Professional Documents
Culture Documents
vđ 1 6 đến 10
vđ 1 6 đến 10
Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Nguyễn Thị Tần.
Bản án đã nêu rõ qua đoạn : “Xác định cụ Nguyễn Tất Thát có 2 vợ : vợ cả là cụ
Nguyễn Thị Tần, vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ. Các đương sự đều thống nhất là cụ Thát mất
năm 1961 có vợ là cụ Tần năm 1995 có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà
Triển. Theo các nguyên đơn và bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ( mất năm
1994) có 1 con là bà Tiến”.
7.Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960
thì cụ Thứ không phải là người thừa kế của cụ Thát vì :
- Căn cứ vào khoản a điều 4 Nghị quyết số 02/HĐTP : “Trong trường hợp một người
có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 -
đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp
dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền
Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có
hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.” Cụ
Thát và cụ Thứ sống với nhau vào cuối năm 1960 nên cụ Thứ không phải người thừa kế theo
pháp luật
8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ thứ sống ở miền Nam thì câu trả lời cho câu hỏi trên là hoàn toàn
khác. Căn cứ vào khoản a điều 4 Nghị quyết số 02/HĐTP : “Trong trường hợp một người có
nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối
với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp
dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền
Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có
hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”
Vậy thì cụ Thứ hoàn toàn là người thừa kế hàng thứ nhất của cụ Thát
9.Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát trong Bản án số 20.
Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát trong Bản án số 20 là
đúng. Dựa vào khoản a điều 4 Nghị quyết số 02/HĐTP và những lý do như là sự xác định
của họ hàng và hàng xóm, sự xác nhận của chính quyền địa phương, lý lịch và giấy khai sinh
do chủ tịch Ủy ban nhận dân phường Xuân La cấp thì tòa thừa nhận việc cụ Thứ là vợ cụ
Thát và người thừa kế hàng thứ nhất là hợp tình hợp lý tuy nhiên vẫn còn một số điểm không
hợp với luật pháp. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Việc cụ Thát có 2 người vợ
là hoàn toàn trái với pháp luật theo khoản 1 điều 2 Luật hôn nhân và gia đình : “ Hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.” và khoản 2 điều 4 Luật hôn nhân
và gia đình : “Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ.”