You are on page 1of 13

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT


A. XÁC ĐỊNH VỢ/CHỒNG CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN.
Câu 1: Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Điều 650 BLDS năm 2015 quy định về "Những trường hợp thừa kế theo pháp luật" :
"1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế."
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc
được nghiên cứu.
Việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc là hợp lý vì khi cụ Thát
mất (1961), cụ Thứ mất (1994) đều không để lại di chúc, cụ Tần trước khi mất (1995)
cũng chỉ dặn dò lại cho bà Bằng ghi chép vào ngày 08/6/1994 nên theo Điều 629 BLDS
2015 1 về di chúc miệng thì không thỏa mãn các điều kiện để được xem là di chúc miệng
hợp pháp. Do vậy, Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn hợp lý và có cơ sở.
Câu 3: Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lí
khi trả lời.

1
Điều 629 BLDS 2015 về di chúc miệng:

1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có
thể lập di chúc miệng.
2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng
suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

1
Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 651
quy định "những người thừa kế theo pháp luật":
"Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại."
Câu 4: Cụ Thứ và cụ Thát có đăng kí kết hôn không? Vì sao?
Cụ Thứ và cụ Thát không đăng kí kết hôn. Vì cụ Thứ chỉ là vợ lẽ của cụ Thát, thời điểm
đó vẫn chưa có quy định vợ chồng phải đăng kí kết hôn. Trước khi thi hành luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959 thì chưa có quy định cấm lấy thêm vợ lẽ. Vì thế, cụ Thát và cụ Thứ vẫn
được công nhận là vợ chồng.
Câu 5: Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ10 về thi hành Luật hôn nhân và gia đình quy định như
sau:
“a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm
1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết
hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì
được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000”.
Như vậy, những người chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03 tháng 01
năm 1987 nhưng không đăng ký kết hôn thì mặc nhiên được công nhận là vợ chồng và sẽ
được hưởng thừa kế của nhau. Còn sau ngày 03 tháng 01 năm 1987 không đăng ký kết hôn
thì không được xem là vợ chồng và không được hưởng thừa kế của nhau trừ khi chứng
minh được trong tài sản chung có đóng góp công sức vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung.
Câu 6: Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào? Đoạn nào
bản án cho câu trả lời?
Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần. Đoạn văn bản khẳng định
điều này: “Các đương sự đều thống nhất là cụ Thát mất năm 1961 có vợ là cụ Tần năm
1995 có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển. Theo các nguyên đơn và
bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (mất năm 1994) có 1 con là bà Tiến”.
Câu 7: Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống chung với nhau như vợ chồng vào cuối

2
năm 1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời?
Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“2.Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai
hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức
lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.”
Và nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng được ghi nhận và áp dụng ở miền Bắc từ
ngày 13-1-1960. Vậy trường hợp này, cụ Thát và cụ Thứ không đăng ký kết hôn và cụ
Thát đã có vợ hợp pháp là cụ Tần nên cụ Thứ không là vợ hợp pháp của cụ Thát. Vì vậy,
cụ Thát và cụ Thứ bắt đầu sống chung với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì cụ
Thứ không là người thừa kế của cụ Thát.
Câu 8: Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ sống với nhau từ năm 1960 nhưng hai cụ chung sống với
nhau ở miền Nam thì cụ Thứ vẫn được hưởng di sản của cụ Thát. Cơ sở pháp lý là theo
điểm a khoản 4 Nghị quyết 02/HĐTP quy định: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ
(trước ngày 13/01/1960-ngày công bố luật Hôn Nhân và gia đình năm 1959 - đối với Miền
Bắc; trước ngày 25/3/1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng
thống nhất trong cả nước - đối với Miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam
sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực
pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và
ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”
Câu 9: Suy nghĩ của anh/ chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát.
Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp lí. Theo quy định
tại điểm a mục 4 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 quy định : “Trong
3
trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960) - ngày công bố Luật hôn
nhân và gia đình 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-03-1977 - ngày công bố danh
mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối
với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi ra Bắc tập kết lấy thêm vợ mà việc kết hôn
sau không hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế
hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ
nhất của tất cả các người vợ”.
Cụ Thứ và cụ Thát chung sống với nhau trước thời điểm ngày 13/01/1960 - ngày công
bố luật Hôn nhân và gia đình 1959 nên việc chung sống của họ được xem là vợ chồng hợp
pháp (dù không đăng ký kết hôn) theo quy định tại điểm a mục 1 Nghị quyết
35/2000/QH10.
Như vậy, có đủ căn cứ công nhận cụ Thứ là người thừa kế hợp pháp của cụ Thát.
B.XÁC ĐỊNH CON CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN
Câu 1: Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Con nuôi của người để lị di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 điều 651 BLDS 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết”
Câu 2: Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trường hợp một người được coi là con nuôi của người để lại di sản:
- Nếu việc nuôi con nuôi đã bắt đầu từ trước ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực
mà vẫn chưa đăng kí thì vẫn được chấp nhận có con nuôi thực tế.
- Nếu việc nuôi con nuôi bắt đầu sau năm 1986 và trước năm 2011 mà chưa đăng kí, nếu
đáp ứng đủ điều kiện chuyển tiếp thì phải đăng kí kể từ ngày 1/1/2011 đến ngày
31/12/2015 để trở thành con nuôi thực tế.
Cơ sở pháp lý:
Khoản 1, điều 23, nghị định số 19/2011/ NĐ-CP ngày 21/03/2011:
“1. Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau
mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp
xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.”
Khoản 1, điều 50, Luật Nuôi con nuôi 2010
“1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có
hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký
trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện
sau đây:

4
a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời
điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và
cả hai bên còn sống;
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau
như cha mẹ và con. ”
Câu 3 : Trong bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không ?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ?
Trong bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.
Đoạn sau của bản án cho câu trả lời : “ Các bà có nghe nói trước đây bố mẹ các bà có
nhận bà Nguyễn Thị Tý là con nuôi, sau đó bà Tý về với bố mẹ đẻ và đi lấy chồng.” và đoạn
“Mẹ đẻ của các anh chị là bà Nguyễn Thị Tý trước đây có là con nuôi cụ Thát và cụ Tần trong
khoảng thời gian 6 đến 7 năm, sau đó bà Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống.”
Câu 4 : Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không ? Đọan nào của bản
án cho câu trả lời ?
Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.
Đoạn sau của bản án cho câu trả lời : “Xác định bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của
cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.”
Câu 5 : Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Hướng giải quyết của Tòa án : Không công nhận mối quan hệ con nuôi và cha mẹ nuôi
giữa bà Tý với cụ Thát và cụ Tần.
Hướng giải quyết này là hợp lý vì trên thực tế thời gian bà Tý làm con nuôi của cụ Thát
và cụ Tần là khoảng thời gian ngắn ( 6 đến 7 năm) mà mục đích nuôi con nuôi theo điều 2 Luật
Nuôi con nuôi 2010 là : “ nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt
nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trong môi trường gia đình. ” Mặt khác trong lý lịch của cụ Thát và cụ Tần không ghi
phần con nuôi là bà Tý. Suy ra Tòa án giải quyết theo hướng trên là hợp tình, hợp lý.
Câu 6: Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư
cách nào? Vì sao?
Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách là
con nuôi của cụ Dung và cụ Cầu, tức là thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Vì: Căn cứ vào những gì thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án thì các cụ cao
tuổi đều xác nhận ông Tùng đã ở với hai cụ từ lúc 2 tuổi vì lý do cha mẹ ông Tùng chết sớm và
hai cụ là bà con họ hàng. Đồng thời ông Tùng cũng cho rằng chính hai cụ đã nuôi dưỡng ông từ
lúc nhỏ, lúc hai cụ già yêu ông là người đã chăm sóc, phụng dưỡng hai cụ, ông cũng là người lo
mai táng khi hai cụ qua đời. Vì vậy phải coi ông Tùng là con nuôi của hai cụ trên thực tế, và
khi ông Tùng yêu cầu được chia di sản thì xem xét ông Tùng được hưởng di sản với tư cách là
con nuôi của hai cụ.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng.
Hướng xác định của trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng là hợp lý và có có cơ sở
thực tế, phù hợp với ý chí của người quá cố là công nhận thực tế có quan hệ cha mẹ nuôi, con
nuôi mặc dù quan hệ này chưa được đăng ký vì anh Tùng đã ở với hai cụ từ nhỏ và có công
trong việc phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ khi già yếu và lo mai táng lúc hai cụ chết. Tuy nhiên,
5
để xác định quan hệ này tồn tại, cần có chứng cứ thực tế thuyết phục và việc đánh giá tính
thuyết phục của chứng cứ phụ thuộc nhiều vào nhận thức của thẩm phán.
Câu 8: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung
không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hôn nhân
và gia đình năm 1986, anh Tùng không được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung.
Bởi vì theo Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Việc nhận con
nuôi do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi
công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”. Theo đó, anh Tùng không được hưởng thừa kế mặc dù anh
Tùng đã ở với cụ Cầu và cụ Dung từ lâu ( khi anh Tùng 2 tuổi), anh có công chăm sóc, nuôi
dưỡng hai cụ, khi hai cụ chết anh Tùng là người lo mai táng cho hai cụ. Nhưng cụ Cầu và cụ
Dung không có đi đăng kí để xác nhận anh Tùng là con nuôi của mình nên theo Điều 37 Luật
hôn nhân và gia đình thì anh Tùng không được nhận thừa kế.
Câu 9: Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
Căn cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 651 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”

Câu 10: Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thất?
Đoạn cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thất đó là: “Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và
giấy khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn
Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ.”
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.
Giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến là: Tòa án công nhận bà Tiến là con cụ
Thát là có thuyết phục.
Vì, bà Tiến được bà Khiết kê khai trong bản sơ yếu lí lịch Đảng viên, có giấy khai sinh,
được họ hàng, hàng xóm xác nhận, như vậy là đủ căn cứ chứng minh bà Tiến là con cụ Thát và
được hưởng thừa kế theo pháp luật. Việc xác nhận như vậy đảm bảo quyền lợi mà bà Tiến
được hưởng.
C. CON RIÊNG CỦA VỢ/CHỒNG
Câu 1: Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần vì: Theo xác nhận thì cụ Thát có hai người vợ là
cụ Tần và cụ Thứ. Tuy nhiên, ông Thăng không đưa ra được chứng cứ chứng minh cụ Thứ
không phải là vợ cụ Thát. Ngoài ra căn cứ vào lý lịch của bà Tiến có xác nhận của chính quyền
6
địa phương thì bà Tiến là con cụ Thát và là em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển cũng
như có xác nhận của họ hàng, hàng xóm (nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi là hàng xóm và
ông Nguyễn Văn Chung là tổ trưởng tổ dân phố), khẳng định cụ Thứ là vợ cụ Thát và bà Tiến
là con của cụ Thứ, cụ Thát. Như vậy có thể khẳng định bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần
là cụ Thát.
Câu 2: Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Điều kiện để con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ là khi con riêng của chồng
và vợ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con.
Cơ sở pháp lý: Căn cứ Điều 654 BLDS 2015 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế
nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của
nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
Câu 3: Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản của cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến không đủ điều kiện để hưởng di sản của cụ Tần, vì:
Căn cứ theo Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như
cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại
Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
Tuy nhiên, trong bản án không thấy có đề cập hay có chứng cứ chứng minh được cụ Tần
và bà Tiến có phải là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con hay không. Do đó,
không có đủ căn cứ để xác định bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản của cụ Tần.
Câu 4: Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được
hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần tức, giữa cụ Tần và bà
Tiến có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như mẹ con thì bà Tiến được hưởng thừa kế ở hàng thừa
kế thứ nhất của cụ Tần.
Tuy bà Tiến và cụ Tần không có quan hệ huyết thống, nhưng được xác định là quan hệ
giữa con riêng của chồng và mẹ kế, Bộ luật dân sự 2015 có quy định về quan hệ thừa kế giữa
con riêng và bố dượng, mẹ kế như sau:
“Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố
dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa
kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ
luật này.”
Đồng thời, Điều 651 – Bộ luật Dân sự 2015 quy định :
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

7
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết…”
Như vậy, tuy bà Tiến và cụ Tần không có quan hệ huyết thống nhưng nếu có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng như mẹ con thì bà Tiến vẫn thuộc diện được hưởng thừa kế của cụ Tần.
Do cụ Tần mất không để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật.
Đây là căn cứ từ thực tiễn xét xử. Theo Bản án số 560/2009/DS-PT ngày 3/4/2009 của
Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Bà Lan là con riêng của bà Tốt được ông
Chừng chăm sóc, nuôi dưỡng từ lúc 4 tuổi. Do đó, bà Lan cũng là người thừa kế di sản của
ông Chừng và bà Tốt, theo Điều 779 BLDS2005. Xét bà Xin, bà Lan, bà Trinh là con của ông
Chừng bà Tốt nên theo Điều 676 BLDS2005 thì bà Xin, bà Trinh, bà Lan thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của ông Chừng bà Tốt”
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến
đối với di sản của cụ Tần.
Cách giải quyết của Tòa án là thỏa đáng. Vì bà Tiến không có công chăm sóc, nuôi
dưỡng cụ Tần như mẹ con và không có quan hệ huyết thống với cụ Tần. BLDS 2015 quy định
mối quan hệ này có hậu quả pháp lí khi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con
nhưng bản án không có những tình tiết này.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của
con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.
Điều 651 BLDS 2015. Người thừa kế theo pháp luật
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản.”
Tại Điều 651 BLDS 2015. Người thừa kế theo pháp luật có đưa ra ba hàng thừa kế
nhưng cả ba hàng thừa kế đều không liệt kê con riêng của vợ chồng đối với bố dượng, mẹ kế
mà cũng không liệt kê bố dượng, mẹ kế với đối với thừa kế của con riêng của vợ, của chồng.
Theo em, chế định thừa kế nên quy định con riêng của vợ, chồng nếu có quan hệ chăm sóc,
8
nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì nên xác định rõ là thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất
bởi nên coi họ như con đẻ, con nuôi của người chết.
D. THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ HÀNG THỪA KẾ THỨ HAI, THỨ BA

Câu 1: Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ T5 không?

Theo quy định tại Điều 651 BLDS 2015

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột,
dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế
trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận
di sản.”

Tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định thì hàng thừa kế thứ nhất gồm con nuôi của người
chết.

Bà T5 nhận chị C3 là con nuôi nhưng không thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định
của pháp luật. Tuy nhiên Bản án 69 có đề cập đến việc: “Mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà T5 và
chị C3 tồn tại trên thực tế, được phía gia đình bị đơn thừa nhận. Đồng thời căn cứ vào sổ hộ khẩu
(BL238) gia đình bà Đỗ Thị T5 do Công an thị xã H (nay là Công an thành phố H) cấp năm 1995, thể
hiện chị C3 có quan hệ với bà T5 là con, ngoài chị C3 thì bà T5 không có con nào khác. Mặt khác, theo
điểm a Điều 6 Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì trường hợp bà T5 nhận
nuôi chị C3 là con nuôi thực tế. Nên, chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất của bà
T5”.
Vì vậy, trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 sẽ là người được hưởng thừa kế của cụ T5.

Câu 2: Khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
9
Tại Điều 652 BLDS 2015 quy định

“Điều 652. Thừa kế thế vị:

Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di
sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu
cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

Như vậy, chế định thừa kế thế vị được áp dụng khi con của người để lại di sản chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu sẽ là người thừa kế di sản do người quá cố để lại.

Câu 3: Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa kế thế vị
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa kế thế vị do:
“Thừa kế thế vị là trường hợp con cháu của người thừa kế thế vào vị trí của người thừa kế để hưởng di
sản do người quá cố để lại.”2. Hơn nữa pháp luật không quy định về việc con dâu/con rể được hưởng
thừa kế thế vị.

Câu 4: Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng chị C3 hưởng thừa kế thế vị của cụ T5. Hướng
như vậy có thuyết phục không? Vì sao?

Hướng giải quyết của Tòa án là thuyết phục. Căn cứ vào Điều 652 BLDS 2015 có quy định về
thừa kế thế vị thì trường hợp chị C3 chết trước bà T5 thì con của chị C3 (T7 và H4) sẽ được hưởng phần
di sản mà đáng lẽ chị C3 được hưởng nếu còn sống. Pháp luật không quy định về việc con rể được
hưởng thừa kế thế vị. Như vậy, chồng của chị C3 không được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5.

Câu 5: Theo các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể được hưởng thừa kế
thế vị không?
- Theo tác giả ThS. Chế Mỹ Phương Đài:
Trong trường hợp con nuôi chết trước cha nuôi mẹ nuôi thì con đẻ của người con nuôi
(tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi của người chết) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha,
mẹ của cháu còn sống vào thời điểm mở thừa kế được hưởng. Nhưng nếu là con nuôi của con
đẻ thì trường hợp này lại không được thừa kế thế vị.
- Theo tác giả PGS,TS. Đỗ Văn Đại:
Theo Bộ luật dân sự, “cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu còn sống...”. Ở đây, Bộ luật dân sự chỉ đề cập đến “cha hoặc mẹ” của cháu mà
không phân biệt là cha hoặc mẹ đẻ với cha hoặc mẹ nuôi nên có thể suy luận cả hai trường
2
Luật thừa kế Việt Nam tập 2 tr293 (xuất bản lần 3)
10
hợp này đều thuộc diện thừa kế thế vị. Hướng này được củng cố thêm bởi Điều 678 BLDS 2005
theo đó “con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di
sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này” hay Điều 653 BLDS 2015 theo
đó “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”. Quy định vừa nêu cho phép con nuôi
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 677 BLDS 2005 ( Điều 651 và Điều 652 BLDS
2015) trong khi đó điều luật này áp dụng cho thừa kế thế vị mà chúng ta đang nghiên cứu. Hơn
nữa, khi bàn đến “cháu” và muốn giới hạn cháu được hưởng di sản như quy định về hàng thừa
kế thứ hai (Điều 676 BLDS 2005, Điều 651 và Điều 652 BLDS 2015), các nhà làm luật đã nói
rõ là “cháu ruột” nên khi quy định về thừa kế thế vị mà không đề cập đến cháu ruột thì chúng
ta có thể hiểu rằng các nhà làm luật không muốn giới hạn thế vị chỉ cho cháu ruột như quy
định về hàng thừa kế thứ hai. Với phân tích nêu trên và trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng được
thừa nhận như một nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam cũng như một nguyên tắc của
pháp luật thừa kế, chúng ta có thể khẳng định thừa kế thế vị bao gồm cả con (đẻ hay nuôi) của
con đẻ và con (đẻ hay nuôi) của con nuôi của người để lại di sản và thực tiễn xét xử theo
hướng cháu nuôi cũng được hưởng thừa kế thế vị.
Câu 6: Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5.
Đoạn cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là:
“...Năm 2002, chị C3 kết hôn với anh Thiều Văn C1 và vợ chồng có hai con chung là cháu
Thiều Thụy Thùy T7 (sinh năm 2002) và cháu Thiều Đỗ Gia H4 (sinh năm 2004). Chị C3 (chết
năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và H4 được
hưởng thừa kế thế vị di sản của bà T5 theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005.”
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế
vị của cụ T5.
Theo em, việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là hợp
lí. Khi bà T5 chết không để lại di chúc nên chị C3 là người được hưởng toàn bộ di sản của bà
theo quy định của pháp luật và chị thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên, chị C3 lại chết
trước bà T5 nên phần di sản đáng lẽ chị được hưởng sẽ do các con đẻ của chị thừa kế thế vị căn
cứ theo Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người
để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.”
Câu 8: Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế theo
di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo BLDS hiện hành (BLDS 2015), chế định thừa kế thế vị không được áp dụng đối
với thừa kế theo di chúc.
Căn cứ theo Điều 652 Bộ luật dân sự 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản
mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một

11
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt
được hưởng nếu còn sống.” Như vậy, khi thừa kế theo di chúc thì người để lại di sản có quyền
chỉ định người thừa kế và phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật quy định còn chế định
thừa kế thế vị áp dụng theo hướng để cho cháu được hưởng di sản mà con của người để lại di
sản đáng lẽ được hưởng nhưng đã mất.
Câu 9: Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế
theo di chúc không? Vì sao?
Theo em, không nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho trường hợp thừa kế theo di
chúc. Vì thừa kế thế vị chỉ áp dụng khi người con chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản, khi đó người cháu mới đương nhiên được hưởng phần di sản theo quy định
của pháp luật. Trường hợp người con và người để lại di sản cùng chết đột ngột do tai nạn hoặc
người con chết trước người để lại di sản thì phần di sản sẽ được chia theo pháp luật và người
thừa kế thế vị sẽ là người cháu. Còn trường hợp thừa kế theo di chúc thì phần di sản được chia
theo di nguyện của người quá cố, phần di sản được chia cho người nào thì người đó được
hưởng, nếu người đó không còn sống thì di chúc đó mới vô hiệu và phần di sản đó mới mang ra
để chia theo pháp luật. Nếu áp dụng chế định thừa kế thế vị trong trường hợp này chúng ta đã
vô tình đi ngược lại di nguyện của người quá cố việc này đã vi phạm Khoản 2 Điều 626 Bộ luật
dân sự 2015: “Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.”
Câu 10: Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Theo Khoản 1, Điều 651 BLDS 2015 quy định:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội,
ông ngoaị, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là
cụ nội cụ ngoại.

Câu 11: Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không?
Theo điểm a), Khoản 1, Điều 651 BLDS 2015 quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm:
vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”;
Trong vụ việc trên, không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm mở
thừa kế. Vì cha mẹ của cụ T5 là cụ Đỗ Bá M (chết năm 1978) và cụ Hồ Thị L (chết năm 1993)
không còn, cụ T5 không lấy chồng và con nuôi của cụ T5 là chị Đỗ Đức Phương C3 đã mất vào
ngày 05/03/2007.
Câu 12: Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm mở
thừa kế không? Vì sao?
12
Theo điểm b), Khoản 1, Điều 651 BLDS 2015 quy định: “Hàng thừa kế thứ hai gồm:
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoaị, bà ngoại”;
Trong vụ việc trên, ở thời điểm mở thừa kế thì bà Đỗ Thị T2 là em ruột của cụ T5 và hai
cháu Thiều Thị Thùy T7 và cháu Thiều Đỗ Gia H4 là cháu ngoại của cụ T5 nên thuộc hàng
thừa kế thứ hai.
Câu 13: Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên? Vì
sao?
Cuối cùng, Tòa án không áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc trên ở đoạn “Năm
2002, chị C3 kết hôn với anh Thiều Văn C1 và vợ chồng có hai con chung là cháu Thiều Thụy
Thùy T7 (sinh năm 2002) và cháu Thiều Đỗ Gia H4 (sinh năm 2004). Chị C3 (chết năm 2007)
và bà T5 (chết năm 2009) cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và Huy được thừa kế thế
vị theo di sản của bà T5 theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005”. Theo Điều 677,
BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống;”. Như vậy, Tòa án đã giải quyết vụ án theo hướng thừa kế thế
vị để hai cháu T7 và H4 nhận di sản của cụ T5 mà không phải chia thêm cho người ở hàng thừa
kế khác.
Câu 14: Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên (áp
dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai).
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án theo quy định thừa kế thế vị là chưa hợp lí. Thứ
nhất, do liên quan đến quyền sở hữu nhà và đất đang tranh chấp là di sản của ai để lại giữa vợ
chồng cụ M, cụ L và bà T5 mà chưa đưa 07 người con của hai cụ vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chưa thuyết phục. Thứ hai, cần xem xét đầy
đủ các chủ thể khi tiến hành phân chia di sản để không ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể
nào. Ở đây, khi Tòa án giải quyết theo hướng thừa kế thế vị đã làm cho bà Đỗ Thị T2 mất
quyền hưởng di sản của chị gái. Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi nên ưu
tiên xem xét vấn đề thừa kế theo phápc luật rồi mới đến vấn đề thừa kế thế vị.

13

You might also like