You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MÔN HỌC: PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, QUYỀN SỞ HỮU VÀ THỪA KẾ


BUỔI THẢO LUẬN THÁNG THỨ NHẤT

0|Page
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP
LUẬT DÂN SỰ.
I. Những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân
sự:

- Quan hệ tài sản: là quan hệ giữa các chủ thể gắn liền với tài sản, tức là quan hệ
giữa các chủ thể gắn liền với "vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản". (khoản 1
Điều 105 BLDS).

Ví dụ: hợp đồng mua bán đất, gửi xe,..

- Quan hệ nhân thân: là quan hệ giữa các chủ thể gắn liền với yếu tố nhân thân
của chủ thể.

Ví dụ: Toà án tuyên bố một người là đã mất, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, việc
sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại mà không được người
đó cho phép,...

II. Quan hệ giữa A và B trên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS
2005 và BLDS 2015.
- Quan hệ giữa A và B trên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS
2015. Theo Điều 1 BLDS 2005 có quy định về nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm
sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự. Trong khi đó BLDS 2015
Điều 1 cũng có quy định về việc quan hệ dân sự phải là các quan hệ được hình
thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.
Ở đây việc A ép B tham gia một giao dịch dân sự mà bên B không tự do về ý chí
(Điều 1 BLDS 2015) hay việc không có bảo đảm bình đẳng, an toàn pháp lý
(Điều 1 BLDS 2005) là lí do khiến mối quan hệ này nằm trong phạm vi điều
chỉnh của 2 bộ luật này.
 Các trường hợp giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối gồm có:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
(Điều 123 Bộ luật dân sự 2015)
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS 2015)

1|Page
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129
BLDS 2015):
 Các trường hợp giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối bao gồm:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 BLDS 2015)
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS 2015)
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 BLDS
2015)
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình (Điều 128 BLDS 2015)
So với quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại BLDS 2005, BLDS 2015 có bổ
sung thêm cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Đây là quy
định cần thiết, bởi lẽ các quy định về điều kiện có hiệu lực của BLDS để áp dụng
cho đa số các trường hợp nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Tuy nhiên, thực tế, cho thấy một số giao dịch có thể thiếu điều kiện quy định tại
Điều 117 BLDS 2015 nhưng vẫn không vô hiệu.
Nhìn chung, BLDS năm 2015 đã có cách tiếp cận rất mới, tạo điều kiện thuận
lợi, thông thoáng hơn, ổn định hơn trong giao lưu dân sự. Đồng thời việc quy
định các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của các giao
dịch dân sự vô hiệu góp phần đảm bảo hiệu quả thực thi của pháp luật, quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.

2|Page
VẤN ĐỀ 2: TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT.
 Tóm tắt bản án: Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án
nhân dân Quận 9 TP. Hồ Chí Minh.
1. Nguyên đơn:
- Bà Bùi Thị T.
2. Người có lợi ích liên quan:
- Ông Trần Văn C (chồng của bà Bùi Thị T).
3. Nội dung bản án:
- Sau khi ông Trần Văn C đi biệt tích từ cuối năm 1985, thì đến
năm 2017 vợ của ông C (bà Bùi Thị T) đã có yêu cầu Tòa án
tuyên bố ông Trần Văn C là đã chết.
4. Quyết Định của Tòa án:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị T. Tuyên bố ông Trần Văn C
đã chết.
 Tóm tắt bản án: Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án
nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa.
1. Nguyên đơn:
- Anh Quản Bá Đ.
2. Người có lợi ích liên quan:
- Chị Quản Thị K (chị gái anh Đ).
3. Nội dung bản án:
- Sau khi chị Quản Thị K bỏ nhà đi không có tin tức từ năm 1992,
thì đến năm 2018 anh Quản Bá Đ có yêu cầu Tòa án tuyên bố chị
Quản Thị K (chị gái anh Đ) là đã chết.
4. Quyết Định của Tòa án:

3|Page
- Chấp nhận đơn yêu cầu của anh Quản Bá Đ. Tuyên bố chị Quản
Thị K sinh 1969 chết ngày 19/11/2018.

 Tóm tắt bản án: Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Tòa
án nhân dân TP. Hà Nội.
1. Nguyên đơn:
- Bà Phạm Thị K.
2. Người có lợi ích liên quan:
- Ông Phạm Ngọc C, bà Phạm Thị P, bà Phạm Thị M, ông Phạm
Ngọc L, ông Phạm Ngọc L1, ông Phạm Đức S, bà Phạm Thị Mai
H, cụ Phạm Văn C.
3. Nội dung bản án:
- Cụ Phạm Văn C bỏ nhà đi không có tin tức từ tháng 1 năm 1997,
đến năm 2018 bà Phạm Thị K có đơn yêu cầu tuyên bố cụ Phạm
Văn C (bố đẻ của bà Phạm Thị K) là đã chết.
4. Quyết Định của Tòa án:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị K. Tuyên bố cụ PPhạm Văn
C đã chết kể từ ngày 1/5/1997.
 Tóm tắt bản án: Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An).
1. Nguyên đơn:
- Ông Đ H.
2. Người có lợi ích liên quan:
- Bà N T.
3. Nội dung bản án:
- Năm 2008 do vợ chồng mâu thuẫn ông Hoàng đến tỉnh Lâm
Đồng sinh sống không liên lạc với gia đình. Tại quyết định số
01/2011/QĐ-MPH Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố ông Đ

4|Page
H mất tích. Tại quyết định số 01/2015/QĐVDS-ST Tòa án nhân
dân huyện C đã tuyên bố Đ H đã chết. Tại bản án số
28/2011/HNST Tòa án nhân dân huyện C đã cho ly hôn giữa bà
N T và ông Đ H. Ngày 20/11/2019 ông Đ H đã trở về sinh sống
tại A xã L huyện C và có đơn yêu cầu hủy quyết định tuyên bố
một người đã chết.
4. Quyết Định của Tòa án:
- Chấp nhận đơn yêu cầu của ông Đ H về việc yêu cầu hủy bỏ
quyết định tuyên bố một người đã chết. Ông được quyền liên hệ
cơ quan có thẩm quyền để xác lập lại các thủ tục về nhân thân và
hộ tịch.

I. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất
tích và tuyên bố một người là đã chết?
 Giống nhau:
+ Đối tượng yêu cầu Tòa án tuyên một người đã chết hoặc mất tích: Người có
quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người đã
chết hoặc mất tích.
+ Đối tượng có quyền tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích: Tòa án có
quyền tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người đã chết.
 Khác nhau:
+ Về thời hạn tuyên bố một người mất tích: Điều 78 Bộ luật Dân Sự 2005 quy
định:
1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các
biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng
vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất
tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người
đó, nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được
tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng, nếu không

5|Page
xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ
ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn.
+ Về thời hạn tuyên bố một người đã chết: Điều 81 BLDS 2005 quy định 1:
Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố
một người là đã chết trong các trường hợp sau đây:
a) Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực
pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
b) Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà
vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc
thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
d) Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống, thời
hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của bộ luật này.
II. Một người biệt tích và không có thông tin xác thực là còn sống
trong thời hạn bao nhiêu lâu thì có thể bị yêu cầu Tòa án yêu
cầu là đã chết?
- Tùy từng trường hợp, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án
ra quyết định tuyên bố là đã chết căn cứ vào Điều 81 BLDS 2005:
+ Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu
lựcpháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
+ Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà
vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
+ Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống, thời
hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của bộ luật này.
III. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân
bị tuyên bố chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
Trong bản án số 272/2018/QĐST-DS cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích từ thời
điểm đó là năm 1985. Tuy chưa xác định được ngày tháng nhưng bà T và ông T

6|Page
đã xác thực rằng ông C đã vắng mặt tại địa phương 1985. Và đông thời Tòa án
đã nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự này. Trong bản án
số 04/2018/QĐST-DS cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích từ thời điểm đó là năm
1992. Đây là thời điểm chị K đã vắng mặt tại địa phương. Và đông thời Tòa án
đã nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự này. Trong bản án
số 94/2019/QĐST-VDS cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích từ thời điểm đó là
tháng 01 năm 1997. Do đây là lời khai của bà PHẠM THỊ K ( con của cụ PHẠM
VĂN C) và có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng 4/1997 của cơ
quan Bảo hiểm xã hội thành phố H. Và đồng thời Tòa án đã nghiên cứu tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự này.
IV. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một
cá nhân? Nêu cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.
- Xác định thời điểm chết của một người bị tuyên án là đã chết có ý nghĩa rất
quan trọng bởi thời điểm chết của một người là thời điểm phát sinh sự kiện pháp
lý liên quan đến quyền, nghĩa vụ về tài sản của người đó đó. Đặc biệt, nó là cơ sở
để xác định thời điểm mở thừa kế theo quy định tại khoản 1, Điều 611 BLDS
năm 2015.
VD: ông H đi khỏi địa phương 11/2005. Đến năm 2010 tòa án tuyên bố ông đã
chết 1/12/2010. Ông H có 2 người con là ông A và ông B. Nhưng không may
vào ngày 30/11/2010 ông A đã chết do tại nạn. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây sẽ chia
tài sản như thế nào? Thì theo khoản 1 điều 68 ta xác định được ngày Tòa án
tuyên bố ông H chết là 1/12/2010. Nhưng ông A lại chết ngày 30/11/2010. Mà
theo khoản 1 điều 611 BLDS 2015 ngày mở thừa kế là ngày người có tài sản
chết. Vậy cho nên khi chia thừa kế chỉ có ông B mới nhận được tài sản theo pháp
luật.
V. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là
ngày nào? Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm
2018 và 2019) cho câu trả lời?
- Tòa án đã tuyên bố ông Hùng và ông Phúc đã chết. Trong hai Quyết định có
nêu rõ:
+ Quyết định số 01/2007/QDST-VDS: “…Tuyên bố ông Mai Văn Hùng, sinh
năm 1968 có nơi cư trú cuối cùng tại số 129F/123/120F Bến Vân Đồn, Phường
8, Quận 4 là đã chết…”.

7|Page
+ Quyết định số 10/2009/QĐ-VDS: “…Tuyên bố ông Nguyễn Khoa Phúc-Sinh
năm 1947 có nơi cư trú cuối cùng: 602 Phạm Văn Chí, Phường 8, Quận 6,
TP.Hồ Chí Minh là đã chết…”.
VI. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định
năm 2018 và 2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là
ngày nào ?
- Tòa án xác định ngày ông Hùng chết là ngày quyết định có hiệu lực pháp
luật,được thể hiện ở đoạn “Ngày chết của ông là ngày quyết định có hiệu lực
phápluật”
- Tòa án xác định ngày ông Phúc chết là ngày 21/06/1975 được thể hiện ở
đoạn“Ngày chết của ông được tính vào thời điểm ông bỏ nhà đi, ngày
21/6/1975”.
VII. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong
các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019).
- Đối với ông Hùng, xác định ông đã chết là có căn cứ, tuy nhiên Tòa chưa có
Quyết định tuyên bố ông Hùng biệt tích trước đó. Thời hạn 5 năm biệt tích là
được tính từ lúc ông biệt tích hay từ lúc Tòa tuyên bố ông biệt tích? Nếu chọn
mốc 1996 để làm mốc ông biệt tích thì hai năm sau tức là 1998 ông bị tuyên bố
biệt tích và đến 2003 là đã biệt tích được 5 năm. Cần xác định rõ các thời hạn
này.
- Đối với ông Phúc, cũng tương tự như ông Hùng tuy nhiên thời gian ông biệt
tích là quá lâu, dựa trên tực tiễn xét xử Tòa án tuyên bố như trên là hoàn toàn
hợp lý.
VIII. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là
đã chết và Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết
trong quyết định năm 2020 có phù hợp với quy định không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
-Việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết được quy định tại Điều 73
Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
“ Điều 73. Hủy bỏ quyết định tuyên bố chết

8|Page
1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người
đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
2. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa
án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp
sau đây: 
a) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn
theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn
có hiệu lực pháp luật; 
b) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì
việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
3. Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã
nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. 
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn
sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn
bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
IX. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020,
bà T và ông H có còn được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
-Họ không còn được coi là vợ chồng nữa bởi vì khi tòa án nhân dân huyện C đã
tuyên bố rằng ông H đã chết tại bản án số 28/2011/HNST ngày14/6/2011 Tòa án
nhân dân huyện C đã cho ly hôn giữa Bà N T và Ông Đ H từ khi đó họ đã không
còn là vợ chồng thì cho dù ông H có quay về thì trên mặt pháp lí họ cùng không
còn là vợ chồng nữa.
X. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H
được xử lý như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Về mặt hậu quả pháp lý: Ông Đ H xác định không có tài sản nên không yêu cầu
giải quyết hậu quả pháp lý có liên quan đến quyết định tuyên bố một người là đã
chết.
- Còn nếu ông H còn tài sản:

9|Page
a) Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi
phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết
có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án
về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ
tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;
b) Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước
khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà
chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.

VẤN ĐỀ 3: TỔ HỢP TÁC


 Tóm tắt bản án số 02/2021/DS – PT ngày 11/1/2021 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Nông về vấn đề tranh chấp hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất:
A. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế Th
B. Bị đơn: tổ trưởng tổ hợp tác X, xã N: Ông nguyễn Thăng L.
C. Nguyên nhân vụ án: Nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn về việc tranh
chấp hợp đồng sử dụng đất.
- Ngày 13/9/ 2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác) ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất của ông T, bà H để thuê 500m2 đất để xây đất để
xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch. Sau khi ký kết hợp đồng và
chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã N, ông đã tiến hành phá bỏ toàn bộ cây
trồng. Đến ngày 11/01/2019, do hoàn cảnh thay đổi nên hợp đồng thuê đất
được chấm dứt. Ông không đồng ý việc chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất nên ông khởi kiện yêu cầu Tổ hợp tác phải bồi thường thiệt hại
về cây cối trước và sau khi giải phóng mặt bằng với số tiền 50.400.000
đồng.
D. Quyết định của tòa án:
 Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông Th.
 Tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy những vi phạm và thiếu sót
trong quá trình xét xử, Tòa án quyết định hủy bản án dân sự sơ
thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp,
tỉnh Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp
tác và suy nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
Khoản 1 Điều 111 BLDS 2005: Tổ hợp tác
10 | P a g e
1. Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực
của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng
đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng
hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự.
Tổ hợp tác có đủ điều kiện để trở thành pháp nhân theo quy định của pháp
luật thì đăng ký hoạt động với tư cách pháp nhân tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Khoản 1 Điều 101 BLDS 2015: Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham
gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn
bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện
thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên
khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ
dân sự do mình xác lập, thực hiện.
Suy nghĩ của nhóm em về những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS
2005 là quy định về tư cách pháp nhân:
- Về chủ thể, theo quy định Khoản 1 Điều 101 được hiểu là bản thân hộ
gia đình, tổ hợp tác hay tổ chức không có tư cách pháp nhân không
được xem là một bên chủ thể trong quan hệ dân sự mà là các thành viên
của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp nhân hoặc là
người đại diện theo uỷ quyền, chỉ có cá nhân hoặc pháp nhân mới là
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
- Về trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan
hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành
viên. Trường hợp các thành viên không có hoặc không đủ tài sản chung
để thực hiện nghĩa vụ chung thì người có quyền có thể yêu cầu các
thành viên thực hiện nghĩa vụ liên đới theo quy định tại Điều 288
BLDS năm 2015. Hoặc nếu các bên không có thỏa thuận, hợp đồng

11 | P a g e
hợp tác hoặc luật không có quy định khác thì các thành viên sẽ chịu
trách nhiệm dân sự theo phần tương ứng với phần đóng góp tài sản của
mình; trường hợp không xác định được theo phần tương ứng thì xác
định theo phần bằng nhau.
- Điều đáng ghi nhận trong sửa đổi BLDS 2015 đó là đưa ra quy định
việc tham gia của tổ hợp tác vào quan hệ dân sự là thông qua cá nhân
đại diện. Điều này đã giải quyết được những vướng mắc liên quan đến
việc tham gia các quan hệ dân sự của tổ hợp tác trong quá trình giải
quyết tranh chấp tại Tòa án và cơ quan nhà nước khác.
2. Theo Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp
đồng thuê quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà
H với Tổ hợp tác?
A. Trích bản án số 02/2021/DS – PT (trang 157 đoạn 7 từ trên
xuống – trong tài liệu đề cương bài tập tuần, tháng và lớn về
quy định chung, tài sản, thừa kế)
“Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2 đất toạ lạc tại thôn
06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho cất trữ cà phê
sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số 50, tờ
bản đồ số 03, diện tích 12.103m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Y do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ
ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H”.

3. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông
Th và bà H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp
với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo Tòa án, ông H ở phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch với ông T và
bà H.
- Căn cứ tại khoản 1 điều 101 của Bộ luật dân sự 2015: “Trường hợp thành
viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người
đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực
hiện”.
 Hướng xác định của Tòa án là hoàn toàn chính xác, đúng theo quy định
của pháp luật.

12 | P a g e
4. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa
án có thuyết phục không? Vì sao.
- Theo Tòa án, ông H là bị đơn trong vụ án cụ thể qua dẫn chứng sau: “Lẽ ra,
cấp sơ thẩm phải hướng dẫn ông Th sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đối với
bị đơn là ông Bùi Vĩnh H, chứ không phải là Tổ hợp tác, bởi vì ông H là
người trực tiếp ký kết hợp đồng là bị đơn trong vụ án,..”
 Do vậy, hướng xác định của Tòa án cho rằng ông H là bị đơn là điều chính
xác.
- Vì Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân nên ông H không phải là người
đại diện cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng (căn cứ khoản 2 Điều 138 Bộ
luật dân sự 2015: “Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác
đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không
có tư cách pháp nhân”).

13 | P a g e

You might also like