You are on page 1of 10

VẤN ĐỀ 1: Năng lực pháp luật dân sự của chủ thể trong xác lập giao dịch

1.1 So với BLDS 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự?
Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên?
+ So với điểm a khoản 1 điều 122 trong BLDS 2005 thì điểm a khoản 1 điều 117 BLDS
2015 đã thay từ “người tham gia giao dịch” bằng từ “chủ thể”. “Sự thay đổi này chỉ mang tính kỹ
thuật, không kéo theo sự thay đổi về nội dung”. (1)
+ Điểm a khoản 1 điều 122 trong BLDS 2005 chỉ yêu cầu chủ thể tham gia giao dịch “có
năng lực hành vi dân sự”, điểm a khoản 1 điều 117 BLDS 2015 yêu cầu phải “phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập”. “Việc bổ sung này là hợp lý vì không phải tất cả các giao dịch dân sự
đều có mục đích và nội dung giống nhau và yêu cầu về mức độ năng lực hành vi dân sự của cá
nhân phụ thuộc vào từng giao dịch cụ thể”. (2)
+ BLDS 2015 không chỉ đề cập đến năng lực hành vi dân sự mà còn đề cập đến năng lực
pháp luật. “Quy định này thể hiện sự tiến bộ nhưng sẽ kéo theo những khó khăn trong quá trình
áp dụng BLDS 2015. Bởi lẽ BLDS 2015 đưa ra yêu cầu này và khẳng định khi điều kiện này
không được áp dụng thì giao dịch vô hiệu (Điều 122 BLDS 2015)”. (3)
+ Điều 117 BLDS 2015 đưa điều kiện tự nguyện lên trước điều kiện không vi phạm điều
cấm. Điều này có nghĩa là BLDS 2015 đề cao yếu tố tự nguyện trong giao dịch dân sự hơn yếu tố
không vi phạm điều cấm. Đây là một điểm tiến bộ bởi lẽ chúng ta thấy pháp luật dân sự không
quyết định việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ của các chủ thể mà việc này do chính
ý chí của các chủ thể quyết định, yếu tố tự nguyện là yếu tố vô cùng quan trọng trong quan hệ
dân sự. Sự thay đổi thứ tự này là hoàn toàn phù hợp.
+ So với BLDS 2005, BLDS 2015 trong mục đích và nội dung của giao dịch dân sự đã
thay từ “pháp luật” bằng từ “luật”. Từ “pháp luật” mang nội hàm rộng hơn “luật”. Pháp luật có
thể được hiểu là hệ thống các quy định của “pháp luật” nhằm điều chỉnh một lĩnh vực nào đó,
trong đó mặt biểu hiện của nó là các quy định trong Hiến pháp, luật, nghị định, thông tư… điều
chỉnh các lĩnh vực có liên quan. Vậy từ “luật” trong điểm c khoản 1 điều 117 BLDS 2015 là để
chỉ các quy định trong văn bản luật mà không phải các quy định trong nghị định thông tư… có
tác dụng nhấn mạnh tầm quan trọng của văn bản luật so với các văn bản dưới luật trong trường
hợp các qui định có mâu thuẫn với nhau.
+ Theo khoản 2 điều 117 BLDS 2015 quy định: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. “Quy định này thể hiện
sự mềm dẻo và linh hoạt hơn so với BLDS 2015, theo đó hình thức của giao dịch dân sự không
được coi là điều kiện bắt buộc để giao dịch có hiệu lực”. (4) Điều này thể hiện không để hình thức
quá chi phối ràng buộc cái hiệu lực của giao dịch dân sự, chúng ta đặt ra nhiều loại hình thức
trong nhiều trường hợp tùy theo mục đích, tùy theo nhu cầu của các bên các chủ thể thì họ có thể
lựa chọn những giao dịch dân sự tương ứng với các loại hình thức mà họ mong muốn nhưng
cũng có trường hợp mà pháp luật đặt ra những yêu cầu, ràng buộc nhất định liên quan đến hình
thức đó thường là những giao dịch dân sự có tính quan trọng như lựa chọn người giám hộ. Điều
đó sẽ giảm nhẹ sự tác động về hình thức đối với nội dung giao dịch dân sự.
+ Ngoài ra điều 129 BLDS 2015 có những trường hợp ngoại lệ vi phạm quy định điều
kiện
có hiệu lực về hình thức vẫn có hiệu lực như: trường hợp thuộc Khoản 1, Khoản 2 Điều 129: một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của
một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó trong khi BLDS
2005 thì không quy định điều này.
1.2 Đoạn nào của bán án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà đất tại
Việt Nam?
+ Theo bản án, tại nhận định của Tòa án, đoạn cho thấy ông T và bà H không có quyền sở
hữu nhà đất tại Việt Nam: “Ông T và bà H là người Việt Nam đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy
định Luật đất đai năm 2003 và điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau: “Người Việt
Nam ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người có công đóng góp với đất nước, nhà
hoạt động văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm
phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối
tượng khác được Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời hạn
được phép từ 6 tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ” do đó ông T và bà
H không có được sở hữu quyền sử dụng đất nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam”.
1.3. Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T bà H với bà Đ đã bị tòa án vô
hiệu?
+ Tại nhận định của Tòa án đoạn cho thấy giao dịch của ông T bà H với bà Đ đã bị tòa án
vô hiệu: “Ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu
năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ
cư ngày 01/6/2004, giấy cam kết 16/3/2011 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật và do không
tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự”.
+ Và đoạn: “Vô hiệu giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày
02/6/2004 và cam kết ngày 16/3/2011 mà các bên đã xác lập do vi phạm điều cấm của pháp
luật.”
1.4 Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ thể) về
căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?
+ Suy nghĩ của tôi về căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu: Căn cứ theo điều
122 BLDS 2015 quy định: Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại điều
117 BLDS 2015 cụ thể:
 Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
 Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
 Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội;
 Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong
trường hợp luật có quy định.
 Các trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
+ Ngoài ra, khoản 2 điều 17 BLDS 2015 quy định: “Nội dung năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân: “2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.”
+ Mà theo Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long: Tại phần Nhận định của Tòa án, mục 2 cho biết “… ông Ph J T và bà L Th H là người
Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy định Luật đất đai năm 2003 và Điều
121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà
ở Việt Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư
lâu dài tại Việt Nam, người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa
học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất
nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban thường
vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
không thuộc
diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở
hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng
đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam…”. Do đó, họ không có năng lực pháp
luật dân sự trong giao dịch dân sự này. Nên Tòa tuyên bố giao dịch dân sự trên vô hiệu là hoàn
toàn hợp lí, thuyết phục và đúng với pháp luật.
VẤN ĐỀ 2: Giao dịch xác lập bởi người không có năng lực nhận thức.
2.1 Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ thời điểm nào
ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
+ Thời điểm ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức: Từ năm 2007 ông Hội bị
biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được.
+ Thời điểm ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Ngày 10/08/2010
Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự.
2.2 Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi ông Hội bị
tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
+ Ông Hội cùng vợ là bà Hương xác lập với ông Hùng cùng vợ là bà Trinh hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự vì
hợp đồng được ký kết giữa 2 bên là vào ngày 12/02/2010 trong khi ông Hội bị Tòa án tuyên mất
năng lực hành vi dân sự vào ngày 10/08/2010.
+ Điều trên thể hiện rõ ở đoạn: “Bà Hương và ông Hùng cho rằng lúc bà ký hợp
đồng ông Hội còn nhận thức được, không mất năng lực hành vi dân sự, đến ngày 07/05/2010,
ông Hội mới bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự.”
2.3 Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì sao?
Trên cơ sở quy định nào?
+ Tòa án nhân dân tối cao chưa xác định phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
hay không. Vì theo phần xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 329/2013/DS-GĐT ngày
25/7/2013, Tòa án nhân dân tối cao cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm hủy toàn bộ hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 12/02/2010 giữa vợ chồng ông Đặng Hữu Hội, bà Phạm Thị
Hương với vợ chồng ông Lưu Hoàng Phi Hùng, bà Bùi Thị Tú Trinh, còn Tòa án cấp phúc thẩm
thì công nhận toàn bộ hợp đồng mua bán nhà gắn liền quyền sử dụng đất ở lập ngày 8/02/210
giữa vợ chồng ông Đặng Hữu Hội (chết) bà Phạm Thị Hương và vợ chồng ông Lưu Hoàng Phi
Hùng, bà Bùi Thị Tú Trinh đều là không đúng.Tuy nhiên ta có thể thấy giao dịch của ông Hội
vẫn vô hiệu do Tòa án nhân dân tối cao đã “Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số
35/2012/DSPT ngày 10/07/2012 và bản án dân sự sơ thẩm số 98/2011/DSST ngày 22/12/2011”.
2.4 Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không và Tòa án đã
giải quyết như thế nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết.
+ Xét Bản án số 01/2006/DSST ngày 21/02/2006 Tòa án Nhân dân huyện Văn Chấn
tỉnhYên Bái.
+ Tóm tắt vụ việc: Ông Cường và bà Bính có diện tích đất 288m2 chuyển nhượng cho
anh Thăng (con riêng của bà Bính) là một phần trong tổng diện tích mà mẹ ông Cường để lại sau
khi chết không có di chúc. Thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất trên là ngày 20/01/2004.
Tòa án căn cứ quy định của pháp luật về thừa kế để chia cho ông Cường được sử dụng 288m2 đất
trên và đây được coi là tài sản riêng của ông Cường. Ngày 10/08/2005 anh Hưng là con trai của
ông Cường với bà Chế (vợ cũ ông Cường) mới đăng ký giám hộ cho ông Cường. Theo đề nghị
của anh Hưng, TAND huyện Văn Chấn đã ra Biên bản quyết định trưng cầu giám định pháp y
tâm
thần với ông Cường. Tại giám định pháp y tỉnh đã kết luận: “Ông Cường bị mắc bệnh ‘loạn thần
do sử dụng rượu’, thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004. Trên cơ sở giám định như trên,
ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực hành vi dân sự từ trước 01/01/2004 thì bà
Bính là vợ ông Cường trong mọi giao dịch dân sự phải tham gia với tư cách là người giám hộ để
đại diện cho ông Cường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Cường Nhưng trên thực
tế trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Bính đã không tham
gia giao kết với tư cách là người giám hộ của ông Cường, không đăng ký việc giám hộ mà tham
gia ký kết hợp đồng như một chủ thể sở hữu tài sản với chính con riêng của bà Bính là anh
Thăng. Như vậy trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, ông Cường không hề có người giám hộ và không có ai đăng ký việc giám hộ cho ông Cường
theo quy định của Điều 58 và 62 BLDS.
+ Hướng giải quyết của Tòa án: TAND huyện Văn Chấn cho rằng anh Thăng đã ký kết
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Cường là người mất năng lực hành vi dân
sự, và bà Bính vẫn là người không có quyền định đoạt, xử lý tài sản là đối tượng của hợp đồng
chuyển nhượng mà không có sự tham gia của người đại diện cho ông Cường. Vì vậy đã phát sinh
một hợp đồng với các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định tại điều 133 BLDS. Vì vậy
cần căn cứ vào quy định tại khoản 2 điều 137 BLDS để hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên
và xử buộc anh Thăng trả lại 288m2 đất thổ cư cho ông Cường và người đại diện là anh Hưng.
2.5 Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc
trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi đưa ra hướng xử
lý.
+ Theo tôi hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên là hợp lý. Căn
cứ vào Điều 122 BLDS 2015 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện
được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định
khác.”. Trường hợp của ông Hội dựa theo điểm b điều 117 BLDS năm 2015 vì khi ông Hội xác
lập, tham gia giao dịch vào ngày 12/02/2010 thì ông đã bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận
thức, làm chủ hành vi của mình, không tự nguyện xác lập tham gia giao dịch nên giao dịch dân
sự đó bị vô hiệu.
2.6 Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó có bị
vô hiệu không? Vì sao?
+ Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó không bị vô
hiệu. Vì theo khoản 2 Điều 125 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự của người quy định tại điểm b
khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây: giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh
quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho người thành niên, người có năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người
đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ”. Giao dịch tặng cho ông Hội chỉ làm phát sinh quyền cho
ông nên giao dịch này không bị vô hiệu.
VẤN ĐỀ 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối
3.1 Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo BLDS 2005 và
2015?
BLDS 2005 BLDS 2015
Cơ sở pháp lý: điều 132 Cơ sở pháp lý: điều 127

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị
lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền
Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó
hiệu. là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của
một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho
bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự
nên đã xác lập giao dịch đó. nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch là hành vi
một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người thân
cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình. thích của mình.

3.2 Đoạn nào của Quyết định 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên vô hiệu do
có lừa dối?
+ Đoạn được trích từ Quyết định 521/2010/DS-GĐT cho thấy thỏa thuận hoán nhượng
Đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối là: “Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà
Trần Thị Phú Vân -họ hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng
về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà đã
có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường giá trị căn
nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư theo Quyết định số
135/QĐ-UB ngày 21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tại bản “Thỏa thuận hoán nhượng”
không có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E
Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh Vinh). Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán
nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132 BLDS để giải quyết.”
3.3 Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ anh/chị biết.
+ Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ. Cụ thể trong Bản án số 13/2019/DSST
ngày 20/08/2019 về tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có nội dung tóm tắt như
sau: “Khoảng thời gian năm 2016-2017 ông L nói với bà T Nhà nước có chính sách cấp đổi lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tin lời ông L, bà T đã đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông L làm thủ tục cấp đổi. Sau đó ông L có yêu cầu bà T đến Văn phòng công chứng ký
giấy, bà T có ký và điểm chỉ vào giấy để làm tủ tục cấp đổi giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Đến năm 2018 bà T mới biết ông L chuyển quyền từ bà T sang tên ông L bằng hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất. Nay, bà T yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất giữa bà T với ông L là giao dịch dân sự vô hiệu lý do bị lừa dối, yêu cầu Tòa án hủy các
hợp đồng tặng cho.” (4)
+ Kết quả Toà án nhân huyện Đất Đỏ đã tuyên giao dịch dân sự vô hiệu, hủy các
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nói của bà T cho ông L.
3.4 Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì sao?
+ Hướng giải quyết trên vẫn phù hợp với BLDS năm 2015. Vì khi xét việc anh
Vinh đã giấu ông Đô, bà Thu quyết định cưỡng chế nhà và không cho vợ chồng bà biết nhà và
đất đã bị giải tỏa khi kí “Thỏa thuận hoán nhượng” ngày 19/5/2004 dẫn đến việc ông Đô, bà Thu
đã ký thoả thuận theo căn cứ ở Điều 127 và điểm b khoản 1 Điều 132 BLDS thì vẫn đủ điều kiện
khẳng định thỏa thuận hoán nhượng đã bị vô hiệu do có lừa dối.
3.5 Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu Tòa
án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
+ Trong Quyết định số 210, theo Tòa án: Ông Tài có quyền khởi kiện yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, nếu ông Tài không biết việc ông Dương giả mạo
chữ ký của bà Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
+ Bà Nhất không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu.
Vì theo quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005, bà Nhất không phải là một bên tham gia giao
dịch với ông Tài nên bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố quyền sử dụng đất vô
hiệu do bị lừa dối.
3.6 Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
+ Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối là không còn. Vì theo khoản 1 điều 136 BLDS 2005 quy định thời hiệu
khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu do bị lừa dối
là 2 năm kể từ ngày thực hiện giao dịch, điều 159 BLTTDS 2005 quy định trong trường hợp
pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện dân sự là 2 năm. Bà
Nhất biết ông Dương giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài là năm 2007,
còn thời gian bà Nhất khởi kiện năm 2010, vượt quá thời hiệu của Điều 159 BLTTDS 2005 quy
định trên.
3.7 Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối,
Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
+ Thời điểm bà Nhất khởi kiện là 10/12/2010 như vậy áp dụng theo BLDS 2005.
BLDS 2005 chỉ đề cập đến việc còn hay mất quyền khởi kiện mà không quy định rõ số phận
pháp lý của giao dịch khi đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với trường hợp hết thời hiệu yêu cầu
Tòa án hay Trọng tài tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn thì Tòa án
đã có hướng dẫn theo hướng giao dịch dân sự có hiệu lực tại Quyết định giám đốc thẩm số
01/2008/DS-GĐT ngày 15/08/2007 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân. Như vậy, căn cứ
vào hướng dẫn của Tòa án thì trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng.
3.8 Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định tương ứng
của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?
+ Với câu 5, câu trả lời vẫn không thay đổi.
+ Với câu 6, thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối vẫn đã
kết thúc. Mặc dù theo điểm b khoản 1 Điều 132 BLDS 2015, thời hiệu tuyên bố hợp đồng vô
hiệu là 2 năm được tính từ ngày bà Nhất biết chuyện, khác với Điều 136 BLDS 2005 thời hiệu
được tính từ ngày xác lập giao dịch, nhưng đến khi bà Nhất đi kiện thì cũng đã vượt qua thời
hiệu là hai năm. (Từ 8/2007 đến 10/12/2010).
VẤN ĐỀ 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
4.1 Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
+ Theo khoản 1 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu không
làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được
xác lập.
Tóm tắt: Quyết định Giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GĐT
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Orange
Bị đơn: Công ty cổ phần phát triển Phú Mỹ.
Công ty Orange trình bày: Công ty Phú Mỹ chỉ định công ty Orange làm nhà thầu cung cấp dịch
vụ thiết kế cho mình. Sau khi kí kết công ty Orange đã triển khai ngay các công việc theo hợp
đồng và công ty Phú Mỹ đã thực hiện thanh toán lần 1, 2. Công ty Orange đã hoàn tất và bàn
giao
cho công ty Phú Mỹ, công ty Phú Mỹ không có phản hồi gì nhưng không thanh toán cho công ty
Orange.
Công ty Phú Mỹ trình bày: Xác nhận hợp đồng giữa hai bên. Do bàn thảo còn sơ sài nên trong
cuộc họp qua mạng với công ty Orange, công ty Phú Mỹ đã báo cho công ty Orange trì hoãn thi
công. Công ty Orange đã chỉnh sửa bản vẽ 2 lần những vẫn không đạt yêu cầu nên công ty Phú
Mỹ đã phải thuê công ty khác tiếp tục hoàn thành.
Quyết định của Tòa án:
Tòa sơ thẩm: Chấp nhận 1 phần đơn khởi kiện cAa công ty Orange, chấm dứt hNp đEng dịch vụ
giữa 2 công ty, buộc công ty Phú Mỹ thanh toán 3.720.448.347đ.
Tòa phúc thẩm: Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Toà giám đốc thẩm: Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
127/2011/KDTM-PT và bản án sơ thẩm 08/2011/KDTM-ST giao cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương xét xử theo quy định của pháp luật.
4.2 Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ có phải
thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương đương với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
+ Trên cơ sở BLDS, thì khi Hợp đồng dịch dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ
phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương đương với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện vì căn cứ vào khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 thì “Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường
hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”
+ Như vậy, trong trong quá trình giải quyết vụ án thì Công ty Orange đã bàn giao
cho Công ty Phú Mỹ CD cùng bộ bản vẽ chi tiết của Dự án, dù không lập thành văn bản nhưng
hai bên đương sự đã trình bày thống nhất với nhau, bởi lẽ Công ty Phú Mỹ phải thanh toán phần
sản phẩm Công ty Orange đã hoàn thành theo thỏa thuận trong hợp đồng, nếu không hoàn trả
bằng hiện vật như CD và bản vẽ chi tiết thì trong trường hợp này Công ty Phú Mỹ phải thanh
toán bằng trị giá thành tiền cho những gì Công ty Orange đã thực hiện.
4.3 Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc mà Công ty
Orange đã thực hiện như thế nào?
+ Hội đồng thẩm phán cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
chưa thu thập đầy đủ tài liệu và chưa làm rõ các vấn đề về khối lượng công việc mà công ty
Orange đã thực hiện. Cụ thể, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không làm rõ Công ty
Orange đã bàn giao sản phẩm thiết kế vào ngày nào; sản phẩm thiết kế được bàn giao gồm những
gì và nội dung, khối lượng công việc được Công ty Orange thực hiện có đúng như thỏa thuận
không. Công ty Orange tiếp tục bàn giao các bản thiết kế sau khi hoàn chỉnh theo yêu cầu của
Công ty Phú mỹ vào tháng 11/2017 và tháng 01/2008 như trình bày của Công ty Phú Mỹ hay
không. Bởi lẽ đó, Tòa án nhân dân tối cao giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương xét xử sơ thẩm lại, làm rõ các vấn đề trên bằng cách yêu cầu các bên đương sự cung cấp
tài liệu, chứng cứ chứng minh cũng như sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác để làm rõ
các vấn đề trên.
4.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan tới
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu.
+ Vì sai sót của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm nên chứng cứ và tài liệu về khối lượng công
việc của công ty Orange là chưa được xác nhận nên hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán
khi hợp đồng vô hiệu là hợp lý. Bởi lẽ sau khi giải quyết lại vụ án để có đủ cơ sở giải quyết chính
xác thì theo khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015, khi giao dịch dân sự vô hiệu, công ty Phú Mỹ
phải hoàn trả lại cho công ty Orange giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà công ty
Orange đã thực hiện vì dù không lập thành văn bản nhưng hai bên đương sự đã trình bày thống
nhất với nhau về sản phẩm.
4.5 Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công ty Orange
đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu? Nội dung xử lý
khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị
về chủ đề này như thế nào?

Tóm tắt: Quyết định Giám đốc thẩm số 75/2012/DS-GĐT


Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Sanh
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Dư
Ông Nguyễn Văn Sanh trình bày: Vợ chồng anh Dư, chị Chúc có chuyển nhượng cho ông
100m2 đất thổ cư trị giá 160.000.000đ có xác nhận của trưởng khu và UBND xã. Ông trả tiền
cho vợ chồng anh Dư làm 2 lần, 1 lần tại Ngân hàng Công thương, số còn lại trả cho chị Chúc
cùng ngày. Sau đó ngày 28/10/2006 ông lên UBND làm thủ tục chuyển nhượng QSDĐ thì vợ
chôgng anh Dự không ký vào hợp đồng.
Anh Nguyễn Văn Dư trình bày: Vợ chồng anh có vay ông Sanh 160.000.000đ đã thế chấp giấy
chứng nhận QSDĐ để làm tin, sau khi vay được vài tháng thì vợ chồng anh đem tiền đến trả
nhưng ông Sanh không nhận. Anh thừa nhận có viết giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Sanh
nhưng hôm đó vợ anh đi nên anh đã ký thay cho chị Chúc. Ông Sanh nên tháo dỡ công trình trên
mảnh đất đó và trả lại cho vợ chồng anh.
Quyết định của các cấp xét xử:
Tòa án sơ thẩm: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Sanh với anh
Dư, chị Chúc, giao anh Sanh sử dụng thửa đất diện tích 100m2. Bác đơn của anh Dư, chị Chúc
yêu cầu anh Sanh trả lại thửa đất 100m2.
Tòa án phúc thẩm: Tuyên bố giao dịch giữa anh Dư, chị Chúc, ông Sanh là vô hiệu, buộc ông
Sanh trả lại đất cho anh Dư, chị Chúc, giao anh Dư, chị Chúc sử dụng nhà xưởng lập trên diện
tích 100m2 đất, buộc anh chị trả lại và bồi thường cho ông sanh tổng cộng 571.755.000 đ.
Tòa giám đốc thẩm: Chấp nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
4.6 Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng
vô hiệu?
+ Vì vào ngày 18/10/2010 Toà án nhân dân đã có quyết định 01/TA gia hạn để
các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc không
thực hiện nên hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định tại điều
134 BLDS năm 2005.
4.7 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu trong
quyết định trên.
+ Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu trong quyết định trên
là một quyết định hợp lý. Dựa theo quá trình giải quyết và tòa án đã trưng cầu giám định và tại
kết luận giám định số 1496/KLGĐ/PC54 ngày 22/9/2015 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an
tỉnh Thanh Hóa xác định được chữ ký không phải do một người ký và viết ra. Chính vì thế hợp
đồng vô hiệu theo đúng quy định tại các Điều 122,123 của BLDS năm 2005.
4.8 Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh sẽ được bồi
thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
+ Ông Sanh sẽ được bồi thường bằng 100% chênh lệch giá của 82,051% giá trị
của thửa đất theo giá thị trường (nghị quyết số 01/2003/NĐ-HĐTP) vì theo khoản 4 điều 134
thì bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường mà trong phần xét thấy của Toà án thì do vợ chồng
anh Dư và chị Chúc không hợp tác để hoàn thiện các thủ tục về hình thức của hợp đồng nên anh
Dư, chị Chúc phải chịu bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Sanh.
4.9 Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và ghi
nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để cấp lại quyền sử
dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu hay không? Vì sao?
+ Việc Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho
ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để cấp lại quyền sử dụng đất là hệ
quả của vô hiệu giao dịch dân sự, theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015, “khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1): TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng và ThS. Nguyễn Trương Tín, Giáo trình những quy định
chung
về Luật dân sự của Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức-Hội
Luật gia Việt Nam 2018, Chương VI, tr.299.
(2), (3): TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng và ThS. Nguyễn Trương Tín, Giáo trình những quy định
chung về Luật dân sự của Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2018, Chương VI, tr.300.
(4): Quang Chính, “Lừa dối trong giao dịch dân sự-thực tế xét xử”,
htttp://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/lua-doi-trong-giao-dich-dan-su-thuc-tien-xet-xu-4253.

You might also like