý là con nuôi của
hai cụ
4. Toà án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào
của bản án cho câu trả lời?
Toà án không coi bà Tý là con nuôi, tại bản án dân sự sơ thẩm số
28/2008/DS-ST xác định bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của cụ Thất, cụ
Tần,cụ Thứ
Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thất gồm 7 người: 1.Cụ Nguyễn Thị Tần. 2.Cụ
Phạm Thị Thứ. 3.Ông Nguyễn Tất Thăng
5. Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trên của Toà án liên quan đén bà Tý
Hướng giải quyết của Toà án là hợp lý vì theo lời khai của các con bà Tý
trong lý lịch của cụ Thác cụ Tần không ghi nhận bà Tý là con nuôi như vậy quan hệ
con nuôi này không được dăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên bản án
không nêu rõ việc nhận con nuôi vào thời gian nào do đó không đủ căn cứ quan hệ
con nuôi này có giá trị pháp lý hay không bởi lẻ nếu việc con nuôi được xác lập
trước khi luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực,con nuôi và cha mẹ nuôi
được hưởng thừa kế của nhau đây đươc coi là trường hợp con nuôi thực tế.Tuy
nhiên dù không đủ cơ sở pháp lý nhưng cách xử lý trên lại phù hợp với thực tiễn xét
xử.Trong thực tiễn nếu việc nuôi con chỉ tồn tại trong thời gian ngắn thì không đủ
cơ sở đó là con nuôi thực tế,việc cụ Tý làm con nuôi của cụ Thác và cụ Tần 6 đến 7
năm toà án đã theo hướng xác định cụ Tý không phải con của cụ Tý và cụ Tần
6. Trong quyết định số 182, Toà án xác định của anh Tùng được hưởng
thừa kế với tư cách nào?vì sao ?
Toà án xác định anh Tùng được hường thừa kế với tư cách là con nuôi vì ông
Tùng đã có công chăm sóc nuôi dưỡng cho hai cụ khi già yếu, khi 2 cụ chết anh
Tùng còn đứng ra lo mai táng cho hai cụ không những vậy anh Tùng con quản lý
khối tài sản khi chị Ngan vắng mặt
7. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến
anh Tùng.
Tòa án đã xác định ông Tùng là con nuôi trên thực tế của 2 cụ và nếu ông
Tùng có yêu cầu được chia di sản của hai cụ Cầu và cụ Dung thì giải quyết theo
pháp luật là hợp lí và đúng theo theo pháp luật.
Vì trường hợp để một người được coi là con nuôi của người để lại di sản khi:
nếu như đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 mà chưa đăng kí thì vẫn chấp nhận là con nuôi trên thực tế. Ông Tùng đã ở với
hai cụ Cầu và cụ Dung từ năm hai tuổi vì cha mẹ ông Tùng chết sớm, ông Tùng mồ
côi từ nhỏ và 2 cụ là bà con họ hàng( có sự xác nhận của các cụ cao tuổi trong làng).

4
Vì vậy, ông Tùng đã ở với 2 cụ từ năm 1951( trước khi có Luật hôn nhân và gia
đình năm 1986) và 2 cụ đã nuôi dưỡng ông từ nhỏ, khi hai cụ già yếu ông là người
phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết ông cũng là người mai táng. Theo
Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha
nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ:" Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản
của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ
luật này". Nếu ông Tùng yêu cầu chia di sản của 2 cụ Cầu và Dung thì Tòa án sẽ
giải quyết theo pháp luật để đảm bảo quyền lợi của ông Tùng.
8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế
của cụ Cầu và cụ Dung không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 thì anh Tùng không được hưởng thừa kế của cụ Cầu
và cụ Dung.
Vì theo Khoản 1, Điều 50 Luật nuôi con quy định:
"1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có
hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký
trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện
sau đây:
a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời
điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và
cả hai bên còn sống;
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau
như cha mẹ và con."
Xét đến thời điểm Luật này có hiệu lệnh, ông Phạm Ngọc Cầu đã mất năm
1976 và Nguyễn Thị Ngọc Dung mất năm 1972. Vì vậy, cha mẹ nuôi của ông Tùng
không còn sống và không đạt đủ điều kiện trên. Ông Tùng không được xác nhận là
con nuôi trên thực tế của cụ Cầu và cụ Dung nên không được hưởng thừa kế.
9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Dựa theo Khoản a,
Điều 165 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo Pháp luâ ̣t:
" a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;"
10. Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?
Trong bản án có những đoạn cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát như:
" Xác định cụ Thát và cụ Thứ có một người con là Nguyễn Thị Tiến"
" Xác định cụ Nguyễn Tất Thát có hai người vợ, vợ và cả là cụ Nguyễn Thị Tần
và hai là cụ Phạm Thị Thứ"
" Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban Nhân dân
Phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là là Nguyễn Đức Thát và mẹ là Phạm Thị
Thứ"
" Các nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi sinh năm 1922 ở tổ 37, cụm 5,
phường Xuân La; ông Nguyễn Văn Chung sinh năm 1940, năm 2002 là tổ trưởng tổ
dân phố và ông Nguyễn Hoàng Đăm sinh năm 1947 ở quận 10, tổ 52, phường Bưởi,

5
quận Tây Hồ, Hà Nội đều khẳng định cụ Thất là vợ hai cụ Thứ, bà Tiến là con của
cụ Thát và cụ Thứ"
11. Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến Bà
Tiến.
Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tiến là hợp tình hợp lý.
Tòa án xác nhận bà Tiến là con đẻ của cụ Thát là có cơ sở, dẫn chứng. Ông
Thát có hai người vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị Tần và vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ.
Cụ Thát và cụ Thứ có người con chung là bà Tiến( có đầy đủ nhân chứng xác nhận
như các cụ trong xóm, các nguyên đơn và bà Khiết; bà Tiến xuất trình được các
giấy tờ liên quan có thẩm quyền của cơ quan chính quyền Nhà nước như sơ yếu lý
lịch, giấy khai sinh chính do Ủy ban Nhân dân Phường Xuân La cấp ghi). Hai cụ
xác lập hôn nhân ở miền Bắc và trước ngày 13/1/1960 nên căn cứ vào nghị quyết số
2/HDTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao 19/1/1990, cụ Tứ là vợ
hợp pháp của cụ Thát. Đồng thời ông Thăng không công nhận cụ Thứ là vợ cụ Thát
và bà Tiến là con đẻ cụ Thát nhưng không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào.
12. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu con rể là người
thừa kế của cha mẹ chồng cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp
luật mà anh chị biết.
Có hệ thống pháp luật nước ngoài xác định con dâu, con rể là người thừa kế của
cha mẹ chồng, cha mẹ vợ. Pháp luật của nước Ba Lan có quy định thừa kế theo
pháp luật được ghi nhận cho cha mẹ vợ, chồng có nghĩa là pháp luật này ghi nhận
quyền thừa kế của con dâu, con rể đối với cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng.
Hiến pháp Ba Lan là đạo luật tối cao ở Ba Lan đương đại, và hệ thống pháp luật
Ba Lan được dựa trên nguyên tắc quyền dân sự, chi phối bởi các quy định của Luật
Dân sự. Trong lịch sử, văn kiện pháp lý nổi tiếng nhất của Ba Lan là Hiến pháp
ngày 3 tháng 5 năm 1791. Bản Hiến pháp này cũng đã tuyên bố thiết lập một chế độ
quân chủ lập hiến dân chủ. Hiến pháp 1791 đã công nhận sự bình đẳng về chính trị
giữa những người thị dân và giới quý tộc (szlachta), và đặt người nông dân dưới sự
bảo vệ của chính phủ, qua đó hạn chế được sự bóc lột của chế độ nông nô. Hiến
pháp hiện tại của Ba Lan đã được Quốc hội Ba Lan thông qua vào ngày 2 tháng 4
năm 1997, được đa số cử tri cả nước chấp thuận sau một cuộc trưng cầu dân ý quốc
gia. Hiến pháp bảo đảm một quốc gia đa đảng, các quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn
luận, tự do lập hội, và đặc biệt gạt bỏ hầu hết các lý tưởng cộng sản để tạo ra một
"hệ thống kinh tế thị trường tự do". Nó đòi hỏi các quan chức nhà nước phải theo
đuổi các chính sách công cộng về sinh thái và thừa nhận quyền bất khả xâm phạm
của các gia đình, quyền thành lập công đoàn và đình công, đồng thời nghiêm cấm
các hành vi cưỡng bức, tra tấn và trừng phạt thân thể.

Phần 3: Con riêng của vợ/chồng.


1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần.
Trong phần xét thấy của bản án, Tòa đã ghi nhận những chứng cứ chứng minh bà
Tiến là con riêng của chồng cụ Tần, trong đó bà Tiến xuất trình được lý lịch và giấy
khai sinh do chính Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là
Nguyễn Tất Thát (chồng của cụ Nguyễn Thị Tần), mẹ là Phạm Thị Thứ (vợ hai của
cụ Thát). Ngoài ra còn có những nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi, ông
6
Nguyễn Văn Chung và ông Nguyễn Hoàng Đăm đều khẳng định cụ Thứ là vợ hai
cụ Thát, bà Tiến là con của cụ Thát và cụ Thứ.
2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được
thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”2
=> Như vậy có thể suy ra nếu đưa ra được những bằng chứng xác thực cho thấy
con riêng của chồng và vợ (mẹ kế) có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ
con thì người con riêng đó được thừa kế di sản của vợ.
3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến không đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần.
Căn cứ theo Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và
bố dượng, mẹ kế và xét thấy trong bản án số 20/2009/DSPT không đề cập đến
những cơ sở xác thực cho thấy bà Tiến và cụ Tần chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như
mẹ con. Tuy có nêu việc bà Bằng chắp bút ghi lại lời dặn dò của bà Tần là chia nhà
đất cho bà Tiến nhưng phía nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ chứng minh.
4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Nếu bà Tiến đáp ứng đủ điều kiện theo Điều 654 BLDS 2015 thì bà Tiến được
hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần.
Điều 654 BLDS 2015 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau
và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật
này.”
Ta có Điều 652 BLDS 2015 quy định như sau: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi
được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651
và Điều 652 của Bộ luật này.”3
Và quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết.”4
=> Như vậy nếu ghi nhận được bà Tiến và cụ Tần có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc
như mẹ con, tức giống như mối quan hệ giữa con nuôi với mẹ nuôi thì bà Tiến sẽ
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần.

2
Tương ứng với Điều 679 Bộ luật Dân sự năm 2005.
3
Tương ứng với Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2005.
4
Tương ứng với điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005.
7
5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần.
Việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối với di sản của cụ Tần
là đúng theo pháp luật.
Căn cứ theo Điều 654 BLDS 2015, phía bà Tiến và các nguyên đơn không đưa ra
được căn cứ xác thực việc bà Tiến và cụ Tần chăm sóc, nuôi dưỡng như mẹ con
cũng như không có chứng cứ chứng minh trăn trối của cụ Tần về việc để lại nhà đất
cho bà Tiến. Vì vậy việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối
với di sản của cụ Tần là hợp lý, đúng theo quy định của pháp luật và bảo vệ được
quyền của những người thừa kế đối với di sản của cụ Tần.
6. Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh
của con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.
Chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của con riêng của chồng/vợ trong BLDS
hiện nay vẫn còn khá mơ hồ. Cụ thể tại Điều 654 BLDS 2015 quy định : “ Con
riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con,
mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định
tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
=> Như vậy điều kiện để con riêng được hưởng thừa kế đối với tài sản của bố
dượng, mẹ kế là “có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con”, tiêu
chí này vốn dĩ đã trừu tượng khi áp dụng vào thực tế phức tạp càng gây ra nhiều bất
cập hơn:
+ Tiêu chí này không nêu rõ tính chất quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng này:
Chăm sóc, nuôi dưỡng về vật chất hay về tinh thần? Cung cấp vật chất, tinh thần
bao nhiêu là đủ? Chăm sóc, nuôi dưỡng trong khoảng thời gian bao lâu? Quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng một chiều có được hưởng thừa kế hay không? Như vậy sẽ
gây khó khăn cho những người thừa kế khi đưa ra cơ sở chứng minh mối quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng này.
+ Trong thực tế mối quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế rất phức
tạp, ít những trường hợp thân thiết như quan hệ cha con, mẹ con ruột. Những vụ án
như thế khi đưa ra Tòa giải quyết thường đi theo nhiều hướng khác nhau: có khi cho
phép con riêng được hưởng thừa kế, có khi trích công sức chăm sóc cho con riêng,
cũng có trường hợp không cho hưởng thừa kế và phủ nhận công chăm sóc của con
riêng. Như vậy cần phải có những sửa đổi, bổ sung vào tiêu chí này để hạn chế và
tránh những bất cập khi giải quyết các vụ án, đồng thời bảo vệ được quyền lợi của
những người thừa kế.

Phần 4: Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba


1. Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của
cụ T5 không? Vì sao?
- Trong vụ việc trên nếu chị C3 còn sống thì chị được hưởng thừa kế của cụ T5.
- Tuy bà Đỗ Thị Thanh T5 (không có chồng) nhận chị chị Đỗ Đức Phương C3
làm còn nuôi không có đăng ký nuôi con theo quy định của pháp luật nhưng

8
mối quan hệ tồn tại trên thực tế và được gia đình phía cụ T5 thừa nhận. Đồng
thời căn cứ vào sổ hộ khẩu (BL238) gia đình cụ T5 do Công an thị xã H (nay là
Công an thành phố H) cấp năm 1995, thể hiện chị C3 có mối quan hệ với bà T5
là con, ngoài chị C3 thì bà T5 không có con nào khác. Mặt khác, theo Điểm a
Điều 6 Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân
và gia đình thì trường hợp của bà T5 nhận nuôi chị C3 là con nuôi thực tế. Nên
chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất của bà T5 theo quy
định tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết”.
2. Khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Chế định thừa kế thế vị được áp dụng khi thõa các điều kiện sau:
+ Giữa họ phải có quan hệ huyết thống trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế vị trí của cha,
mẹ đẻ).
+Khi người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (cha,
mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà hoặc các cụ).
+Người thế vị phải còn sống vào thời điểm người được thế vị chết hoặc nếu sinh ra và
còn sống sau thời điểm người được thế vị chết thì phải thành thai trước thời điểm
người được thế vị chết.
+Khi còn sống người cha hoặc mẹ của người được thế vị phải có quyền được hưởng di
sản của người chết (nếu bị tước hoặc truất quyền hưởng di sản thừa kế thì con hoặc
cháu của người này không thể thế vị).
- Cơ sở pháp lý là căn cứ vào Điều 652 BLDS năm 2015 quy định về thừa kế thế
vị: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
3. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng kế
thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng
thừa kế thế vị.
- Thừa kế thế vị chỉ áp dụng cho trường hợp con, cháu của người con chết trước
(hoặc cùng) cha/mẹ. Căn cứ vào Điều 652 của BLDS năm 2015: “Trường hợp
con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để
lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng
nếu còn sống”.
4. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế
vị của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
- Trong vụ việc trên Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5 là thuyết phục.

9
- Vì thừa kế thế vị chỉ áp dụng cho cháu của người để lại di sản khi con của
người để lại di sản chết trước. Trường hợp này người được hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5 là hai người con của chị C3 bao gồm cháu Thiều Thụy Thùy T7 và
Thiều Đỗ Gia H4.
- Cơ sở pháp lý là căn cứ vào Điều 652 của BLDS năm 2015 về Thừa kế thế vị:
“Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của chắt được hưởng nếu còn sống”.
5. Theo quan điểm của tác giả, con đẻ của con nuôi người quá cố có thể được
hưởng thừa kế thế vị không?
- Theo quan điểm của tác giả, con đẻ của con nuôi người quá cố có thể được
hưởng thừa kế thế vị.
- Vì tác giả đã nêu ra đầy đủ căn cứ về quan hệ thừa kế giữa chị C3 và bà T5: Tại
thời điểm năm 1979, bà T5 nhận chị C3 làm con nuôi nhưng không đăg ký nuôi
con theo quy định của pháp luật, Tuy nhiên, căn cứ Nghị quyết số 01/NQ-
HDDTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
thị chị C3 được ông Đỗ Quang V và bà Đỗ Thị T2 thống nhất, thừa nhận là bà
T5 nhận chị C3 làm con nuôi. Đồng thời căn cứ vào sổ hộ khẩu (BL238) gia
đình cụ T5 do Công an thị xã H (nay là Công an thành phố H) cấp năm 1995,
thể hiện chị C3 có mối quan hệ với bà T5 là con, ngoài chị C3 thì bà T5 không
có con nào khác. Nên chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất
của bà T5 theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015: “Hàng
thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết”. Và từ đó tác giả đã căn cứ vào Điều 677 về Thừa kế thế
vị BLDS năm 2005 thì cháu T7 và cháu H4 được thừa kế thế vị di sản của bà
T5. Vậy theo quan điểm của tác giả, con đẻ của con nuôi người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị.
6. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được
hưởng thừa kế thế vị của cụ T5?
- Đoạn cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ
T5: “Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) cả hai không để lại di
chúc nên hai cháu T7 và H4 được thừa kế thế vị di sản của bà T5 theo quy định
tại Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó, anh Thiều Văn C1 là bố cháu
T7 và cháu H4 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận cháu T7 và cháu H4 được
quyền thừa kế di sản của bà T5 để lại là có căn cứ.”
7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị cụ T5.
- Về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là
hoàn toàn hợp lý:
+ Theo Điều 652 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

10
+ Điều 653 BLDS năm 2015: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của
nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật
này.”
=> Nếu chị C3 còn sống, chị C3 hoàn toàn có quyền được hưởng thừa kế từ cụ T5 với
tư cách là con nuôi thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật. Nhưng chị C3 đã chết
trước cụ T5 (chị C3 chết năm 2007, cụ T5 chết năm 2009) và chị C3 có hai con ruột là
cháu T7 và cháu H4 đều còn sống tại thời điểm cụ T5 chết cho đến khi Tòa án xét xử
vụ án (năm 2018). Vì vậy, theo Điều 652, Điều 653 BLDS 2015 đã nêu trên thì con đẻ
của chị C3 được thay thế chị hưởng thừa kế thế vị di sản từ cụ T5.

8. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng
đối với thừa kế theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 652 của BLDS 2015 quy định:
“Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu
được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu còn sống”. 
Qua đó có thể hiểu rằng, thừa kế thế vị là việc cháu hoặc chắt được hưởng di sản
của ông, bà hoặc cụ với tư cách thay thế vị trí của người cha hoặc người mẹ của
mình để nhận phần di sản mà cha hoặc mẹ của mình được hưởng nếu còn sống. Như
vậy, thừa kế thế vị là một trường hợp đặc thù của thừa kế theo pháp luật, được căn
cứ phát sinh dựa trên cơ sở thừa kế theo pháp luật không phát sinh từ căn cứ di
chúc. Nếu người thừa kế theo di chúc đã chết hoặc chết cùng thời điểm với người để
lại di sản thì phần di chúc đó vô hiệu. Vậy thừa kế thế vị chỉ áp dụng đối với thừa
kế theo pháp luật, không áp dụng cho thừa kế theo di chúc.
9. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả
trường hợp thừa kế theo di chúc không? Vì sao?
Theo em, việc áp dụng thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo di chúc là
không nên vì sẽ khiến cho việc thừa kế trở nên khó khăn và có thể không phù hợp
với ý nguyện của người để lại di sản. Sở dĩ nói như vậy là vì người thừa kế theo di
chúc có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức và nếu là cá nhân thì có thể không phải
là người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người
để lại di sản. Trường hợp người hưởng thừa kế là cơ quan, tổ chức, nếu áp dụng
thừa kế thế vị trong trường hợp này thì câu hỏi sẽ được đặt ra: ai là người sẽ đứng ra
thế vào vị trí của cơ quan, tổ chức đó để hưởng di sản nếu như cơ quan, tổ chức đó
tan rã hay giải tán? Trường hợp người hưởng thừa kế là cá nhân không có bất kì
quan hệ huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưởng nào với người để lại di sản mà chỉ là
quan hệ bình thường thì thừa kế thế vị trong trường hợp này cháu, chắt của cá nhân
đó có thể hoàn toàn không có quen biết gì với người để lại di sản và việc thừa kế
như vậy sẽ phản ánh sai ý chí của người để lại di sản ban đầu.
Chính vì thế theo nhóm em, không nên áp dụng thừa kế thế vị đối với trường hợp
thừa kế theo di chúc.
11
10. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Theo điểm b, c Khoản 1 Điều 651 quy định:
“b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại.”

11. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ
T5 ở thời điểm mở thừa kế không? Vì sao?

Theo Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời
điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
Xét thấy thời điểm mở thừa kế trong vụ việc trên là vào năm 2009 nhưng ông bà cụ
M tức cha mẹ ruột thuộc hàng thừa kế thứ nhất đều đã không còn sống (cụ M chết
năm 1978, cụ L chết năm 1993) và cả con nuôi là chị C3 cũng đã mất (năm 2007).
Vậy ở thời điểm mở thừa kế trong vụ việc trên, không còn bất kỳ ai thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của cụ T5.

12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ
T5 ở thời điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015, điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS
2015.
Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án trên thì cụ M và cụ L là bố mẹ ruột của cụ T5 có
sinh 7 người con nhưng người duy nhất còn sống là bà Đỗ Thị T2 tức người thuộc
hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật. Như vậy, bà Đỗ Thị T2 là người
thuộc hàng thừa kế thứ hai duy nhất của cụ T5 ở thời điểm mở thừa kế.

13. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong
vụ việc trên? Vì sao?
Tòa án đã quyết định chấp nhận kháng cáo của anh Thiều Văn C1 đối với bản án
phúc thẩm, công nhận cháu T7 và cháu H4 được hưởng toàn bộ di sản mà bà T5 để
lại theo chế định thừa kế thế vị và không áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong trường
hợp này đối với bà Đỗ Thị T2. Cụ thể, quan điểm của Tòa án được thể hiện trong
đoạn sau của phần nhận định: “Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009)
cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và Huy được thừa kế thế vị di sản của
bà T5 theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, anh Thiều Văn

12
C1 là bố của cháu T7 và cháu H4 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận cháu T7 và
cháu H4 được quyền thừa kế di sản của bà T5 để lại là có căn cứ.”
14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi
trên (áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai.
Theo em, hướng giải quyết ưu tiên cho quy định thừa kế thế vị thay vì cho hàng
thừa kế thứ hai của Tòa án là hoàn toàn hợp lí và xác đáng. Bởi như những phân
tích nêu trên về thừa kế thế vị, thì hiểu rằng thừa kế thế vị chính là đặc thù của thừa
kế theo pháp luật và về mặt lý luận thì đó là việc cháu hoặc chắt thay thế vào vị trí
của ông, bà với tư cách là người thay thế vào hàng thừa kế của cha, mẹ mình để
hưởng phần di sản mà nếu cha mình còn sống được hưởng. Như vậy trong vụ việc
này thì cháu T7 và cháu H4 cũng sẽ được xem như là những người thừa kế theo quy
định về hàng thừa kế thứ nhất. Chính vì thế hướng giải quyết phần di sản không áp
dụng cho hàng thừa kế thứ hai là chính đáng.

13
14
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Văn bản quy phạm Pháp luật


1. Bộ luật Dân sự năm 2015
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
3. Luật Đất đai năm 2013
4. Luật Nhà ở năm 2014
5. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
II. Sách
1. Giáo trình Những quy định chung về Luật Dân sự trường Đại học
Luật T.P Hồ Chí Minh.
2. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản
và quyền thừa kế của Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
3. Đỗ Văn Đại (2012), Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về
quyền sử dụng đất, Nxb. Lao động, TP. Hồ Chí Minh.
4. Trương Quang Dũng dịch (2005), Bộ luật dân sự Pháp, NXB.Tư
pháp, Hà Nội.
5. Trường Hồng Quang, Nguyễn Bích Loan, Vũ Hữu Trường Điền
(2017), Bộ Luật dân sự năm 2005 và 2015 phân tích – đói chiếu, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
III. Nguồn Internet
1. Bách khoa toàn thư Kiwipedia: vi.kiwipedia.org
2. Luật Dương Gia: www.luatduonggia.vn
3. Luật Minh Khuê: www.luatminhkhue.vn
4. Thư Viện Pháp Luật: thuvienphapluat.vn
5. Nghiên cứu lập pháp: http://lapphap.vn

You might also like