You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


Bài tập tuần


Buổi thảo luận thứ sáu
QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
Môn : Những quy định chung về Luật dân sự, tài sản, thừa kế
Lớp: 126 - TM46B1
Nhóm thảo luận : Nhóm 1
Danh sách thành viên
STT Họ và tên MSSV
1 Tô Hồng Ngọc 2153801011140
2 Nguyễn Thị Yến Nhi 2153801011157
3 Trần Hoàng Phúc 2153801011166
4 Chu Thị Thủy Tiên 2153801011184
5 Trần Thanh Tùng 2153801011188
6 Nguyễn Hoàng Thiên Thanh 2153801011193

Năm học 2021 – 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1 : HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC........................................................................1
Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT:......................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT:.........................................................................1
1.1 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời............................................................................................................................. 2
1.2 Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời?.......................................................................................................................3
1.3 Di chúc của ông này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?................3
1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di
chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay...............................................4
1.5 Di chúc của cụ Hựu được lập như thế nào?...............................................................5
1.6 Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?.........5
1.7 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức
phù hợp với quy định của pháp luật?...................................................................................5
1.8 Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của bà Hựu?................6
1.9 Các điều kiện nào nêu trên đã không đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?..............6
1.10 Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
7
1.11 Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ....................................................................................................8
VẤN ĐỀ 2 : TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC........................................9
Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 :..............................................9
Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 :..............................................10
2.1 Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả
lời. 10
2.2 Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương ?........................................................................11
2.3 Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc ? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời ?........................................................................................................................ 11
2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm.........................11
2.5 Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời..........................................................................................................12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

2.6 Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?........................12
2.7 Quyết định 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi
trước khi hai cụ chết?........................................................................................................13
2.8 Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác định vừa nêu của
Tòa giám đốc thẩm?..........................................................................................................13
2.9 Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ
D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ
của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.....................................................14
VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG.........................................................15
Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Phú
Thọ :.................................................................................................................................. 15
3.1 Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng?16
3.2 Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.....................................................................16
3.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.........................................................................17
VẤN ĐỀ 4 : DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG....................................................17
Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”:............................................17
4.1 Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời..............................................................................................................18
4.2 Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng ?................................................................................................................................ 19
4.3 Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không ?.....................................................................19
4.4 Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh
chấp này ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ?.............................................................20
4.5 Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng
không ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ?.................................................................20
4.6 Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải
pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu......................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................22
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

VẤN ĐỀ 1 : HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC


Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu

Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng

Ông Nguyễn Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp từ năm 1970, sở hữu chung
diện tích đất 255m2 (đo thực tế 275m2) thuộc thửa số 83, tờ bản đồ số 8 – Bản đồ địa chính
thị trấn Hai Riêng, được UBND huyện Sông Hinh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AG 77357 ngày 02/5/2007.  Từ năm 1993, bà Trọng không còn sinh sống chung với ông
Này, ông Này sống chung với anh Hiếu, Trung, Việt (con riêng của ông Này và bà Nguyễn
Thị Tâm). Vào năm 2008, ông Này qua đời, đã lập di chúc giao quyền thừa kế toàn bộ nhà
đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho anh Hiếu, được lập trong lúc ông
Này hoàn toàn minh mẫn và có được sự làm chứng, điểm chỉ của cha, em trai, em gái của
ông Này. Bà Trọng cho rằng di chúc này không hợp pháp, đuổi ba anh em Hiếu, Trung, Việt
ra khỏi nhà. Anh Hiếu khởi kiện yêu cầu bà Trọng hoàn thành đúng di chúc của ông Này,
giành lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT:


Nguyên đơn: ông Đỗ Văn Quang

Bị đơn: bà Hoàng Thị Ngâm

Bà Đỗ Thị Hựu và cụ Đỗ Văn Hằng là vợ chồng, cùng chung sống tại nhà đất ở Thôn Lê Xá.
Bà Hoàng Thị Ngâm vợ của ông Đỗ Văn Hồng (con trai cụ Hựu và cụ Hằng, mất năm
1968). Cụ Hựu mất. để lại phần di sản gồm thửa đất 56 diện tích 210m2, thửa đất 54 diện
tích 462m2 và thửa đất 57 diện tích 526m2 tại thôn Lê Xá, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh,
Hà Nội, trên thửa đất 57 có 01 ngôi nhà cấp 4 năm gian và 1 giếng nước. Theo lời của bà
Ngâm, cụ Hựu đã lập di chúc và giao toàn quyền sử dụng những di sản trên cho bà và bà
Lựu (con gái cụ Hựu và cụ Hằng). Ông Quang khởi kiện, yêu cầu hủy di chúc nêu trên của
cụ Hựu vì bản di chúc này không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ
Hựu theo pháp luật. Bà Ngâm không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của ông Quang, nếu
phải chia thừa kế bà yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của cụ Hựu, đồng thời tính cho bà

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

công sức bảo quản, duy trì, quản lý khối di sản, công sức chăm sóc cụ Hựu khi ốm đau và
mai tang cho cụ khi chết, Tuy nhiên, Tòa án xét thấy, di chúc của cụ Hựu chưa đủ căn cứ để
chứng minh là di chúc hợp pháp, do Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu
vân tay mở không thể hiện rõ các đặc điểm nên không đủ yếu tố xác định; UBND xã Mai
Lâm không xác nhận nội dung của di chúc. Do đó, Tòa án quyết định hủy bản án phúc thẩm
và giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Đông Anh, TP. Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng
quy định của pháp luật. 

1.1 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Theo Khoản 1 Điều 630 và Điều 631 BLDS 2015, điều kiện để di chúc tự viết tay có
giá trị pháp lý là: 

Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép;

Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức
di chúc không trái quy định của luật, cụ thể di chúc phải bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

+Ngày, tháng, năm lập di chúc;

+Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

+Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

+Di sản để lại và nơi có di sản

Về mặt hình thức, di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm
nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập
di chúc

Trường hợp di chúc có sự tẩy, xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng
di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy, xóa, sửa chữa. 

2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

1.2 Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
Trong trường hợp di chúc của ông Nguyễn Này là di chúc phải có người làm chứng,
những người đã làm chứng di chúc của ông, cụ thể là ông Chìa, bà Phước (cha mẹ ông Này)
và ông Thành (em ruột ông Này) là những người làm chứng hoàn toàn hợp pháp.

Theo Điều 654 BLDS 2005 quy định về Người làm chứng cho việc lập di chúc:

“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; 
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.”
Cha mẹ và em của ông Này là những người có đủ năng lực hành vi dân sự. Tuy vậy,
cha mẹ của ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều
676 BLDS 2005 về người thừa kế theo pháp luật, và vô tình rơi vào trường hợp được quy
định tại Khoản 1 Điều 654 được liệt kê ở trên. Về em trai và em gái của ông Này, theo như
nội dung được những người làm chứng này đề cập trong Bản án “Chúng tôi không yêu cầu
hưởng di sản”, họ đủ năng lực hành vi dân sự, đồng thời không nằm trong những trường hợp
được đề cập ở Điều 654. Vậy, ta hoàn toàn có đủ căn cứ để khẳng định em trai và em gái là
những người làm chứng hợp pháp trong trường hợp di chúc của ông Này là di chúc phải có
người làm chứng. 
1.3 Di chúc của ông này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay.
Thứ nhất, trong phần Nhận thấy của Bản án, Tòa án đã có đề cập: “Khi làm tuần 49
ngày, ông Nguyễn Văn Hùng là anh cùng mẹ khác cha với ông Hiếu đưa ra toàn bộ di chúc
gồm: 1 quyển sổ đỏ, 01 sổ hộ khẩu, 01 giấy thừa kế quyền sử dụng đất, 01 giấy ủy quyền sử
dụng đất do ông Này viết giao đất cho ông Hiếu…”.

3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

Thứ hai, di chúc của ông Này được lập ra tuân thủ đúng theo những quy định về hình
thức của di chúc viết tay được quy định tại Điều 655 BLDS 2005: “Người lập di chúc phải
tự tay viết và ký vào bản di chúc”
Thứ ba, lúc lập di chúc, ông Này hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe
dọa hay cưỡng ép và có nhiều người làm chứng.
Vì thế, di chúc của ông Này là di chúc được viết tay và là di chúc hợp pháp. 
1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức
di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay. 
Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này là hoàn
toàn hợp lý. 
Bởi lẽ, di chúc trên được ông Này lập ra trong tình trạng ông hoàn toàn minh mẫn,
sáng suốt, không hề có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép, hơn nữa có nhiều người
làm chứng. Mặc dù giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa
phương công chứng, chứng thực nhưng vẫn là di chúc hợp pháp căn cứ theo những điều kiện
được liệt kê ở trên và căn cứ theo Điều 652 BLDS 2005 quy định về Di chúc hợp pháp.

“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa
hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp,
nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm

4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.”
1.5 Di chúc của cụ Hựu được lập như thế nào?
Dựa vào phần Xét thấy của Bản án, ta thấy di chúc của cụ Hựu được lập như sau: 
- Di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết (do cụ Hựu không biết chữ), sau đó cụ Hựu
điểm chỉ.
- Ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ông Vũ) ký tên làm chứng.
- 04/01/1999, sau khi di chúc được lập 1 tháng, bà Lựu mang di chúc đến cho ông
Hoàng Văn Thưởng (Trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác nhận.
1.6 Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
Cụ Hựu không hề biết chữ
Căn cứ vào Đoạn đầu của phần Xét thấy thuộc Quyết định số 874: “Di chúc do cụ
Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ…”, “Ông Quang xác định cụ Hựu là người
không biết chữ”.
Dựa vào việc cụ Hựu không trực tiếp lập di chúc, nhờ người khác lập và bản thân chỉ
đọc nội dung, hơn nữa có sự xác nhận của nguyên đơn Đỗ Văn Quang, từ đó ta có thể xác
định cụ Đỗ Thị Hựu không biết chữ. 

1.7 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức
phù hợp với quy định của pháp luật?

Căn cứ tại khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 về Di chúc hợp pháp có quy định: “Di chúc
của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng
lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

  Ngoài ra, còn phải thỏa mãn điều kiện tại Điều 634 BLDS 2015 quy định về Di chúc
bằng văn bản có người chứng:

“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh
máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập
di chúc và ký vào bản di chúc.
5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và
Điều 632 của Bộ luật này.”

Vì thế, theo quy định của pháp luật thì di chúc của người không biết chữ phải thỏa
mãn các điều kiện để có hình thức phù hợp với quy định pháp luật như là:

- Di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản;

- Di chúc phải có công chứng hoặc chứng thực;

- Di chúc có ít nhất hai người làm chứng;

- Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người
làm chứng;

- Người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di
chúc;
1.8 Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của bà Hựu?

Di chúc của bà Hựu có hai người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý. Đồng thời, bản di
chúc của bà Hựu là do bà Hựu đọc cho ông Vũ viết. Điều này cho thấy di chúc của bà Hựu
đã đáp ứng được điều kiện là có ít nhất hai người làm chứng và được người làm chứng lập
thành văn bản.
1.9 Các điều kiện nào nêu trên đã không đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?

Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của bà Hựu là: Công chứng chứng
thực.

Công chứng chứng thực ở đây là theo thủ tục công chứng chứng thực quy định tại
Điều 636 BLDS 2015 về Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban
nhân dân cấp xã:

“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải
tuân theo thủ tục sau đây:

 1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người
lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác
6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

 2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc,
không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác
nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân
dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.”
1.10 Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?

Di chúc trên không thỏa mãn về điều kiện hình thức. Tuy di chúc đã được lập thành
văn bản và có người làm chứng nhưng về yêu cầu có công chứng, chứng thực do cụ Hựu là
người không biết chữ thì chưa thỏa mãn yêu cầu của Luật. Bởi theo quy định tại Điều 636
BLDS 2015: “Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà
người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi
xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản
di chúc.”

Nhưng ở đây, cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ viết và bà Lựu mang di chúc đến cho ông
Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác nhận. Điều đó không phù
hợp với luật quy định. Mặc khác nếu theo Quyết định thì cụ Hựu không rơi vào Khoản 2
Điều 636 BLDS 2015. Ta cũng cần phân biệt trường hợp “di chúc viết hộ” với “di chúc
được lập bởi người không thể tự lập di chúc do khiếm khuyết hoặc mù chữ”. “Lưu ý: Riêng
đối với người lập di chúc bị khiếm khuyết thể chất không thể tự viết di chúc được hoặc bị mù
chữ, thì không được nhờ người khác viết hộ di chúc có người làm chứng theo thể thức này,
mà họ chủ có thể được lập văn bản, theo thủ tục công chứng, chức thực và phải có người
làm chứng (khoản 2 Điều 636 BLDS 2015)1.”

1
Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và thừa kế, Nxb
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Tr 482.
7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

1.11 Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ.
     Quy định liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ được quy định
một cách khá chặt chẽ. Cụ thể ta thấy, tại Khoản 3 Điều 630 và Điều 634 BLDS 2015 quy
định: “Di chúc của người không biết chữ phải được lập thành văn bản thông qua việc nhờ
người khác viết tay hoặc đánh máy, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng; người lập
di chúc phải điểm chỉ trước mặt những người làm chứng và những người làm chứng cùng ký
tên vào di chúc” và cuối cùng là “Di chúc ấy phải được công chứng hoặc chứng thực bởi
công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã”.

    Tuy nhiên BLDS chưa đề cập đến việc người viết di chúc hộ có được làm người
chứng thực hay không, hay cũng như chưa đề cập đến việc người mang di chúc đi công
chứng hoặc chứng thực phải là người thể hiện được ý chí của người lập di chúc thành văn để
có thể đảm bảo sự chính xác, rõ ràng của di chúc, để tránh được sự thay đổi di chúc không
đúng với ý chí của người lập di chúc, từ đó tránh các vấn đề tranh chấp cũng như bất cập xảy
ra trên thực tế.

VẤN ĐỀ 2 : TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC


Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 :
Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý 
Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn Hữu Lộc. 
Cụ Quý và cụ Hương kết hôn năm 1955 và có 12 con chung, tạo lập được bất động sản bao
gồm nhà và đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận. Ngày
06/04/2009, cụ Hương chết, có để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302

8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

cho 5 người con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn
Hữu Dũng và Quảng Thị Kiều, di chúc đã được công chứng tại phòng công chứng số 4 TP
HCM. Nay cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cụ ra làm 2 phần,
được hưởng ½ giá trị căn nhà bằng hiện vật, 2/3 suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản
của cụ Hương để lại. Ông  Lộc và Ông Dũng không có ý kiến gì đối  với  yêu  cầu  của  cụ
Quý đối  với  phần  tài  sản chung của 2 cụ, tuy nhiên, căn nhà hiện  nay  do  2  ông  quản 
lý  và  sử dụng,  xin  cụ Quý được hưởng một phần vì không còn chỗ ở khác.
Quyết định của các cấp xét xử:
- Tại bản án dân sự sơ thẩm: Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền là tài
sản chung của cụ Hương và cụ Quý. Cụ Quý được hưởng ½ căn nhà 302 Nguyễn
Thượng Hiền, ½ giá trị tiền xây dựng nhà, ngoài ra còn được hưởng thừa kế của cụ
Hương 18,8m2 diện tích đất và giá trị tiền xây dựng nhà. 5 người con được đề cập
trong di chúc của cụ Hương  và 2 con là Minh Trí và Kiều Nga mỗi người được
hưởng  64,3m2 đất  và  giá  trị tiền  xây  dựng  nhà  của căn nhà 302 Nguyễn Thượng
Hiền.
- Sau đó, ông Lộc đã khiếu nại bản án dân sự sơ thẩm. Tại Tòa giám đốc thẩm, Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án tòa án nhân dân
tối cao và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 1162/2010/DS-ST ngày 11/08/2010.
- Cơ sở pháp lý: 
Điều 643 Bộ luật dân sự 2015 Hiệu lực của di chúc.
Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 :
Nguyên đơn là ông Trần Văn Y và bị đơn là Phòng công chứng M, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D1. Cụ Nguyễn Văn D và cụ Nguyễn Thị C chung
sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, hai người có thửa đất số 38 là tài sản chung. Vì
không có con với cụ C, cụ D chung sống với cụ N và sinh ra ông D1 và sau đó cụ N cũng
mất. Cụ C và cụ D lập di chúc để lại phần tài sản là bất động sản tại thửa đất số 38 cho ông
D1. Tuy nhiên, ông Y cho rằng thửa đất này ông đã mua từ cụ C từ năm 1978. Việc Phòng
công chứng M công chứng di chúc của cụ D, văn bản công bố di chúc của hai cụ đã làm ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ông Y nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án
9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

tuyên bố các văn bản công chứng trên vô hiệu. Tuy nhiên, các tài liệu do ông Y xuất trình
chỉ có cụ C chuyển nhượng cho ông Y mà chưa có ý kiến của cụ D. Ngoài ra, trước khi cụ C
và cụ D mất thì thửa đất số 38 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21/7/2010. Vì các lẽ trên, Tòa án quyết định giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật, cụ thể là cần phải xem
xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng đất, bản di chúc do cụ D và cụ C lập cũng
như Văn bản công bố di chúc mới giải quyết triệt để vụ án.
2.1 Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả
lời. 
Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường
5 quận Phú Nhuận, đây là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý cho 5 người con của mình.
Đoạn của Quyết định số 359 có chỉ ra rằng: “Ngày 06/04/2009, cụ Nguyễn Văn Hương chết,
để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường
5, quận Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn
Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công
chứng tại Phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.”
Ngoài ra, trong phần “Xét thấy” của Quyết định số 359/2013/DS-GĐT: “Theo các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn
Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân
quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày
16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu
Trí).”
2.2 Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương ?
Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy tài sản của cụ Hương định đoạt trong di chúc là
tài sản chung của vợ chồng cụ Hương: “…Tuy nhiên về di chúc chỉ có giá trị một phần bởi
nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc

10
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không
đúng...”
2.3 Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc ? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời ?
Toà án đã công nhận một phần của di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương được công
nhận là một phần đối với tài sản của cụ Hương (½ nhà đất) được chia đều cho 5 người con
nhưng phải là sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; ngoài ra, còn ½
diện tích đất còn lại sẽ được chia cho cụ Quý.  
Đoạn của Quyết định số 359/2013/DS-GĐT cho câu trả lời: “…Vì vậy, Tòa án cấp sơ
thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản
của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn  
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ
Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; còn ½ diện
tích đất còn lại được chia cho cụ Quý;…”
2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm.
    Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý. 
    Cả miếng đất và căn nhà trên mặc dù theo lời khai của ông Nguyễn Hữu Dũng là tài
sản cụ Hương có trước thời kỳ hôn nhân. Và đáng lý là quyền sử dụng đất có trước thời kỳ
hôn nhân là tài sản riêng. Tuy nhiên, không có căn cứ pháp lý nào chứng minh cho việc đó
mà chỉ đến 1994 thì cụ Hương mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vậy hiển
nhiên nhà đất mà cụ Hương để lại là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương, cụ Quý. Nên cụ
Hương chỉ có quyền để chia thừa kế với phần di sản là ½ căn nhà số 302 Nguyễn Thượng
Hiền, còn ½ còn lại được chia cho cụ Quý, cách phân chia tài sản vậy là đúng với quy định
pháp luật. Tiếp theo, việc Tòa xác định chia di sản cho 5 người con sau khi đã chia cho cụ
Quý ⅔ suất thừa kế là hoàn toàn phù hợp với Điều 644 Bộ luật dân sự 2015.
2.5 Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

11
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

   Nếu cụ Quý chết trước thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài sản của cụ
Hương trong phần tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương (1/2) cộng thêm cho phần tài sản
mà cụ Hương được hưởng sau khi chia di sản của cụ Quý. Ta xét 3 trường hợp sau:
    Trong trường hợp cụ Quý để lại di chúc nhưng không chia di sản cho cụ Hương thì
phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật mà
cụ Hương được nhận từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di
chúc. Căn cứ vào Điều 644 Bộ luật dân sự 2015.
    Còn nếu cụ Quý để lại di chúc có chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc có giá trị
pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm phần di sản cụ Hương được nhận. Căn cứ vào Điều 609
Bộ luật dân sự 2015
   Trường hợp cụ Quý không để lại di chúc thì phần di sản của cụ Quý sẽ được chia theo
pháp luật (cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm 12 người con và cụ Hương) thì
phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm 1/13 di sản cụ Quý để lại.
Căn cứ vào Điều 650, 651 Bộ luật dân sự 2015.
2.6 Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
    Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương vẫn sẽ có giá trị pháp lý. Trong thực tế thì khi làm
thủ tục chuyển giao quyền sử dụng nhà đất thì đều phải mất 1 khoảng thời gian để được
công chứng. Việc chưa có công chứng nhà đất không làm mất đi quyền định đoạt của một
người đối với tài sản của mình đã mua. Từ thời điểm trước tháng 4/2009 tài sản nhà đất trên
đã là tài sản của cụ Hương nhưng chỉ là chưa được công nhận bởi nhà nước và di chúc cụ
Hương để lại vẫn đáp ứng hình thức của di chúc và đó là một bản di chúc hợp pháp thỏa mãn
các yêu cầu cầu Điều 630 BLDS 2015, được công chứng vào tháng 1/2009. Vậy nên tài sản
được định đoạt như trên vẫn có giá trị pháp lý. 
2.7 Quyết định 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi
trước khi hai cụ chết?
Đoạn trong Quyết định số 58 minh chứng cho việc quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết là: 

12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

“Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D chết.” 


“[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản
đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban
nhân dân thành phố Vinh Yen nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi
vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di
chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.”
Có thể thấy rằng ngày 21/7/2010 quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi.
Mà cụ C đã mất vào ngày 7/9/2010 và cụ D mất ngày 21/1/2011.
2.8 Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác định vừa nêu
của Tòa giám đốc thẩm?
Trong phần “Nhận định của Tòa án” của Quyết định số 58 có đoạn cho thấy Tòa giám
đốc thẩm xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất:
“[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản
đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban
nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được
pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di chúc định
đoạt tài sản trên cho ông D1.”
Hướng giải quyết của Tòa án về việc xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử
dụng đất là hợp lý.
Thứ nhất, căn cứ pháp lý theo Khoản 3 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015: “Di chúc
không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế;
nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại
vẫn có hiệu lực.” Theo đó khi người lập di chúc còn sống thì thửa đất đã bị nhà nước có
quyết định thu hồi trong trường hợp này là thu hồi có đền bù. Như vậy, nếu xác định đối
tượng di sản là bất động sản thì tại thời điểm thừa kế thì di sản không còn. Nếu xác định di
sản là quyền sử dụng đất thì nó còn giá trị đền bù.
Thứ hai, khi xác định là quyền tài sản quyền sử dụng đất thì căn cứ theo Điều 115 Bộ
luật dân sự 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối
với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” Theo đó
13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

trường hợp này giá trị của quyền sử dụng đất bị thu hồi được bảo đảm bằng giá trị bồi
thường nên người có đất bị thu hồi có quyền lập di chúc định đoạt giá trị bồi thường. Do đó,
tại thời điểm mở thừa kế di sản để lại cho người thừa kế còn tồn tại để đảm bảo được quyền
lợi của người thừa kế.
2.9 Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ
D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy
nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi: “Ngoài ra, di
sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu
hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố
Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật
bảo đảm theo quy định của Luật đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản
trên cho ông D1.”
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý và vì đã nêu rõ giá trị quyền sử
dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất
đai, từ đó bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của 2 cụ và anh D1.
Khoản 3 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015: “Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại
cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế
chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.” 
Khoản 1 Điều 630 Bộ luật dân sự 2015: “Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện
sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình
thức di chúc không trái quy định của luật.”
Di sản cụ D và cụ C để lại là quyền sử dụng đất vẫn còn vào thời điểm mở thừa kế, di
chúc của cụ D, cụ C là hợp pháp nên di chúc vẫn có hiệu lực.

14
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG


Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh
Phú Thọ :

Ngày 28/9/2017 tại Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự  về “Thừa kế theo di chúc” giữa nguyên đơn là bà Hoàng Thị H, bị đơn là
anh Hoàng Tuyết H và người có quyền lợi liên quan là anh Hoàng Hồng H1, anh Hoàng
Quốc H2, anh Hoàng Quốc H3. Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng, trong
thời gian hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung. Tháng 1/2016 ông X chết và có
để lại bản di chúc chung của vợ chồng do ông viết ngày 10/8/2015. Anh H, anh H2 và anh
H3 là con đẻ của bà H và ông X không công nhận di chúc trên là hợp pháp. Bên cạnh đó anh
H và anh H2 yêu cầu chia tài sản của ông Hoàng Minh X. Bản di chúc trên không có người
làm chứng, không có xác nhận của UBND Thị trấn S, Huyện C.

Theo nhận định của Tòa án căn cứ quy định về di chúc chung của vợ chồng tại Điều
663 Bộ Luật dân sự 2005 thì bản di chúc trên được công nhận là di chúc chung của vợ chồng
bà H và ông X, xét về tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực thì bản di chúc
trên được công nhận là di chúc hợp pháp vì có đủ các điều kiện được quy định tại Điều 630
Bộ Luật dân sự 2015 quy định di chúc hợp pháp. Từ đó, Tòa án quyết định công nhận di
chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp và
không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H, anh Hoàng Quốc H2 đòi chia tài sản của
ông Hoàng Minh X.

3.1 Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?

Đoạn của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng là:
“Ngày 10/8/2015 bà H và ông X cùng nhau lập di chúc chung của vợ chồng do ông X viết
với nội dung: nếu ông X chết trước bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà quản lý và sử dụng
tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng H1.”;

15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

“Quan hệ pháp luật: ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời kì hôn
nhân, ông bà cùng tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày
21/8/2017.”

3.2 Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.

Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015 cụ thể
tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015.

Đoạn của bản án cho câu trả lời là: “Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự
thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không nằm điều trị cho đến thời điểm
trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc còn khỏe
mạnh, minh mẫn, không có sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự
năm 2015…. là do cùng một người ký và viết ra.”.

“Quyết định: Xử: công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết
ngày 10/8/2015 là hợp pháp.”.

3.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.

Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng ông X bà H là hợp lý.
Hơn nữa, Tòa án chỉ công nhận di chúc trên là hợp pháp chứ không đề cập đến hiệu lực của
di chúc. Điều này là hợp lý do đây là di chúc chung của vợ chồng ông X bà H nhưng chỉ có
ông X qua đời trước nên chưa đến thời điểm mở thừa kế theo Điều 611 BLDS 2015. Tuy
BLDS 2015 không đề cập đến quy định về di chúc chung của vợ chồng nhưng do thỏa mãn
các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được quy định nên việc Tòa án công nhận di
chúc chung của ông X, bà H là hợp lý.

16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

VẤN ĐỀ 4 : DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG


Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”:
Nguyên đơn là anh Được khởi kiện bị đơn là anh Tân và chị Hương về việc tranh chấp di
sản thừa kế. 
Vợ chồng ông Mười và bà Lùng có 7 người con là: anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, anh
Nhành, chị Hoa, anh Được, chị Hương. Ông Mười mất năm 1972, bà Lùng mất năm 2005.
Di sản mà bà Lùng để lại là 01 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 100m đất tại khu Kim Sơn,
2

thị trấn Long Thành. Ngày 08 tháng 7 năm 2004, bà Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho 7
người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản.
Anh Tân và chị Hương yêu cầu để căn nhà và đất như hiện tại thuộc quyền sở hữu chung của
7 anh chị em. 5 người còn lại đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản. Tòa án
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được đối với anh Tân và chị Hương cùng những người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về việc tranh chấp di sản thừa kế giao cho anh Được quyền
sở hữu, sử dụng căn nhà diện tích 57,25 m . Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị
2

di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ.
4.1 Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. 
Điều 645 BLDS 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau : 
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di
sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc
quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền
giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những
người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ
cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa
kế theo pháp luật.
17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của
người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Như vậy, để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý thì phải thỏa mãn các điều kiện
sau : 
Thứ nhất, di sản trong việc thờ cúng phải được ghi nhận trong di chúc. Nếu là di chúc
miệng thì di chúc phải hợp pháp hoặc được công chứng và phải tiến hành thủ tục khai nhận
phần di sản thờ cúng có trong di chúc.
Thứ hai, người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng, nghĩa là
người lập di chúc không được để toàn bộ di sản dùng vào việc thờ cúng mà chỉ được để lại
một phần. 
Thứ ba, di sản của người quá cố phải đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó
và còn dư lại. Trường hợp sau khi thanh toán nghĩa vụ tài sản mà người quá cố để lại mà
không còn dư hoặc di sản của người đó không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản thì khi đó,
di sản dùng vào việc thờ cúng không có giá trị pháp lý. 
Thứ tư, di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý kể từ thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp người lập di chúc chưa mất thì chưa có di sản dùng vào việc thờ cúng. 
4.2 Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng ? 
Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng nằm
trong phần Xét thấy của Tòa án : 
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thừa cúng cho mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh
chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận.”
4.3 Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không ? 
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp thỏa mãn trong vụ việc
đang nghiên cứu. 

18
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

Trước hết, để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp thì di sản dùng vào
việc thờ cúng phải được ghi nhận trong di chúc. Trong tờ di chúc mà bà Lùng lập có nói đến
ý chí để di sản dùng trong việc thờ cúng.  Cụ thể, đoạn trích của phần Xét thấy của Tòa án
cũng nêu rõ : “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại
5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có
cơ sở chấp nhận.” Như vậy là điều kiện này đã được thỏa mãn.
Thứ hai, phần tài sản thờ cúng mà bà Lùng để lại là nhà đất. Đây không phải là toàn
bộ di sản của bà bởi không thể có trường hợp người chết chỉ để lại di sản gồm quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà không mà không để lại bất cứ vật dụng hay khoản tiền nào.
Điều này thỏa mãn điều kiện “người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng” được nêu trong Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015.
Thứ ba, trong bản án không đề cập đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản của bà
Lùng thì có thể hiểu là nghĩa vụ đó không có hoặc đã được thực hiện. Như vậy di sản của bà
Lùng còn nguyên và không vi phạm Khoản 2 Điều 645 BLDS 2015 : “Trường hợp toàn bộ
di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được
dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Dựa vào các phân tích trên thì có thể kết luận là các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ
cúng một cách hợp pháp thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu. 
4.4 Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh
chấp này ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ? 
Trong vụ tranh chấp trên, ngoài anh Tân và chị Hương không đồng ý chia di sản dùng vào
việc thờ cúng thì 5 anh chị em còn lại là anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh
Được đều đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng. Đoạn cho câu trả lời nằm ở phần Xét
thấy của Bản án:
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh
chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận.”

19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

4.5 Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng
không ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ? 
Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng. 
Trong phần Xét thấy của Bản án: 
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh
chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận.
[…] Vì vậy anh Được được sở hữu phần của anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa và
phần của anh Được tổng số là 187.120.000đ, anh Được phải thanh toán cho anh Tân, chị
Hương mỗi người là 37.424.000đ”
4.6 Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải
pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu. 
 Về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS: 
Điều 645 BLDS 2015 quy định di sản dùng vào việc thờ cúng không được phép chia
thừa kế và chỉ được phép để lại một phần di sản vào việc thờ cúng tức là không thể dùng
toàn bộ di sản cho việc thờ cúng mà chỉ để lại một phần. Nhưng pháp luật chưa quy định rõ
“một phần” ở đây là bao nhiêu. Điều này dẫn tới sự khác biệt trong hướng giải quyết trong
mỗi Tòa án bởi mỗi Tòa án có thể hiểu “một phần” theo hướng khác nhau. Do đó, trong
tương lai cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về vấn đề này để có một
sự thống nhất trong hướng giải quyết nếu không thì dễ dẫn tới tình trạng tranh chấp. 
 Hướng giải quyết của Tòa án : 
Điều 645 BLDS 2015 có quy định rõ rằng di sản dùng vào việc thờ cúng không được
chia thừa kế mà phải được giao cho một người để quản lí di sản. Thế nhưng, Tòa án lại xử
theo hướng chia thừa kế di sản dùng vào việc thờ cúng mà bà Lùng để lại cho các anh chị
em. Hướng giải quyết của tòa là chưa huyết phục.
Thứ nhất, hướng xét xử của tòa đã vi phạm Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015. Điều này
được thể hiện ở việc Tòa tiến hành chi di sản dùng vào việc thờ cúng mà không trích một
phần di sản để thờ cúng như trong di chúc, hoàn toàn trái với ý chí của bà Lùng.

20
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Buổi thảo luận thứ sáu

Thứ hai, Tòa cho rằng anh Được được 5/7 anh chị em đồng ý chia di sản và giao cho
anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên, tòa không nêu rõ đó là cơ sở nào
và trong BLDS 2015 cũng chưa quy định trường hợp ngoại lệ này. Việc phần đông người
con đồng ý chia di sản là trái với ý chí của người lập di chúc nên không thể căn cứ vào đây
để tiến hành chia di sản dùng để thờ cúng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền
sở hữu và thừa kế, Nhà xuất bản Hồng Đức, chương VI.
2. Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Vieent Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB
Hồng Đức.

21

You might also like