You are on page 1of 62

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1.................................................................................................1
I. Căn cứ xác lập đại diện:.......................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao...................................................................................1
1. Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện..........2
2. Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện
theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.....2
II. Hoàn cảnh của người được đại diện:..................................................................3
3. Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý trường hợp
đại diện không hợp lệ, khai thác lý thuyết “đại diện bề ngoài/apparent
agent”? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.........................3
4. Trong Quyết định 09, HĐTP theo hướng Ngân hàng phải chịu trách nhiệm
đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở các quy định về đại
diện hiện nay, cho biết hướng của HĐTP có thuyết phục không?..................6
III. Hoàn cảnh của người đại diện:..........................................................................6
5. Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với
giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?......6
6. Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với vấn đề pháp lý trong
câu hỏi nêu trên? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết..........6
7. Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?.....................8
8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội
đồng thẩm phán (về vai trò của người đại diện).............................................8
IV.Quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện:.......................9
Tóm tắt Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.................................................................9
9. Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu ít nhất
một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết........................................................11
10. Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì sao?..11
11. Trong Quyết định số 44, theo Tòa án, người ủy quyền có được tự xác lập
giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào cho câu trả lời?. .12
12. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân tích đối
với đại diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).....................12
VẤN ĐỀ 2...............................................................................................13
I. Hình thức sở hữu tài sản:...................................................................................13
Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT, 23/12/2008, TAND tối cao.................13
1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài
sản..................................................................................................................14
2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây
viết gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời?.................................................15
3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở
hữu riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?....15
4. Theo Tòa dân sự TAND tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông
Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?...............................................................................16
5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa?.......................................16
6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý.............16
II. Diện thừa kế:.......................................................................................................17
7. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không? Vì sao?..............................................................................................17
8. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu
hỏi trên có khác không? Vì sao?....................................................................17
9. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không?.....17
10. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời........18
Tóm tắt Quyết định 08/2013/DS-GĐT, 24/01/2013, Tòa dân sự TAND tối cao....18
11. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?. 19
III. Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:....................................19
12. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?...............................................................19
13. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
19
14. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?...................................................20
15. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu?.....20
16. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?..................................................................20
17. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?.....................................................21
Tóm tắt Bản án 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của TAND TP.HCM.............21
18. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án
cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?...................22
19. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?.........22
20. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?......................22
21. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án?............23
22. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án..........................23
23. Hướng giải quyết khác không nếu ông Tâm bị mất 85% sức lao động?.......23
24. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản........24
25. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản bằng di chúc, mà trước khi chết, ông
Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm
có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?....................26
26. Đối với hoàn cảnh câu trên, pháp luật nước ngoài quy định thế nào?.........27
27. Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả
hợp đồng tặng cho.........................................................................................28
IV. Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản:........................................................29
28. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................................................29
29. Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá
cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...................................................................29
30. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?.................................................................................................29
31. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi
còn nhỏ đến khi trưởng thành?......................................................................30
32. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức
nuôi dưỡng con chung không?.......................................................................30
33. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.......................................................30
Tóm tắt Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.................................................................................31
34. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người
quá cố khi họ còn sống?................................................................................32
35. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?.......................32
36. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố)..................32
Tóm tắt Quyết định 533/2021/QĐ-PQTT, 20/4/2021, TAND TP.HCM.................33
37. Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ nào của
ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của
ông Định (ông Lĩnh và bà Thành)?...............................................................34
38. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người
thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào
việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa?
Hướng như vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?...........................34
39. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để
lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................................35
40. Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn
thực hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?.........................35
41. Vì sao Tòa xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người
quá cố vẫn còn dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được tiến
hành năm 2019? Hướng của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?.............35
42. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào có quy định riêng về thời hiệu yêu
cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản như
pháp luật Việt Nam hiện nay không?.............................................................36
43. Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết phục
của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài
sản của người để lại di sản (có nên giữ lại hay không?)...............................36
VẤN ĐỀ 3...............................................................................................37
Tóm tắt Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011..................................37
Tóm tắt Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011..................................39
Tóm tắt Quyết định 194/2012/DS-GĐT, 23/04/2012, TAND tối cao.....................40
1. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc
(về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ)................................41
2. Trong thực tiễn, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc)
không?............................................................................................................42
3. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?......................42
4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03
quyết định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.. 43
Tóm tắt Quyết định 363/2013/DS-GĐT, 28/08/2013, TAND tối cao.....................43
5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?....................................45
6. Cho biết thực trạng văn bản QPPL về di chúc có điều kiện ở Việt Nam?....45
7. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.45
8. Nêu suy nghĩ về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên luật hóa trong
BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?)............46
VẤN ĐỀ 4...............................................................................................47
Tóm tắt Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền
sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.......................................................47
1. Trong Án lệ, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản?.....48
2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?....................................................................49
3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức
và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản......................................49
4. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.............50
5. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?.....................51
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL.......................................................................................51
VẤN ĐỀ 5...............................................................................................52
Tóm tắt Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao...................................52
1. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?...........................53
2. Trong Án lệ số 05, Tòa xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ
Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục không?
Vì sao?...........................................................................................................53
3. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng
công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?...............................53
Vấn đề 1
I. Căn cứ xác lập đại diện:
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Đinh Thị T;
+ Bị đơn: Ngân hàng A - Chi nhánh Tây Hà Nội (sau đây gọi là Ngân hàng A).
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Ngày 20/7/2011, bà T cho Công Ty M.N vay số tiền 7.000.000.000 đồng,
việc cho vay có đảm bảo bằng bảo lãnh của Ngân hàng A. Sau đó, ngày
21/7/2011, Ngân hàng A đã phát hành Thư bảo lãnh và bà T cũng đã kiểm tra
bằng cách yêu cầu Ngân hàng A xác nhận;
+ Tuy nhiên, Công ty M.N không thanh toán đúng hạn số tiền cho bà T; Ngân
hàng A cũng không đồng ý thanh toán tiền vay và tiền lãi theo Thư bảo lãnh
trước đó. Do đó, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng A phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
+ Ngân hàng A không đồng ý vì ông H1 (nguyên giám đốc Ngân hàng A)
không có quyền đại diện Ngân hàng A ký phát hành bảo lãnh vay vốn trong
nước theo quy định nội bộ của Ngân hàng A.
- Quyết định của Tòa án:
+ Công nhận “Thư bảo lãnh” do ông H1 đại diện xác lập là hợp pháp, chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc Ngân hàng A phải thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh.
- Lý do cho Quyết định:
+ Tòa án căn cứ Điều 92 BLDS 2005, cho rằng Chi nhánh Ngân hàng A là đơn
vị phụ thuộc của Ngân hàng A; khi Chi nhánh Ngân hàng A xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng A.

1
1. Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.

Tiêu chí Điều 134 Bộ luật dân sự 2015 Điều 139 Bộ luật dân sự 2005

Số người Một người hay nhiều người cùng Chỉ có một người (Khoản 1)
đại diện đại diện (Khoản 1)

Bao gồm: cá nhân và pháp nhân Bao gồm: cá nhân, pháp nhân, chủ
Chủ thể (Khoản 2). thể khác (Khoản 2).
đại diện ➔ Bổ sung các chủ thể: hộ gia
đình, tổ hợp tác.

Trường hợp pháp luật quy định Người đại diện phải có năng lực
Năng lực thì người đại diện phải có năng hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường
của người lực pháp luật dân sự, năng lực hợp quy định tại khoản 2 Điều 143
được đại hành vi dân sự phù hợp với giao (Khoản 5).
diện dịch dân sự được xác lập, thực ➔ Không quy định năng lực pháp
hiện (Khoản 3). luật dân sự.
➔ BLDS 2015 có sự thay đổi đầy đủ và chi tiết hơn.

2. Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện theo
pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ Đoạn 4 phần Nhận định của Quyết định số 9, việc ông H1 đại diện cho
ngân hàng là đại diện theo ủy quyền, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 92 BLDS 2005;
+ Theo đó, Chi nhánh Ngân hàng A là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng A; nên
người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy
quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.
➔ Làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với trụ sở Ngân hàng A.

2
II. Hoàn cảnh của người được đại diện:
3. Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý trường hợp
đại diện không hợp lệ, nhất là việc khai thác lý thuyết “đại diện bề
ngoài/apparent agent”? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Thẩm quyền bề ngoài (ostensible/apparent authority): được xác định khi một
người không được trao quyền đại diện nhưng lại làm cho người thứ ba hiểu rằng
họ được trao quyền đại diện.
+ Khác với đại diện thực tế, đại diện bề ngoài không được xác định dựa trên
một căn cứ pháp lý rõ ràng nào;
+ Tuy nhiên, người trao cho người khác thẩm quyền đã làm cho cả thế giới
thấy rằng người đó có quyền hành động thay cho mình và làm cho người thứ
ba hiểu rằng họ xác lập giao dịch là với người được đại diện chứ không phải
với người được trao quyền đó;
+ Đại diện bề ngoài có ý nghĩa quan trọng nhất là đối với đại diện của pháp
nhân bởi không phải lúc nào bên thứ ba cũng có thể tiếp cận với các tài liệu
nội bộ của pháp nhân. Đặc biệt, với các doanh nghiệp lớn có nhiều ngàn lao
động, quy mô và nhiệm 'vụ khác nhau thì việc rà soát thẩm quyền của từng
người trong số họ dường như là không khả thi. 1
- Tại Nhật Bản, các nhà làm luật đã thiết kế nên 3 điều luật rất quan trọng trong Bộ
luật Dân sự (BLDS) Nhật Bản. Đó là các điều: 2
Điều 109 Điều 110 Điều 112
(1) Người đã chỉ ra cho bên thứ ba biết
Các quy định tại (1) Người đã ủy
mình đã ủy quyền cho người khác hành khoản 1 Điều trước sẽ thác trao quyền
động thì phải chịu trách nhiệm về mọiđược áp dụng nếu đại diện cho
hành vi mà người kia đã thực hiện vớingười đại diện có người khác, sau
bên thứ ba trong phạm vi được ủy quyền
hành vi vượt ngoài khi hết thời hạn
đó. tuy nhiên, với điều kiện là điều này sẽ
thẩm quyền của mình ủy quyền, thì
không áp dụng nếu bên thứ ba biết, hoặc
và bên thứ ba có cơ sở phải chịu trách
do sơ ý không biết, rằng người kia không
chính đáng để tin rằng nhiệm trước bên
được phép hành động. người đại diện có thứ ba không
thẩm quyền thực hiện biết việc thẩm
(2) Một người đã cho bên thứ ba biết giao dịch với mình. quyền đại diện
rằng mình đã trao quyền đại diện cho đã hết hạn đối
1
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập I, NXB Tư pháp, 2022, tr 258-259;
2
Dịch từ “Bộ luật Dân sự Nhật Bản 2018”, trang thông tin điện tử Chính phủ Nhật Bản.

3
người khác, nhưng: Nếu người đại diện với các hành vi
giao dịch với bên thứ ba trong phạm vi mà người kia
quyền hạn của cơ quan thì người ủy thực hiện với
quyền phải chịu trách nhiệm theo các bên thứ ba. Tuy
quy định của đoạn trên. Nếu người đại nhiên, với điều
diện tham gia vào một giao dịch với bên kiện là điều này
thứ ba nằm ngoài phạm vi thẩm quyền sẽ không áp
của người đó, chỉ khi có cơ sở hợp pháp dụng nếu bên
để tin rằng bên thứ ba có thẩm quyền thứ ba sơ suất
hành động thay mặt cho người kia, thì không biết về sự
người ủy quyền mới chịu trách nhiệm về việc.
giao dịch đó.
Trong một vụ án nổi tiếng tại Nhật Bản, Ví dụ, nếu người đại Tại các nước
nhân viên làm việc tại Tòa sơ thẩm diện được ủy quyền đi theo hệ thống
Tokyo đã lập một văn phòng trong khuôn đăng ký sở hữu miếng thông luật,
viên của Tòa, tên là “Văn phòng phúc lợi đất; để đăng ký, người nguyên tắc đại
của Tòa sơ thẩm”. Nguyên đơn phân phối được đại diện đã trao diện hiển nhiên
văn phòng phẩm cho văn phòng nhưng giấy tờ và con dấu cho được áp dụng tại
văn phòng này không thanh toán, nên đã người đại diện. Tuy các án lệ, ví dụ:
đâm đơn kiện Nhà nước Nhật Bản với lập nhiên, thay vì đăng ký, Royal British
luận rằng, Nhà nước Nhật Bản là cơ quan người đại diện lại đem Bank v.
phía trên của Tòa sơ thẩm Tokyo. Do đó, bán miếng đất cho bên Turquand
Nhà nước phải chịu trách nhiệm cho giao thứ ba. Tòa án vẫn có [1856], Freeman
dịch của văn phòng, vì đã khiến cho thể cho phép bên mua & Lockyer;
nguyên đơn tin rằng đây thực sự là một thứ ba được sở hữu [1964]
cơ quan thuộc Tòa. Dù thực tế, không có miếng đất, tùy vào Buckhurst Park
mối liên hệ chính thức nào giữa Văn trường hợp bảo vệ Properties…
phòng này và Tòa sơ thẩm, nhưng Tòa án quyền và lợi ích của
tối cao Nhật Bản vẫn tuyên rằng Tòa sơ bên ngay tình hoặc bị
thẩm đã tạo cho Văn phòng phúc lợi vẻ tổn hại nhiều hơn.
bề ngoài rằng Văn phòng là một bộ phận
của mình và do đó, Tòa sơ thẩm có trách
nhiệm thanh toán cho nguyên đơn.

- Bên cạnh đó, theo Luật Công ty Úc, người thứ ba ngay tình có quyền suy đoán về
“thẩm quyền đương nhiên” (apparent authority) hoặc thẩm quyền mặc định của
một đại diện công ty khi thực hiện các giao dịch với người đại diện.

4
+ Nghĩa là về nguyên tắc, hợp đồng do người đại diện ký vượt quá phạm vi
thẩm quyền đại điện vẫn có hiệu lực, trừ khi người được đại diện có thể
chứng minh rằng người thứ ba không ngay tình;
+ Câu chuyện vượt quá thẩm quyền đại diện chỉ là câu chuyện của hai bên -
bên đại diện và bên được đại diện - chứ không phải gánh nặng của bên thứ
ba - người có giao dịch với công ty thông qua người đại diện. Úc đã đưa
những quy định này vào trong Luật công ty Úc tại điều 128 và 129 Luật
Công ty 2001, được gọi là statutory assumptions. 3
➔ Theo hệ thống thông luật, "thẩm quyền bề ngoài” đề cập đến một tình huống mà
trong đó một người đại diện có thẩm quyền hành động. Điều này có nghĩa là
người ủy thác bị ràng buộc bởi các hành động của người đại diện, dù cho người
đại diện không có thẩm quyền thực tế (ủy quyền ngụ ý).
+ Các nước theo hệ thống thông luật (Common Law) thường có những quy
định về apparent authority cởi mở hơn nhằm tăng cường bảo vệ bên thứ ba
ngay tình trong giao dịch với công ty, đồng thời tạo ra sức ép để các công ty
hoàn thiện cơ chế quản lý nội bộ. Mục đích nhằm bảo vệ bên thứ ba ngay
tình (tức là không biết và không thể biết người đại diện mà mình giao dịch
cùng có đủ thẩm quyền hay không), hệ thống pháp lý nhiều nước đã thiết kế
nguyên tắc cho thẩm quyền đại diện bề ngoài;
+ Tuy nhiên, BLDS Việt Nam lại không có quy định tương tự liên quan đến
“thẩm quyền bề ngoài. Theo đó, chỉ người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân hoặc người khác được người đại diện theo pháp luật ủy quyền rõ ràng
mới có thẩm quyền thay mặt và ràng buộc pháp nhân đó. Nếu một quan
chức của công ty Việt Nam, kể cả cấp cao, ký hoặc thực hiện hợp đồng cho
công ty đó mà không có sự cho phép trước của người đại diện theo pháp
luật của công ty đó, thì việc ký hoặc thực hiện đó vẫn có thể bị vô hiệu nếu
công ty Việt Nam từ chối công nhận hành động của các quan chức trái
phép. 4
4. Trong Quyết định 09, HĐTP theo hướng Ngân hàng phải chịu trách nhiệm
đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở các quy định về đại
diện hiện nay, cho biết hướng như vừa nêu của HĐTP có thuyết phục không?

3
Nguyễn Quốc Vinh, “Nguyên tắc “đại diện hiển nhiên” trong pháp luật hợp đồng”, Ấn phẩm Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 22(278), tháng 11/2014;
4
Tạm dịch: Venture North Law, “Không có học thuyết thẩm quyền bề ngoài theo pháp luật Việt
Nam”, 16/10/2013, Vietnam Business Law.

5
- Theo chúng tôi, đây là hướng giải quyết phù hợp, vì:
+ Cơ sở pháp lý: khoản 6 Điều 84 BLDS 2015;
+ Tuy trong quy định nội bộ của Ngân hàng A quy định Giám đốc chi nhánh
không có quyền đại diện Ngân hàng A ký bảo lãnh vay vốn trong nước,
nhưng khách hàng như bà A không thể biết quy định nội bộ này. Do đó, bà
T không liên quan đến việc xét duyệt và ký Thư bảo đảm;
+ Đồng thời, Ngân hàng A - Chi nhánh Tây Hà Nội là chi nhánh của Ngân
hàng A, nên Ngân hàng A phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ phát sinh
do chi nhánh thực hiện.
III. Hoàn cảnh của người đại diện:
5. Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với
giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
- Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có thể phải chịu trách nhiệm đối với
giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện nếu giao dịch đó vượt
quá phạm vi thẩm quyền đại diện.
+ Cơ sở pháp lý: Điều 143 BLDS 2015;
+ Nếu người đại diện và bên thứ 3 cố ý xác lập giao dịch vượt phạm vi đại
diện, gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên
đới bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo lợi ích cho người được đại diện;
➔ Trong trường hợp này, giao dịch có thể bị coi là vô hiệu và người đại
diện phải bồi thường thiệt hại cho người được đại diện.
6. Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với vấn đề pháp lý trong
câu hỏi nêu trên? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Căn cứ Điều 100, BLDS Nhật Bản ghi nhận trách nhiệm pháp lý của người đại
diện đối với các giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện:
+ “(1) Người đã chỉ ra cho bên thứ ba biết mình đã ủy quyền cho người khác
hành động thì phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi mà người kia đã thực
hiện với bên thứ ba trong phạm vi được ủy quyền đó. Tuy nhiên, với điều
kiện là điều này sẽ không áp dụng nếu bên thứ ba biết, hoặc do sơ ý không
biết, rằng người kia không được phép hành động;
+ (2) Trường hợp người ủy thác đã cho bên thứ ba biết rằng mình đã trao
quyền đại diện cho người khác, thì: Nếu người đại diện giao dịch với bên
thứ ba trong phạm vi quyền hạn của mình, thì người ủy quyền phải chịu

6
trách nhiệm theo các quy định của đoạn trên. Nếu người đại diện tham gia
vào một giao dịch với bên thứ ba nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của người
đó, chỉ khi có cơ sở hợp pháp để tin rằng bên thứ ba có thẩm quyền hành
động thay mặt cho người kia, thì người ủy quyền mới chịu trách nhiệm về
giao dịch đó”.
➔ Các hành vi thực hiện giao dịch dân sự của người đại diện, nếu trong
thẩm quyền của mình, thì người chịu trách nhiệm pháp lý sẽ là người
ủy thác. Tuy nhiên, nếu vượt ngoài phạm vi quyền hạn của mình,
người đại diện sẽ là người chịu trách nhiệm pháp lý của hành vi thực
hiện giao dịch đó, trừ trường hợp có bằng chứng cho thấy giao dịch
nhằm thay mặt người ủy thác.
- Tuy nhiên, BLDS Nhật Bản cũng đề cập một số trường hợp người đại diện phải
chịu trách nhiệm pháp lý dù thực hiện giao dịch trong phạm vi thẩm quyền: 5
+ Điều 100 quy định: “Việc người đại diện thực hiện giao dịch mà không chỉ
ra rằng việc đó sẽ được thực hiện cho người được ủy quyền, thì sẽ được coi
là được thực hiện cho cá nhân. Tuy nhiên, với điều kiện là nếu bên kia biết
hoặc có thể đã biết rằng người đại diện thực hiện giao dịch thay mặt cho
người ủy thác, thì các quy định tại khoản 1 của điều trước sẽ được áp dụng
với những sửa đổi phù hợp”.
+ Điều 107: “Trong trường hợp người đại diện thực hiện giao dịch trong
phạm vi quyền hạn của mình nhưng nhằm mục đích tư lợi cho mình hoặc
cho người thứ ba; nếu bên ủy thác phát hiện, thì hành động đó sẽ được coi
là do một người không có thẩm quyền đại diện thực hiện”.
+ Điều 108:
1. Một hành động được thực hiện với tư cách là đại diện của bên đối tác
hoặc với tư cách là đại diện của cả hai bên trong cùng một hành vi pháp
lý, thì sẽ được coi là hành vi được thực hiện bởi một người không có
thẩm quyền của người đại diện. Tuy nhiên, điều này không áp dụng cho
việc thực hiện các nghĩa vụ và hành vi đã được người ủy thác cho phép
từ trước.

5
Dịch từ “Bộ luật Dân sự Nhật Bản 2018”, trang thông tin điện tử Chính phủ Nhật Bản.

7
2. Ngoài những gì được quy định trong văn bản chính của đoạn trước, bất
kỳ hành động nào xung đột giữa lợi ích của người đại diện và người có
liên quan, cũng sẽ được coi là do người không có thẩm quyền đại diện
thực hiện. Tuy nhiên, với điều kiện là điều này sẽ không áp dụng cho các
hành vi mà người ủy thác đã đồng ý từ trước.
➔ Các quy định trên nhằm bảo đảm tối đa quyền và lợi ích của người ủy thác,
cũng như bên thứ 3 trước hành vi thực hiện giao dịch của người đại diện.
7. Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Căn cứ Đoạn 6 phần Nhận định của Quyết định số 9, Hội đồng thẩm phán cho
rằng việc đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù hợp:
+ “(....)việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T có liên quan đến trách
nhiệm của ông H1 trong việc ký Thư bảo lãnh nên cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án là không phù hợp với các quy định của pháp luật”.
8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng
thẩm phán (về vai trò của người đại diện).
- Theo chúng tôi, hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về vai trò của người
đại diện là thỏa đáng với quyền lợi của bà T nhưng không thực sự hợp lý, vì:
+ Ông H1 đã ký Thư bảo lãnh làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng
A đối với bà T. Mặt khác, hành động này của ông H1 đã không được thông
báo cho bên Ngân hàng A, bên Ngân hàng A đã không biết về hành vi trên
dù phải phát sinh nghĩa vụ bất lợi.
➔ Hành động của ông H1 cũng phải được đem ra xem xét xử lý vì đã
làm ảnh hưởng đến công ty.

- Bên cạnh đó, vấn đề này cũng đã được nhiều chuyên gia kiến nghị nên xem xét
và hoàn chỉnh đưa vào văn bản quy phạm pháp luật.

8
+ Tiêu biểu là ý kiến cần phải bổ sung vai trò “xác lập” các giao dịch nhân
danh doanh nghiệp. Việc bổ sung vai trò “xác lập” các giao dịch là cần thiết
và phù hợp, vì người đại diện theo pháp luật không chỉ là người “thực
hiện”, mà còn là người nhân danh doanh nghiệp ký kết, “xác lập” các giao
dịch. 6
+ Đây cũng chính là một trong các quyền hạn then chốt của người đại diện
theo pháp luật, đảm bảo xác định được đúng quyền hạn và trách nhiệm của
người đại diện đồng thời cũng đảm bảo thống nhất với quy định về đại diện
theo Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 2015.

IV. Quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện:
Tóm tắt Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai (Ngân hàng K);
+ Bị đơn: Công ty TNHH N (sau đây gọi là Công ty N);
+ Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Cụ Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị H,
Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn Thị N1 và Nguyễn Thị H1, Lê Thị H2, Phạm
Thị D; ông Nguyễn Ngọc T2.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Ngày 10/9/2010 Ngân hàng K có ký hợp đồng tín dụng với Công ty N với tài
sản thế chấp bao gồm:
● Quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và
công trình xây dựng trên đất (sau đây gọi là thửa đất 85) do bà T đứng
tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng và quyền sở hữu nhà;
● Quyền sử dụng thửa đất số 313, tờ bản đồ 42 phường C, thành phố B và
công trình xây dựng trên đất (sau đây gọi là thửa đất 313) do bà D
đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Ngày 14/9/2010, Ngân hàng K đã giao Công ty N số tiền 02 tỷ đồng, nhưng
sau đó Công ty N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, dù Ngân hàng K đã nhiều

6
Phan Thành Nhân - Đỗ Thị Nhung, “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp –Thực trạng
pháp luật và hướng hoàn thiện”, 16/10/2018, Tạp chí Tòa án.

9
lần yêu cầu thanh toán nợ. Do đó, Ngân hàng K khởi kiện, yêu cầu nếu Công
ty N không có tài sản thanh toán thì yêu cầu dùng các tài sản thế chấp trước
đó để thanh toán số tiền cho Ngân hàng K;
+ Theo người có quyền và nghĩa vụ liên quan, quyền sử dụng thửa đất số 85 là
chung của ông T2 với mẹ là cụ T và các bà H, D1, N1 và H1 vì là tài sản của
cha để lại. Ngoài ra, năm 2006 ông và vợ là bà Lê Thị H2 đầu tư tiền sửa nhà
trên đất này. Do đó, ông không đồng ý với yêu cầu của Ngân hàng K là dùng
quyền sử dụng thửa đất số 85 bảo đảm thanh toán tiền thay cho Công ty N.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm và phúc thẩm chấp thuận yêu cầu nguyên đơn, nếu Công ty N
không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng K được quyền yêu cầu phát mãi
quyền sử dụng đất thửa 313 để thanh toán;
+ Đồng thời, chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H, D1, N1 và H1; tuyên bố hợp
đồng thế chấp bảo lãnh quyền sử dụng thửa số 85 giữa Ngân hàng K với cụ
Nguyễn Thị T vào ngày 13/9/2010 bị vô hiệu. Tuy nhiên sau đó, Tòa giám
đốc thẩm hủy 1 phần Bản án về phần thế chấp bảo đảm nhà đất thuộc thửa số
85 của cụ T đối với Ngân hàng K.
- Lý do cho Quyết định:
+ Theo giấy chứng nhận do UBND tỉnh Đồng Nai cấp vào ngày 06/9/2002 thì
cụ Nguyễn Thị T là người đứng tên chủ sở hữu căn nhà hợp pháp trên thửa
đất số 85. Vì vậy, cụ Nguyễn Thị T có quyền ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh
theo đúng quy định pháp luật;
+ Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không có căn cứ khi cho rằng: “Nhà đất
trên là tài sản chung của cụ T và các con, nên việc cụ T một mình tự ý ký kết
hợp đồng thế chấp tài sản bảo lãnh là không đúng pháp luật”;
+ Cụ T đã 84 tuổi nên cần đánh giá lại việc ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh có
hoàn toàn tự nguyện hay không; tình trạng sức khỏe, tinh thần của cụ T có
đảm bảo để tự mình xác lập các giao dịch dân sự trên hay không.

10
9. Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu ít nhất
một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Trong hệ thống pháp luật Nhật Bản, người được đại diện có quyền tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện:
+ Điều 521 BLDS Nhật Bản 2018:
1. Mọi người đều có thể tự do quyết định việc giao dịch hay không, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Các bên trong hợp đồng có thể tự do định đoạt nội dung của hợp đồng
trong phạm vi luật định.
+ Trường hợp này, người được đại diện sẽ được xem là nhân danh chính bản
thân mình tự thực hiện, xác lập giao dịch mà không cần đến người đại diện.
➔ Trên thực tế, người đại diện có thể thực hiện giao dịch trong phạm vi
lẫn ngoài phạm vi quyền hạn của người đại diện, bởi vì người đó đều
phải chịu thiệt hại hoặc chịu trách nhiệm pháp lý với hành vi xác lập,
thực hiện giao dịch đó của mình.
10. Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì sao?
- Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực hiện
giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 134 BLDS 2015;
+ Pháp luật không quy định và cũng không cấm đến việc mất quyền xác lập
giao dịch dân sự nếu chỉ định người đại diện;
+ Người được đại diện vẫn giữ nguyên quyền và nghĩa vụ dân sự của mình,
cũng như không bị hạn chế bởi việc ủy quyền cho người khác đúng theo tinh
thần và nguyên tắc của Bộ luật Dân sự.
+ Tuy nhiên, có các trưởng hợp ngoại lệ như người được đại diện hiện tại bị
mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy
định tại Điều 136 BLDS 2015.

11. Trong Quyết định số 44, theo Tòa GĐT, người ủy quyền có được tự xác lập
giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào cho câu trả lời?

11
- Căn cứ Đoạn 3 - phần Nhận định của Quyết địnn, Tòa cho rằng người ủy quyền
vẫn có quyền được tự xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác:
+ “Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn nhận định rằng vào ngày
09/9/2010, cụ Nguyễn Thị T đã lập hợp đồng ủy quyền cho ông T2 toàn
quyền sử dụng nhà đất với thời hạn 05 năm, trong khi hợp đồng ủy quyền
chưa chấm dứt thì cụ Nguyễn Thị T đã ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh (...)
Do cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù cụ T có ủy quyền
cho ông T2 toàn quyền sử dụng thì cũng không làm hạn chế hoặc làm mất đi
quyền về tài sản theo quy định pháp luật. Do đó, nhận định của Tòa cấp sơ
thẩm và phúc thẩm cũng là không chính xác”.
12. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân tích đối
với đại diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).
- Theo chúng tôi, có các khả năng người được đại diện tự xác lập, thực hiện giao
dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện:
+ Đối với đại diện theo pháp luật thì người được đại diện có thể tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện nếu pháp luật
không quy định bắt buộc phải do người đại diện thực hiện.
● Ví dụ: cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con cái chưa thành
niên, nhưng con cái chưa thành niên có thể tự xác lập, thực hiện các
giao dịch nhỏ trong cuộc sống hàng ngày.
● Tuy nhiên, nếu pháp luật quy định bắt buộc phải do người đại diện thực
hiện giao dịch thì người được đại diện không có khả năng tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện. Ví dụ:
người bị giám hộ là người được đại diện theo pháp luật của người giám
hộ, nhưng người bị giám hộ không có khả năng tự xác lập, thực hiện
các giao dịch có liên quan đến tài sản của mình như trong trường hợp
người bị giám hộ mất năng lực hành vi dân sự…
- Nếu là đại diện theo ủy quyền, thì người được đại diện có thể toàn quyền tự xác
lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện vì lúc này
người đại diện sẽ nhân danh bản thân thực hiện giao dịch, chịu toàn bộ lợi ích,
thiệt hại và trách nhiệm liên quan đến giao dịch đó về cho bản thân.

12
Vấn đề 2
I. Hình thức sở hữu tài sản:
Tóm tắt Quyết định 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 Tòa dân sự TAND tối cao
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê (vợ của ông Lưu);
+ Bị đơn: Chị Võ Thị Thu Hương và anh Nguyễn Quốc Chính;
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thẩm.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp thừa kế tài sản”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Ngày 26/10/1964, ông Lưu đăng ký kết hôn với bà Thẩm và có một con
chung là chị Hương. Đến ngày 07/10/1964, ông Lưu nhận chuyển nhượng
đất để cất nhà ở, nhưng bà Thẩm không có đóng về kinh tế cũng như công
sức nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với tài sản trên;
+ Sau ngày miền Nam giải phóng ông Lưu chuyển công tác về miền Nam, chị
Hương và bà Thẩm vẫn ở Phú Thọ, từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác,
bà Thẩm chưa vào thăm lần nào. Ngày 21/10/1996, ông Lưu làm thủ tục
đăng ký kết hôn với bà Xê tại tỉnh Tiền Giang, được UBND phường cho lĩnh
chứng;
+ Ngày 27/7/2002 ông Lưu lập di chúc, để lại tài sản cho bà Xê. Đến năm 2003
thì ông Lưu chết; sau khi ông Lưu chết, vợ chồng chị Hương vào ở căn nhà
mà ông Lưu nhận chuyển nhượng trước đó cùng bà Xê. Không lâu sau, bà
Xê làm đơn khởi kiện, yêu cầu chia di sản;
+ Tuy nhiên, các bị đơn cho rằng hôn nhân giữa bà Xê và ông Lưu là bất hợp
pháp nên không đồng ý để bà Xê được thừa kế theo di chúc. Bà Thẩm cho
rằng căn nhà được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân của bà Thẩm và ông Lưu,
nên bà Thẩm không đồng ý yêu cầu được hưởng thừa kế theo di chúc của bà
Xê.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tòa án sơ thẩm đã chia tài sản theo di chúc;

13
+ Tòa án phúc thẩm theo hướng giải quyết của Tòa sơ thẩm và chấp nhận một
phần kháng cáo của nguyên đơn, chia kỷ phần cho bà Thẩm.

- Lý do cho Quyết định:


+ Bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu nhưng không còn khả năng lao
động nên được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội
dung di chúc (Điều 669 BLDS 2005);
+ Tôn trọng ý chí của ông Lưu trong Di chúc, bà Xê được hưởng phần còn lại;
+ Chị Hương không thuộc đối tượng không phụ thuộc vào nội dung di chúc và
không được ông Lưu đề cập chia thừa kế trong di chúc.

1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài
sản.
- Điểm mới của của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản:
+ BLDS 2015 đã gộp chung các hình thức sở hữu tài sản chỉ còn lại 3 loại: sở
hữu toàn dân, sở hữu chung và sở hữu riêng;
+ Đây là sự thu gọn để dễ phân biệt hơn so với các hình thức sở hữu tài sản của
BLDS 2005: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung,
sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, sở hữu của tổ chức
chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
➔ Đồng thời, được sửa đổi còn nhằm phù hợp hơn với tinh thần của
Hiến pháp 2013, cũng như học tập từ các quy định về hình thức sở
hữu tài sản của các Hiến pháp khác trên thế giới. 7
+ Một số quy định mới về "quyền khác đối với tài sản". Cụ thể: quyền đối với
bất động sản liền kề; quyền hưởng dụng; quyền bề mặt.
● Quyền hưởng dụng là quyền được sử dụng tài sản của người khác để
thu lợi theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận giữa các bên;

7
“Đề xuất quy định 3 hình thức sở hữu”, 14/01/2015, Báo điện tử Chính phủ.

14
● Quyền bề mặt là quyền được xây dựng công trình trên mặt đất hoặc
dưới lòng đất thuộc quyền sử dụng đất của người khác theo quy định
của pháp luật hoặc thỏa thuận giữa các bên;

● Do đó, “Quyền khác đối với tài sản” có thể hiểu là chủ sở hữu tài sản có
thể cho người khác một vài quyền trên tài sản của mình và người này
được phép thực hiện các quyền ấy trên tài sản được giao theo quy định
của pháp luật và theo ý chí của chủ sở hữu. 8
➔ Thể hiện tính tích cực, đột phá, nỗ lực và sáng tạo của các nhà
soạn luật trong việc giải quyết 1 số vấn đề thực tiễn trong đời
sống dân sự về việc đáp ứng nguyện vọng cũng như về mặt lợi
ích giữa người có tài sản và người không có tài sản trong việc
khai thác công dụng của tài sản.
+ BLDS 2015 quy định rõ việc trưng mua, trưng dụng tài sản được bồi thường
theo giá thị trường nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của cá nhân, tổ chức có tài
sản bị trưng mua, trưng dụng. Đây là điểm mới so với BLDS 2005 không
quy định cụ thể về việc bồi thường theo giá thị trường khi trưng mua, trưng
dụng tài sản (Điều 163 BLDS 2015).
➔ Nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi và lợi ích của cá nhân và tổ chức có
tài sản bị trưng mua, thu dụng.
2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn
là Quyết định 377) cho câu trả lời?
- Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân với bà Thẩm, căn cứ Đoạn 4 - Xét thấy của Quyết định số 377:
+ “Căn nhà số 150/6A được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông
Lưu và bà Thẩm”.
3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu
riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?

8
Trần Thị Huệ, “Những điểm mới nổi bật về quyền sở hữu và những quyền khác trong Bộ luật Dân
sự năm 2015”, 02/11/2017, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại số 90.

15
- Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà, căn cứ Đoạn 3,
phần Nhận thấy của Quyết định 377:
+ “Bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m²
là tài sản chung của vợ chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà
Xê”.

4. Theo Tòa dân sự TAND tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông
Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của
ông Lưu, căn cứ Đoạn 4 - Xét thấy của Quyết định số 377:
+ “(...) căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu của ông; bà Thẩm không có đóng
về kinh tế cũng như công sức nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với căn
nhà nêu trên trên”.
5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự TAND tối cao?
- Theo chúng tôi, giải pháp trên của Tòa là hướng giải quyết hợp lý, vì:
+ Đảm bảo được ý chí của ông Lưu - người để lại tài sản khi chia cho bà Xê
phần còn lại của tài sản sau khi bà Thẩm được hưởng ⅔ suất thừa kế theo
pháp luật;
+ Việc bà Thẩm được hưởng thừa kế là phù hợp, vì bà là vợ hợp pháp của ông
Lưu và hiện nay không còn sức lao động. Điều này giúp bà Thẩm có thể
trang trải cuộc sống và bảo vệ quyền lợi của bà Thẩm;
+ Việc chị Hương không được chia thừa kế cũng phù hợp vì hiện nay chị là
người thành niên, đã kết hôn nên hoàn toàn có thể tự lo cho cuộc sống, không
nhất thiết phải được chia thừa kế theo pháp luật.
6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.
- Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này, vì:
+ Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 218, Điều 612 BLDS 2015;
+ Theo đó, căn nhà tài sản chung nên ông Lưu muốn định đoạt toàn bộ ngôi
nhà thì phải có sự đồng ý của vợ hợp pháp của ông là bà Thẩm;

16
+ Nếu bà Thẩm không đồng ý, thì di chúc của ông Lưu chỉ có giá trị một phần
đối với phần tài sản của ông Lưu (½ nhà đất).

II. Diện thừa kế:


7. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không? Vì sao?
- Bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 651 BLDS 2015;
+ Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông, chị Hương là con của ông.
- Bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu, vì:
+ Bà không phải vợ hợp pháp của ông Lưu, hôn nhân giữa bà Xê và ông Lưu là
trái quy định của pháp luật.
8. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?
- Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời sẽ khác; vì:
+ Khoản a Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP: “....Trong trường hợp một người có
nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25/3/1977 - ngày công bố danh
mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với
miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc
lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực
pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là hàng thừa kế thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là hàng thừa kế thứ nhất của tất cả các
người vợ”;
+ Lúc này, bà Xê sẽ được xem là vợ hợp pháp của ông và thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của ông Lưu. Do đó, ông Lưu có quyền lấy 2 vợ và hôn nhân của
ông với bà Xê sẽ được công nhận là hợp pháp.
9. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?

17
- Trong vụ việc này, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu, vì:
+ Dù chị Hương là con ông Lưu và thuộc hàng thừa kế thứ nhất, nhưng lại
không được ông nhắc đến trong di chúc;
+ Mặc dù khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 có đề cập đến những người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc, nhưng do chị Hương là người đã
thành niên và có khả năng lao động nên cũng không được thừa kế.

10. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối
với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.
- Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền sở
hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại:
+ Đồng thời, người thừa kế phải còn sống hoặc sinh ra và còn sống sau thời
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di sản
chết, thì có quyền sở hữu đối với di sản do người quá cố để lại;
+ Cơ sở pháp lý: Điều 613 BLDS 2015.

Tóm tắt Quyết định 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự TAND tối
cao
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Bà Phan Thị Ơn;
+ Bị đơn: Bà Lý Thị Chắc.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Đòi tài sản bị chiếm giữ”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Trước năm 1975, cụ Huệ (cha chồng của nguyên đơn) có tạo lập nhà đất hiện
đang tranh chấp. Đến năm 1999, cụ Huệ chết, trước khi chết cụ đã lập di
chúc cho ông Hà (chồng của nguyên đơn) được thừa kế;
+ Ngày 12/5/2008, ông Hà chết và các đồng thừa kế đồng ý giao toàn bộ tài sản
của ông Hà cho bà Ơn. Sau đó, ngày 04/3/2011, bà Ơn được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất;
+ Tuy nhiên, bà Chắc (bị đơn) đã được cụ Thiệu (mẹ của cụ Huệ) cho vào ở
nhờ từ năm 1938. Do đó, bà Ơn khởi kiện yêu cầu bà Chắc dọn đi nơi khác
và trả lại nhà, đất nhưng bà Chắc không đồng ý và yêu cầu Tòa án công nhận
toàn bộ phần nhà đất là tài sản của bà.

18
- Quyết định của Tòa án:
+ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ơn.
- Lý do cho Quyết định:
+ Chưa làm rõ bà Chắc vào ở nhà đất của cụ Huệ từ trước hay sau ngày
01/7/1991, nếu ở nhờ từ trước ngày 01/7/1991 thì áp dụng quy định khác;
+ Gia đình bà Chắc có công quản lý đối với nhà đất trên nên phải xem xét công
sức thỏa đáng của bà Chắc.

11. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?
- Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, người thừa kế của ông Hà có
quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp từ ngày 12/52008, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 614 BLDS 2015;
+ Đây là thời điểm ông Hà chết, năng lực pháp luật của ông chấm dứt, theo đó,
quyền và nghĩa vụ tài sản của ông được chuyển giao cho người thừa kế.

III. Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
12. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ
tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
- Đoạn 4 - Xét thấy của Quyết định số 377 cho thấy, ông Lưu đã định đoạt bằng di
chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê:
+ “Việc ông Lưu lập văn bản đề là “Di chúc” ngày 27/7/2002 là thể hiện ý chí
của ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê là có căn cứ, phù hợp với quy
định của pháp luật”.

13. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
- Cơ sở pháp lý: Điều 644 BLDS 2015.
- Bà Thẩm có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của
di chúc đối với di sản của ông Lưu, vì:
+ Bà là vợ hợp pháp và không còn khả năng lao động của ông Lưu nên có
thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo
luật định.

19
- Bà Xê, chị Hương không thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu, vì:
+ Chị Hương tuy là con, nhưng là người thành niên và có khả năng lao động
nên không thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc;
+ Còn bà Xê không thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc do hôn nhân của bà và ông Lưu trái pháp luật nên không được
xem là vợ hợp pháp.

14. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu, vì:
+ Căn cứ Đoạn 5 - Xét thấy của Quyết định: “Bà Thẩm đang là vợ hợp pháp
của ông Lưu đã già yếu, không còn khả năng lao động”;
+ Do đó, bà đáp ứng điều kiện tại khoản 1 Điều 669 BLDS 2005.

15. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì
sao?
- Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì bà vẫn được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào di chúc, vì:
+ Bà vẫn là vợ hợp pháp của ông Lưu, vẫn thuộc trường hợp được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, mà không cần phải già yếu hay
mất khả năng lao động;
+ Cơ sở pháp lý: Điều 669 BLDS 2005.

16. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
- Cơ sở pháp lý: Điều 644 BLDS 2015.
- Bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền khoảng kỷ phần ⅔ một suất thừa kế:

20
600
+ x ⅔ = 200 triệu đồng;
2

+ Do phần di sản của ông Lưu có 2 người thừa kế, gồm bà Thẩm (không phụ
thuộc vào nội dung di chúc) và bà Xê (theo di chúc); nên phần di sản sẽ được
chia đều trước ra số tiền của một suất thừa kế. Mặt khác, do bà Thẩm là
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nên bà sẽ được hưởng
khoản tiền khoảng ⅔ kỷ phần một suất thừa kế.
➔ Bà Thẩm sẽ được hưởng 200 triệu đồng từ di sản của ông Lưu.

17. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm
có được chấp nhận không? Vì sao?
- Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm
được chấp nhận, vì:
+ Nếu bà Thẩm yêu cầu chia di sản bằng hiện vật, cụ thể ở đây là căn nhà thì
căn cứ Điều 111 BLDS 2015, nhà là vật không thể phân chia đều bằng cho
những người thừa kế nên bà Thẩm và bà Xê phải thỏa thuận với nhau về việc
định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận
được thì hiện vật được bán để chia theo quy định tại khoản 2 Điều 660 BLDS
2015;
+ Nếu bà Thẩm yêu cầu chia di sản bằng hiện vật nhưng không phải là căn nhà
thì phải xem xét vật đó có thể chia đều bằng cho cả bà Thẩm và bà Xê hay
không. Nếu không phân chia được thì các bà vẫn phải thỏa thuận về việc
định giá hiện vật và người nhận hiện vật. Trường hợp không thỏa thuận được
thì hiện vật được bán để chia theo quy định tại khoản 2 Điều 660 BLDS
2015.

Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của TAND TP. Hồ Chí Minh
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Khót, ông An Văn Tâm;
+ Bị đơn: Ông Nguyễn Tài Nhật.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp thừa kế tài sản”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:

21
+ Cụ Khánh và cụ Lầm (chết năm 1988) có 2 con là bà Khót và ông Tâm; cụ
Khánh và cụ Ngọt (chết năm 1973) có 1 con là ông Nhật.
+ Ngày 30/5/1992, cụ Khánh lập di chúc cho ông Nhật là người duy nhất được
quyền thừa kế di căn nhà 83 trị giá 1.800.000.000 đồng. Tuy nhiên, cụ Khánh
và cụ Ngọt đã không sống chung với nhau từ lâu nên căn nhà di sản số 83
được cụ Khánh mua từ năm 1961 là tài sản riêng của cụ; năm 2000, cụ
Khánh chết;
+ Do đó, ông Tâm và bà Khót khởi kiện yêu cầu được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc do khả năng lao động.
- Quyết định của Tòa án:
+ Không chấp nhận yêu cầu của ông Tâm và bà Khởi được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
- Lý do cho Quyết định:
+ Toà án căn cứ Điều 140, 145 Bộ luật lao động 1994 cho rằng độ tuổi lao
động không phải là cơ sở để xác định một người không còn khả năng lao
động;
+ Bà Khót có đời sống kinh tế độc lập, hưởng chính sách của nhà nước; còn
ông Tâm tuy bị suy giảm khả năng lao động 62% nhưng được hưởng chính
sách của nhà nước. Như vậy, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà Khót,
ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc.
18. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho
thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
- Trong Bản án số 2493, phần Nội dung vụ án cho thấy, bà Khót, ông Tâm và ông
Nhật là con của cụ Khánh:
+ “Cụ Nguyễn Thị Khánh có 3 người con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm
1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932 (bà Khót, ông Tâm là con của cụ
Khánh và cụ An Văn Lầm - chết năm 1938) và ông Nguyễn Tài Nhật sinh
năm 1930 (ông Nhật là con của cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt - chết năm
1973)”.
19. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
- Người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp là ông
Nguyễn Tài Nhật (con của cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt):

22
+ Dẫn chứng trích từ Bản án - phần Nội dung Bản án: “Ngày 30/5/1992 tại
Phòng công chứng nhà nước số 2, Thành phố Hồ Chí Minh cụ khánh lập di
chúc cho ông Nhật là người duy nhất được hưởng thừa kế căn nhà 83 Lương
Định Của, phường An Khánh, quận 2”.
20. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của
cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm đã thành niên:
+ Dẫn chứng trích phần Nội dung Bản án: “Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An
Văn Lầm (chết năm 1938) có 2 con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929,
ông An Văn Tâm sinh năm 1932 (…) Năm 2000 cụ Khánh chết”;
+ Theo đó, tính đến thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót 71 tuổi, ông Tâm 68
tuổi; mà căn cứ theo khoản 1 Điều 20 BLDS 2015 thì người thành niên là
người đủ mười tám tuổi trở lên.
➔ Xác định được bà Khót và ông Tâm đã thành niên
21. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả
lời?
- Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
+ Căn cứ phần Nhận định của Tòa án: “Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng,
bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chính sách nhà nước theo diện
người có công với cách mạng khoảng 400.000 đồng; còn ông Tâm tuy là
thương binh 2/4, theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động 62%,
nhưng ông đã được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng ông
lãnh hơn 2.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để
chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là
400.000.000 đồng”.
22. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
- Theo chúng tôi, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015;
+ Theo đó; ông Tâm và bà Khót không thuộc diện người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc của điều luật trên, cũng như cả hai người có nhận

23
được một khoản trợ cấp. Do đó, Tòa án không xem xét hai người là người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
23. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động?
- Hướng giải quyết sẽ khác khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động, vì:
+ Tuy hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể thế nào là người không có khả
năng lao động, nhưng có thể áp dụng tương tự pháp luật, cụ thể tiểu mục 1.4
mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định:
● Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không
còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị
tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở
lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt
hại.
+ Do đó, khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động thì được xem là người
mất khả năng lao động nên ông sẽ được hưởng ⅔ suất thừa kế theo pháp luật,
căn cứ vào quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc tại
Điều 644 BLDS 2015.
24. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
- Điểm giống nhau:
+ Cả hai đều là sự định đoạt về tài sản của người có tài sản, là sự chuyển giao
tài sản thuộc quyền sở hữu của người này sang cho người khác.
+ Cả hai đều là sự chuyển giao tài sản không có đền bù.
+ Cả hai đều có thể áp dụng cho cả động sản và bất động sản.
- Điểm khác nhau:

Tiêu chí Di chúc Tặng cho tài sản

Khái Di chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân Tặng cho tài sản là sự thỏa thuận
niệm nhằm chuyển quyền tài sản của mình giữa các bên, theo đó bên tặng
cho người khác sau khi chết. cho giao tài sản và chuyển quyền
+ Điều 624 BLDS 2015. sở hữu của mình cho bên được
tặng cho mà không yêu cầu đền

24
bù, bên được tặng cho có thể
đồng ý nhận.
+ Điều 457 BLDS 2015.

Hiệu Có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế - là Đối với tài sản là động sản thì
lực lúc người đó chết. có hiệu lực kể từ thời điểm bên
+ Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015. được tặng cho nhận tài sản, trừ
Các trường hợp khác di chúc không có trường hợp khác.
toàn bộ hiệu lực; có hiệu lực một phần: + Điều 458 BLDS 2015.
+ Điều 643 BLDS 2015.
Đối với tài sản là bất động sản
● Người thừa kế chết trước hoặc cùng
thì có hiệu lực kể từ thời điểm
thời điểm với người lập di chúc;
đăng ký, trong trường hợp bất
● Các pháp nhân được chỉ định là
động sản không cần đăng ký
người thừa kế không còn tồn tại vào
quyền sở hữu thì có hiệu lực kể
thời điểm mở thừa kế;
từ thời điểm chuyển giao tài sản.
● Trong trường hợp nhiều người hoặc
+ Điều 459 BLDS 2015.
nhiều pháp nhân cùng hưởng di sản
mà không còn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có
liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ
chức này không có hiệu lực;
● Trong trường hợp di sản không còn
gì thì di chúc bị vô hiệu hóa;
● Một phần di chúc không hợp
phápm thì phần đó không được
công nhận;
● Khi một người để lại nhiều bản di
chúc đối với một tài sản thì chỉ bản
di chúc sau cùng có hiệu lực.

Hình Di chúc được chia làm 2 loại: Di chúc Đối với động sản luật có quy
thức bằng văn bản và Di chúc bằng miệng. định thì phải đăng ký quyền sở
Di chúc bằng văn bản bao gồm (Điều hữu:
628 BLDS 2015): + Điều 458 BLDS 2015;
● Di chúc bằng văn bản không có + Ví dụ: Phương tiện giao
người làm chứng; thông cơ giới đường bộ;
● Di chúc bằng văn bản có người làm Di vật, cổ vật quốc gia;

25
chứng; Vũ khí, vật liệu nổ...
● Di chúc bằng văn bản có công Đối với tài sản là bất động sản
chứng; phải được lập thành văn bản có
● Di chúc bằng văn bản có chứng công chứng, chứng thực hoặc
thực. phải đăng ký, nếu bất động sản
phải đăng ký quyền sở hữu theo
Di chúc miệng chỉ được lập nên trong quy định của luật
trường hợp tính mạng cái chết của một + Điều 459 BLDS 2015.
người bị đe dọa, không thể lập di chúc
bằng văn bản.
+ Điều 629 BLDS 2015.
Di chúc đối với người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành
văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
+ Điều 634 BLDS 2015.

Nghĩa Những người hưởng thừa kế có trách Bên tặng cho có thể yêu cầu bên
vụ nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong được tặng cho thực hiện một
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc
trường hợp có thoả thuận khác. sau khi tặng cho.
+ Khoản 1 Điều 615 BLDS 2015. + Điều 462 BLDS 2015.

Người thừa kế không phải là cá nhân Trường hợp phải thực hiện nghĩa
hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải vụ trước khi tặng cho, nếu bên
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết được tặng cho đã hoàn thành
để lại như người thừa kế là cá nhân. nghĩa vụ mà bên tặng cho không
+ Khoản 4 Điều 615 BLDS 2015. giao tài sản thì bên tặng cho phải
thanh toán nghĩa vụ mà bên được
tặng cho đã thực hiện
+ Khoản 2 Điều 462.
Trường hợp phải thực hiện nghĩa
vụ sau khi tặng cho mà bên được
tặng cho không thực hiện thì bên
tặng cho có quyền đòi lại tài sản
và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
+ Khoản 3 Điều 462.

26
25. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc, mà
trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông
Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên
không?
- Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc, mà trước
khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì
bà Thẩm không được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên, vì:
+ Cơ sở pháp lý:
● Điều 457 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và
chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù,
bên được tặng cho đồng ý nhận”.
+ Theo đó, nếu ông Lưu đã làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của
ông thì bà Xê. Đồng thời, cả hai bên tự nguyện cho và nhận phần tài sản ấy,
thủ tục tặng cho hợp pháp thì bà Xê sẽ là chủ sở hữu mới, đây không còn là
tài sản của ông Lưu nữa.
➔ Không còn là tài sản của ông Lưu thì không thể là di sản để chia thừa
kế cho bà Thẩm.

26. Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế
nào?
- Hệ thống pháp luật Nhật Bản cũng quy định tương tự Việt Nam về việc tặng cho.
Theo đó, nếu ông Lưu không định đoạt tài sản bằng di chúc, mà trước khi chết,
ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông và thủ tục tặng
cho có hiệu lực; thì bà Xê có quyền cư trú, hưởng lợi từ căn nhà.
- Tuy nhiên, vẫn có quy định bảo vệ quyền và lợi ích cho trường hợp của bà Thẩm:
+ Điều 1028: “Nếu vợ/chồng của người quá cố đang cư trú trong tòa nhà
thuộc tài sản của người quá cố vào thời điểm bắt đầu thừa kế, thì người đó
sẽ được quyền cư trú hoặc tạo doanh thu từ toàn bộ tòa nhà mà mình đang ở
hoặc áp dụng bất kỳ mục nào dưới đây. Tuy nhiên, với điều kiện là điều này

27
sẽ không áp dụng nếu người quá cố ở chung nhà với một người không phải
là vợ/chồng của họ tại thời điểm bắt đầu thừa kế.
(1) Khi quyền cư trú của người vợ hoặc chồng được giành được thông qua
việc phân chia tài sản thừa kế.
(2) Khi quyền cư trú của vợ, chồng là đối tượng tặng cho của di chúc.
(2) Ngay cả khi tòa nhà dân cư thuộc sở hữu của người quá cố, quyền cư
trú của vợ hoặc chồng sẽ không bị hủy bỏ nếu người khác sở hữu quyền
sở hữu chung này.
(3) Các quy định tại khoản 4 Điều 903 sẽ được áp dụng với những sửa đổi
phù hợp đối với việc tặng cho quyền cư trú của người quá cố”.
➔ Thời điểm cho tặng, bà Thẩm vẫn là vợ hợp pháp của ông Lưu và
đang sinh sống trong căn nhà. Do đó, quyền cư trú của bà Thẩm có thể
sẽ không bị mất và có thể được Tòa án điều chỉnh sao cho phù hợp với
quy định của pháp luật.
+ Đồng thời, trong thực tiễn xét xử ở Nhật Bản đã từng ghi nhận:
● Án lệ 85, Phán quyết tối cao ngày 11/9/1981, Quyết định số 216:9 10
○ Việc xác nhận người thừa kế có quyền lợi hay không cần căn cứ vào
nội dung của di chúc để quyết định.
○ Về nguyên tắc, không nên xét phần di sản thừa kế của nguyên đơn sẽ
bị mất hoàn toàn do tặng cho suốt đời…

27. Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả
hợp đồng tặng cho.

- Nhìn từ khía cạnh khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng
tặng cho; để bảo đảm sự thống nhất về nhận thức và thực hiện đúng quy định của
pháp luật về tặng cho tài sản có điều kiện; chúng tôi có một số quan điểm để
trình bày sau đây: 11
(1) Trường hợp hợp đồng tặng cho tài sản là nhà ở, đất ở mà trong hợp đồng có
ghi điều kiện là “Không được bán” thì hợp đồng tặng cho tài sản này thuộc
khoản nào của Điều 462 BLDS hiện hành;
9
Kosaku Matsukura, Tổng hợp Án lệ về Thừa kế, NXB.Yuhikaku, 2.1996;
10
Án lệ 85, Phán quyết ngày 11/9/1981, Quyết định số 216, Tòa án tối cao Nhật Bản.
11
“Tặng cho tài sản có điều kiện và một số vướng mắc từ thực tiễn”, 9/3/2018, Pháp luật Dân sự.

28
(2) Trường hợp, hợp đồng ghi là: “Hợp đồng tặng cho tài sản” và trong hợp
đồng ghi nội dung là tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất có diện
tích cụ thể, nhưng sau khi đăng ký quyền sử dụng đất, người được tặng cho
tài sản thực hiện quyền sử dụng đất; thì bị người sử dụng đất liền kề với
thửa đất được tặng cho quyền sử dụng đất tranh chấp và hòa giải ở cơ sở
không kết quả, người sử dụng đất liền kề với thửa đất tặng cho đã có đơn
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, vì người được tặng cho quyền sử dụng
đất đã lấn chiếm đất. Trường hợp này được áp dụng thời hiệu khởi kiện
nào để giải quyết vụ án. Cụ thể là áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại
Điều 429 BLDS hiện hành (Thời hiệu khởi kiện theo hợp đồng) hay áp
dụng thời hiệu không hạn chế thời hiệu khởi kiện (BLDS hiện hành không
quy định thời hiệu khởi kiện về tranh chấp quyền sử dụng đất);
(3) Về tặng cho tài sản hình thành trong tương lai.
+ Tuy đã có quy định tài sản hình thành trong tương lai tại khoản 2 Điều
108 BLDS hiện hành, mà chúng tôi trình bày ở trên, nhưng trong thực
tế, nhận thức về quy định tại khoản 2 Điều 108 BLDS hiện hành (tài
sản hình thành trong tương lai) là không thống nhất nên rất cần sự
hướng dẫn để có sự nhận thức thống nhất.

IV. Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản:


28. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo BLDS 2015, các nghĩa vụ phải do chính cá nhân người quá cố đó thực hiện sẽ
đương nhiên chấm dứt khi cá nhân, pháp nhân đó chết.
+ Cụ thể, nghĩa vụ về các hợp đồng ủy quyền của người quá cố sẽ đương
nhiên chấm dứt và không được chuyển cho người thừa kế;
+ Cơ sở pháp lý: Khoản 8 Điều 372 BLDS 2015.
- Theo BLDS 2015, các nghĩa vụ về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến
thừa kế sẽ được thanh toán sau khi cá nhân, pháp nhân để lại di sản đó chết.
+ Cơ sở pháp lý: Điều 658 BLDS 2015.

29
29. Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Cơ sở pháp lý: Điều 615 BLDS 2015.
+ Theo BLDS, trong trường hợp di sản đã được chia, thì những người hưởng
thừa kế có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá cố để
lại trong phạm vi di sản của người đó trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
+ Hoặc trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những
người thừa kế.
30. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?
- Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ nhỏ đến khi trưởng thành, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
+ Theo đó, ông Lưu là cha của chị Hương nên ngoài nghĩa vụ nuôi con về mặt
pháp lý, mà về mặt đạo đức xã hội, ông Lưu cũng phải có trách nhiệm nuôi
dưỡng chị Hương cho đến khi chị trưởng thành, có khả năng tự lao động.

31. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi
còn nhỏ đến khi trưởng thành?
- Căn cứ Đoạn 6 - phần Xét thấy của Quyết định cho thấy, bà Thẩm tự nuôi dưỡng
chị Hương từ khi còn nhỏ đến trưởng thành:
+ “...Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà
Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi
trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi dưỡng
con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù
đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)”.
32. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức
nuôi dưỡng con chung không?

30
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích
cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung. Cụ thể, căn cứ phần Nhận định của Tòa án:
+ “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà
Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi
trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con
chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp
công sức nuôi con cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)”.
33. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
- Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, theo chúng
tôi, giải pháp trên của Tòa án là hợp lý, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 658 BLDS 2015;
+ Công sức nuôi dưỡng con chung là tuy là nghĩa vụ cá nhân của ông Lưu,
nhưng ông chưa làm tròn trách nhiệm về mặt pháp lý. Do đó, việc trích một
khoản tiền từ di sản của ông Lưu được xem như thanh toán tiền cấp dưỡng
còn thiếu cho bà Thẩm là có căn cứ và hợp tình, hợp lý.

Tóm tắt Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hồng Vũ, bà Nguyễn Thị Kim Oanh, bà Nguyễn
Thị Kim Dung;
+ Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng Vân.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp di sản thừa kế”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:

31
+ Cụ Phúc và cụ Thịnh có 6 người con, bao gồm nguyên đơn và bị đơn.
Cụ Phúc chết năm 1999 không để lại di chúc, cụ Thịnh chết năm 2007
và có di chúc hợp pháp để lại tài sản là ½ nhà, đất số 708 và phần tài
sản cụ Thịnh được hưởng của cụ Phúc cho ông Vân;
+ Do đó, các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ Phúc và
cụ Thịnh là thửa đất số 708 bằng hiện vật. Tuy nhiên bị đơn chỉ đồng
ý trả tiền cho ông Vũ và ông Vi, phần của bà Oanh, bà Dung, bà Thu
thì ông Vân không đồng ý vì trước đó đã trả cho các bà 30.000.000
đồng.
- Quyết định của Tòa án:
+ Xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản của ông Vân,
ông Vi được hưởng là bao nhiêu và đối trừ, số tiền còn lại mới chia
cho các đồng thừa kế;
+ Chia thừa kế di sản của cụ Thịnh theo di chúc và chia thừa kế di sản
của cụ Phúc theo pháp luật.
- Lý do cho Quyết định:
+ Di chúc của cụ Thịnh là hợp pháp nên di sản của cụ được chia theo di chúc,
cụ Phúc chết không để lại di chúc nên di sản chia theo pháp luật;
+ Ông Vân, ông Vi có công quản lý di sản nên được thanh toán chi phí.

34. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá
cố khi họ còn sống?
- Trong Quyết định số 26, ông Vân và ông Vi là người có công chăm sóc, nuôi
dưỡng người quá cố khi họ còn sống, căn cứ Đoạn 3 - phần Xét thấy:
+ “Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và công
quản lý di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là
người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà) (...)”.

32
35. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
- Theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân,
ông Vĩ sẽ được thanh toán bằng số tiền được trích ra từ di sản thừa kế:
+ Căn cứ Đoạn 3 - phần Xét thấy của Quyết định: “Tòa án cấp phúc thẩm xác
định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và công quản lý di sản, ông Vi có
công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ
để không phải bán nhà), nhưng không xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ
và quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số
tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp tình, hợp lý”.
36. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố).
- Theo chúng tôi, hướng xử lý trên của Tòa là hướng xử lý hợp lý, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 658 BLDS 2015;
+ Ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà, điều này có thể
được xem xét như việc bảo quản di sản. Nhờ có số tiền của ông Vi, nhà, đất
số 708 vẫn còn thuộc quyền sở hữu của cụ Thịnh và cụ Phúc nên sau này mới
trở thành di sản để chia thừa kế;
+ Ông Vân được Tòa án nhận định có công quản lý di sản bằng việc xây tầng 2
của ngôi nhà trên thửa đất số 708.
➔ Ông Vân và ông Vi đều là người có công quản lý di sản; do đó, họ nên
được thanh toán chi phí cho việc này.

Tóm tắt Quyết định 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của TAND TP.HCM
- Chủ thể tranh chấp:
+ Người yêu cầu: Ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân, ông
Huỳnh Công Lĩnh, bà Trần Thị Bông Thành.
+ Chủ thể có quyền, nghĩa vụ liên quan: Công ty Yue Da Mining Limited.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:

33
+ Theo Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 ngày 02/12/2020, Công ty
Yue Da Mining Limited đã yêu cầu ông Hởi, bà Vân, ông Lĩnh, bà Thành
thanh toán nợ hơn 5 triệu USD và các chi phí khác;
+ Năm 2020, ông Hởi, bà Vân, ông Lĩnh, bà Thành nộp đơn yêu cầu hủy Phán
quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM ngày 02/12/2020 vì:
● 12/6/2015, ông Định chết; người thừa kế của ông là ông Lĩnh, bà Thành
nộp đơn khởi kiện yêu cầu được sở hữu cổ phần Công ty Sao Mai của
ông Định vào ngày 29/5/2019;
+ Tuy nhiên, người yêu cầu cho rằng hết thời hiệu để thực hiện các nghĩa vụ tài
sản do ông Định để lại. Theo đó, người yêu cầu cho rằng ông lĩnh, bà Thành
chưa thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế. Do đó, chưa đủ điều kiện để
HĐTT giải quyết tranh chấp theo yêu cầu.
- Quyết định của Tòa án:
+ Không hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM ngày
02/12/2020.
- Lý do cho Quyết định:
+ Tuy rằng ông Định chết vào ngày 12/6/2015, nhưng giữa ông Định với bà
Soan và Công ty Sao Mai đã gia hạn nghĩa vụ thanh toán nợ đến ngày
31/5/2017, nên thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là ngày 01/6/2017 thì
vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
+ Pháp luật không có quy định người thừa kế phải thực hiện thủ tục khai nhận
di sản thừa kế thì Hội đồng trọng tài mới giải quyết tranh chấp, nên không có
căn cứ để chấp nhận yêu cầu.

37. Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ nào của ông
Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông
Định (ông Lĩnh và bà Thành)?
- Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ của ông Định
được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông Định (ông
Lĩnh và bà Thành) là nghĩa vụ tài sản với công ty Yue Da Mining Limited.

34
+ Căn cứ Đoạn 2 - Tiểu mục 1.1 - phần Nhận định của Tòa án: “Người yêu cầu
dựa vào quy định này để cho rằng thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa
kế là ông L, bà T thực hiện nghĩa vụ của người chết (ông Đ) để lại (…) nghĩa
vụ thanh toán nợ đến ngày 31/5/2017 và một số đợt thanh toán sau đó nên
thời điểm các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình theo thỏa
thuận của các bên theo Hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần là ngày
01/6/2017”.
38. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người
thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào
việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa?
Hướng như vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?
- Căn cứ Tiểu mục [1.2] của Quyết định (năm 2021) cho thấy, Tòa án buộc những
người thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc
vào việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa:
 “Pháp luật không có quy định người thừa kế phải thực hiện thủ tục khai
nhận di sản thừa kế thì Hội đồng trọng tài mới giải quyết tranh chấp”.
- Đây là hướng giải quyết thuyết phục, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 614 BLDS 2015;
+ Theo đó, kể từ thời điểm mở thừa kế thì nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại đã phát sinh đối với người thừa kế, nên không cần phải thực hiện thủ tục
khai nhận di sản để thực hiện nghĩa vụ trên.

39. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để
lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di
sản không lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện, vì:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 156, khoản 3 Điều 623 BLDS 2015;
+ Theo đó, thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản là 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.

35
➔ Chỉ có các yếu tố sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
mới ảnh hưởng đến thời hiệu trên.
40. Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn
thực hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định chưa đến hạn
thực hiện. Căn cứ vào Đoạn 4 - Tiểu mục 1.1 - phần Nhận định của Tòa án:
+ “(...) Mặc dù ông Đ đã chết vào ngày 12/6/2015 nhưng nguyên đơn chưa
thể khởi kiện các bị đơn trong thời gian từ ngày 12/6/2015 đến ngày
31/5/2017 (vì chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ của các bị đơn)”.
41. Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người
quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được
tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy có thuyết phục không, vì
sao?
- Tòa xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người mất vẫn còn dù
ông Định đã chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được tiến hành năm 2019, vì:
+ Tuy ông Định chết vào ngày 12/6/2015, nhưng công ty Yue Da Mining
Limited chưa thể khởi kiện trong thời gian từ ngày 12/6/2015 đến ngày
31/5/2017 vì chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ tài sản.
- Đây là hướng giải quyết thuyết phục, vì:
+ Khoảng thời gian này được coi là thời gian gặp trở ngại khách quan không
tính vào thời hiệu khởi kiện được quy định tại khoản 3 Điều 623 BLDS
2015.

42. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào có quy định riêng về thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản như pháp
luật Việt Nam hiện nay không?
- Trong hệ thống pháp luật Nhật Bản, do các khoản nợ cũng thuộc tài sản được
thừa kế, nên nếu người thừa kế được thừa kế khoản nợ thì chủ nợ có quyền đòi
nợ đối với người đó. BLDS mới đã sửa đổi và bỏ quy định cũ về thời hiệu khiếu
kiện phát sinh trong giao dịch thương mại sẽ hết sau 5 năm kể từ thời điểm
chuyển giao khoản nợ (mở thừa kế); thay vào đó quy định mới về thời hiệu như
sau:

36
+ Điều 166, Khoản 1 của BLDS Nhật Bản sửa đổi, quy định:
● “Quyền yêu cầu thanh toán tiền sẽ hết hạn trong:
1. 5 năm kể từ thời điểm chủ nợ biết rằng nghĩa vụ có thể được thực
hiện bởi một người khác;
2. 10 năm kể từ khi người thừa kế khoản nợ có thể thực hiện nghĩa
vụ, sau khi hết thời hạn này có thể xin xóa bỏ nghĩa vụ theo quyết
định của Tòa án”.
➔ Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản là 10 năm trong trường hợp chủ nợ không đòi nợ
hoặc 5 năm kể từ khi chủ nợ biết.
43. Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết phục
của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của người để lại di sản (có nên giữ lại hay không?)
- Theo chúng tôi, quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
về tài sản của người để lại di sản nên phụ thuộc vào đạo đức, khả năng tài chính
của người thừa kế thừa kế thực hiện nghĩa vụ, vì:
+ Đối với người kế thừa kế thực hiện nghĩa vụ không có khả năng tài chính:
thời hiệu 03 năm theo quy định tại Điều 623 BLDS 2015 thì không phù
hợp. Các nghĩa vụ đó nên được thanh toán ngay từ thời điểm mở thừa kế để
đảm bảo các nghĩa vụ được thực hiện.
+ Đối với người kế thừa kế thực hiện nghĩa vụ có khả năng tài chính: thời
hiệu này nên có sự thoả thuận giữa các bên liên quan; phải đề cập đến thời
hạn chi trả, hậu quả pháp lý khi không thực hiện đúng thời hạn đã thỏa
thuận như thế nào, qua đó đảm bảo được tính hiệu quả, hợp lý của các quy
định pháp luật.

37
Vấn đề 3
Tóm tắt Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Anh Lê Quốc Toản;
+ Bị đơn: Chị Lê Thị Thu, anh Lê Quốc Tuấn;
+ Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: ông Lê Văn Vinh, bà Lê Thị Xuyên,
bà Hoàng Thị Sâm, chị Lê Hồng Thúy, chị Lê Thiên Hương, anh Nguyễn
Hải Trung.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Chia thừa kế theo di chúc”
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Ông Minh có hai người vợ là bà Lê Thị Bằng và bà Nguyễn Thị Lan. Trong
đó, ông Minh và bà Lan có 5 người con chung là: chị Thu, anh Tuấn (bị
đơn), anh Toản (nguyên đơn) và 2 người con khác. Trong thời gian sinh sống
với 2 người vợ, ông Minh có khối tài sản gồm: 200m 2 đất tại xóm Mới (tài
sản chung của ông và bà Bằng); 55m 2 đất tại số 64 đường Trần Đăng Ninh;
15m2 đất tại số 120 đường Cầu Giấy (sau khi ông Minh chết thì bà Lan và vợ
chồng anh Toản ở). Năm 1997, ông Minh chết và để lại di chúc bán căn nhà
ở số 64 Trần Đăng Ninh (55m2) để chia di sản cho các con, bà Lan đã bán và
chia sau đó;
+ Ngày 08/10/1998 bà Lan “lập di chúc thừa kế nhà ở” có một phần nội dung
để lại cho anh Toản được hưởng căn nhà 15m2 (xây 3 tầng). Di chúc có chữ
ký đề tên bà Lan và có UBND phường chứng thực ngày 02/01/1999. Tuy
nhiên, ngày 18/04/2005 bà Lan làm “đơn xin hủy di chúc”, văn bản do cháu
Nguyệt Anh (con chị Thu) viết hộ, được toàn bộ người trong gia đình chứng
kiến và ký tên, trừ anh Toản. Văn bản hủy di chúc cũng được UBND phường
lưu bản photo giấy hủy di chúc, nhưng không xác nhận do bà Lan nhờ cháu
viết và bà cùng các con ký ở nhà;
+ Sau khi bà Lan chết, anh chị em trong nhà xảy ra tranh chấp, các anh chị em
đuổi vợ chồng anh Toản ra khỏi căn nhà số 120 đường Cầu Giấy (15m 2) với
lý do cho rằng trước khi chết bà Lan đã làm văn bản hủy di chúc. Các bị đơn
đều cho rằng do vợ chồng anh Toản sống thiếu trách nhiệm với mẹ, không

38
quan tâm đến gia đình, nên năm 2005 bà Lan đã lập văn bản hủy bỏ di chúc
của bà lập trước đây;
+ Anh Toản không đồng ý vì văn bản này không có công chứng, chứng thực,
không do mẹ anh viết, những người làm chứng trong văn bản này là những
người thừa kế không hợp lệ theo quy định của pháp luật; khởi kiện, yêu cầu
các anh chị em trong gia đình trả lại căn nhà đồng thời trả lại tiền cho thuê
căn nhà do chị Thu và anh Tuấn đứng ra quản lý từ khi bà Lan chết đến nay.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm đồng ý bác yêu cầu xin chia thừa kế theo di
chúc đối với nhà số 120 đường Cầu Giấy của anh Toản;
+ Tòa giám đốc thẩm yêu cầu xem xét lại, hủy quyết định của Tòa sơ thẩm và
phúc thẩm về việc bác yêu cầu chia thừa kế của anh Toản, nếu bản hủy bỏ di
chúc có căn cứ thì cần phải chia lại di sản theo pháp luật.
- Lý do cho Quyết định:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm chưa làm rõ: gia đình bà Lan đã thực hiện lời dặn của ông Minh như thế
nào. Ngoài ra, Tòa cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng chưa xem xét
“di chúc thừa kế nhà ở” của bà Lan có tuân thủ quy định của pháp luật
không;
+ “Đơn xin hủy di chúc” có nhiều điểm bất cập cần xem xét như bà Lan nếu
biết chữ thì tại sao lại không phải do bà Lan viết mà do cháu Nguyệt Anh
viết hộ, nội dung đơn này có đúng ý chí bà Lan không. Tòa sơ thẩm và phúc
thẩm chưa làm rõ mà đã bác đơn yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của anh
Toản là chưa đủ căn cứ vững chắc.

39
Tóm tắt Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011.
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Anh Dương Văn Đang;
+ Bị đơn: Ông Dương Văn Sáu, bà Đỗ Thị Hời.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Năm 1994, cụ Dương Văn Trượng (là ông nội của anh Đang) cho anh
3.530m2 đất thuộc thửa 543. Ngày 01/03/1979 (thực tế là năm 1997) cụ
Trượng nhờ ông Tam lập “Tờ ủy quyền để lại thay lời chúc ngôn” cho anh
Đang 3000m2 đất; có chữ ký của của cụ Trượng, điểm chỉ của cụ Tào (vợ cụ
Trượng) và có xác nhận của UBND xã Phụng Hiệp;
+ Ngày 07/02/1999, cụ Trượng lại lập di chúc, nhờ bà Tám (con gái hai cụ)
viết giúp, cho anh Đang sử dụng 2000m2 đất, anh Thanh (cháu nội 2 cụ) được
quyền sử dụng 2600m2 đất, cho ông Sáu được quyền sử dụng 2542m 2 đất
ruộng và 4310m2 đất vườn để phụng dưỡng cha mẹ, có chữ ký cụ Trượng, cụ
Tào gạch chữ x. Quá trình giải quyết vụ án, các con của cụ Trượng và cụ Tào
là các ông, bà Tám, Sáu, Cẩm, Đường đều thừa nhận cụ Trượng, cụ Tào có
lập di chúc ngày 07/02/1999, nhưng anh Đang không thừa nhận;
+ Trong hồ sơ vụ án có “Tờ cam kết” ngày 07/03/1999 đứng tên cụ Trượng có
nội dung trước đây cụ cho anh Đang 3000m 2 đất hằng năm đóng lúa cho bà
nội ăn đến chết, cụ cam kết không khiếu nại, có ông Tam xác nhận. Tuy
nhiên, nhìn mắt thường thì thấy chữ ký đứng tên cụ Trượng tại giấy này và
chữ ký đứng tên cụ Trượng tại hai tài liệu nêu trên là có sự khác nhau;
- Quyết định của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm và phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc kiện
đòi thừa kế quyền sử dụng đất, buộc ông Sáu trả lại anh Đang diện tích đất
1332,4m2 đất tại thửa 543;
+ Toà Giám đốc thẩm: Chấp nhận kháng cáo, hủy bản án sơ thẩm và phúc
thẩm trước đó để xem xét, làm rõ lại các tình tiết còn thiếu sót nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ông Sáu.
- Lý do cho Quyết định:

40
+ Do cần làm rõ “Tờ cam kết” ngày 07/03/1999 có phải do cụ Trượng lập
không. Nếu có căn cứ xác định là ý chí của cụ Trượng thì cụ Trượng cũng
chỉ có quyền quyết định đối với ½ là phần tài sản của cụ.
Tóm tắt Quyết định 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 Tòa dân sự TAND tối cao
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: ông Bùi Văn Nhiên;
+ Bị đơn: ông Bùi Văn Mạnh;
+ Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan: gồm các ông, bà Bùi Thị My, Bùi
Văn Cường, Bùi Thị Hoàn, Bùi Thị Lương, Bùi Thị Hiệp, Bùi Thị Hạnh.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Vợ chồng cụ Bùi Hữu Môn và cụ Hoàng Thị Giảng sinh được 05 người con:
My, Đức, Nhiên, Lương, Mạnh. Sinh thời, cụ Môn và cụ Giảng tạo dựng
được 01 nhà ngói 05 gian (đã xuống cấp không còn giá trị sử dụng) trên
169,3m2 đất. Cụ Giảng chết ngày 08/05/1999, không để lại di chúc;
+ Ngày 15/05/1998, cụ Môn lập di chúc được UBND xã Đức Thắng chứng
thực với nội dung: “(...) cho ông Đức 4m2 đất theo hướng từ Tây sang Đông
kéo dọc hết chiều dài thửa đất; diện tích đất còn lại dùng để làm nhà thờ
cúng gia tiên giao cho ông Mạnh trông nom, tu sửa”, bản di chúc này có chữ
ký của cụ Môn, được các đương sự thừa nhận, nhưng không có chữ ký hoặc
điểm chỉ của cụ Giảng vì các đương sự khai thời điểm này cụ Giảng không
còn tỉnh táo;
+ Sau khi cụ Giảng chết thì các thừa kế đã phân chia di sản của cụ Giảng, đồng
thời cụ Môn cùng các con là ông Đức, Nhiên, Mạnh, bà My, ông Hồi (chồng
bà My), ông Thịnh (chồng bà Lương) cũng đã định đoạt phần tài sản của cụ
theo “biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” ngày 11/04/2000, biên
bản được trưởng thôn xác nhận;
+ Tuy nhiên, năm 2003 anh Đức mất, cụ Môn vì quá sốc cũng chết cùng ngày.
Sau khi bà Môn mất, anh Nhiên cho rằng di chúc của cụ Môn để lại không rõ
ràng, không hợp pháp; ông Mạnh lợi dụng ở cạnh đất của cụ Môn mà có
hành vi lấn chiếm, xảy ra mâu thuẫn không thống nhất được việc xây dựng
nhà thờ. Do đó, ông khởi kiện, yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật di sản của
bố, mẹ.

41
- Quyết định của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm và phúc thẩm: trừ đi phần diện tích bà Môn đã cho ông Đức vào
khối di sản thừa kế chung; căn cứ theo di chúc giao cho anh nhiên quyền
quản lý 129,29m2 đất và ông mạnh quyền quản lý 39,7m2 đất và; phần di sản
của cụ Giảng chia theo pháp luật;
+ Tòa giám đốc thẩm yêu cầu: cần căn cứ thêm “biên bản cuộc họp gia đình
cụ Bùi Hữu Môn” để xác định lại di sản; cần xem xét lại việc chia thừa kế
theo pháp luật đối với di sản của cụ Giảng.
- Lý do cho Quyết định:
+ Có cơ sở xác định “biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” ngày
11/04/2000 là hợp pháp. Khi giải quyết vụ án, Toà án hai cấp không căn cứ
“biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” mà xác định theo di chúc
năm 1998 có hiệu lực đối với phần tài sản của cụ Môn;
+ Đồng thời, chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản của cụ Giảng là
gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.

1. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc
(về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
- Thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc:
+ Cơ sở pháp lý: Điều 611, 640, 643 BLDS 2015.
+ Về thời điểm: người lập di chúc có thể thay đổi, hủy bỏ di chúc đã lập vào
bất cứ lúc nào bằng ý chí tự nguyện của mình.
+ Về cách thức và hình thức sửa đổi di chúc: sửa đổi di chúc là việc người
lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình làm thay đổi một phần di chúc lập
trước đó, phần không bị sửa đổi vẫn giữ nguyên giá trị hiệu lực, phần đã bị
sửa đổi sẽ không còn hiệu lực pháp luật nữa. Có ba hình thức, cách thức sửa
đổi:
● Sửa đổi người được hưởng thừa kế: có thể thêm hoặc bớt số người
được hưởng thừa kế;
● Sửa đổi về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế : có thể bớt hoặc tăng
thêm quyền và nghĩa vụ của người thừa kế phải thực hiện, thay đổi kỷ
phần thừa kế mà người thừa kế được hưởng, nghĩa vụ mà họ được giao
thực hiện khi người để lại di sản đã chết;

42
● Sửa đổi về câu chữ: người lập di chúc có quyền sửa đổi câu chữ gây,
tránh gây hiểu nhầm, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa
kế.
+ Về cách thức và hình thức hủy bỏ di chúc: hủy bỏ di chúc là việc người lập
di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình từ bỏ di chúc đã lập. Trường hợp này
được coi là không có di chúc và di sản sẽ được giải quyết theo pháp luật. Có
ba hình thức, cách thức hủy bỏ di chúc:
● Hủy bỏ di chúc một cách minh thị: Trong thực tế, di chúc có thể được
hủy bỏ một cách minh thị, người lập di chúc nói rõ là hủy bỏ di chúc đã
lập. Việc hủy bỏ di chúc minh thị thường chỉ giới hạn ở việc người lập
di chúc tuyên bố không giữ di chúc nhưng không cho biết về tài sản
trong di chúc bị hủy bỏ sẽ được định đoạt như thế nào;
● Hủy bỏ bằng việc lập di chúc khác : Trong thực tế, người lập di chúc
thường không hủy bỏ di chúc một cách minh thị như trên mà có hành vi
cho phép suy luận rằng họ không muốn giữ di chúc nữa. Chẳng hạn,
người lập di chúc định đoạt lại tài sản của mình bằng di chúc khác và
thực tiễn xét xử theo hướng di chúc trước bị hủy bỏ (không còn giá trị);
● Hủy bỏ di chúc bằng giao dịch khác di chúc : Trong trường hợp người
lập di chúc định đoạt lại tài sản bằng hành vi khác như tặng cho, mua
bán thì hệ quả đối với di chúc cũ cũng tương tự như trường hợp hủy bỏ
di chúc cũ bằng di chúc mới, vì bản chất đều là định đoạt lại tài sản. 12
2. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không?
- Trong thực tiễn, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được ngầm định, vì:
+ Việc ngầm định này sẽ đảm bảo khi phần di sản định đoạt trong di chúc
thuộc sở hữu của người để lại di chúc và việc này sẽ giúp đảm bảo cho di
chúc được thực hiện đúng theo ý chí của người để lại di chúc;
+ Đối với việc hủy bỏ di chúc một cách minh thị và người lập di chúc không
có ý định viết di chúc mới hay thay thế khác thì tài sản này sẽ là tài sản chia
theo pháp luật khi người lập di chúc chết.
3. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ hình
thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?

12
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia
Việt Nam, 2013, tr.615-619.

43
- Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không cần phải tuân
theo hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ, vì:
+ Trong BLDS không đề cập, quy định về vấn đề thay đổi hay hủy bỏ di chúc
cần phải tuân thủ hình thức bị thay đổi hay hủy bỏ;
➔ Các nhà lập pháp đồng ý quan điểm thay đổi hay hủy bỏ di chúc theo
hình thức bị thay đổi hay hủy bỏ là điều không cần thiết.
4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết
định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
 Theo chúng tôi, hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết định trên (3 quyết
định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc:
+ Đối với quyết định 619: hướng giải quyết của Toà án là hợp lý, vì:
● Cần thiết xem xét bản di chúc thừa kế nhà ở của bà Lan có tuân thủ các
quy định của pháp luật không.
● Đồng thời, cần làm rõ vấn đề vì sao đơn hủy bỏ di chúc lại không phải
là bà Lan viết mà lại do cháu Việt Anh (con của chị Thư) viết hộ; làm
rõ việc bà Lan biết chữ hay không, ý chí của bà Lan có trong “đơn xin
hủy di chúc” hay không.
+ Đối với Quyết định số 767: hướng giải quyết chưa thật sự hợp lý, vì:
● Cần xác định di chúc lập ngày 7/3/1999 có thể hiện đúng ý chí của ông
Trượng, bà Tào không. Nếu có thì cần làm rõ việc hai cụ đã thay đổi di
chúc ngày 1/3/1997 bằng di chúc ngày 7/3/1999;
● Do vậy, việc Toà án yêu cầu làm rõ tờ cam kết đó có phải là do cụ
Trượng ký hay không là thỏa đáng, đảm bảo ý chí của cụ Trượng.
 Đối với Quyết định 194: hướng giải quyết hợp lý, vì:
● Thừa nhận di chúc do cụ Môn lập ngày 15-5-1998 có hiệu lực một phần
với tài sản của ông và đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm nêu căn
cứ và biên bản cuộc họp gia đình cụ Môn để xem xét phần di sản của bà
Giang nên chia thế nào cho phù hợp.
● Do đó, việc Toà án phải dựa vào di chúc năm 1998 để chia phần tài sản
của cụ Môn và đồng thời chia thừa kế theo pháp luật.
➔ Đảm bảo quyền lợi và lợi ích của người lập di chúc.
Tóm tắt Quyết định 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 Tòa dân sự TAND tối cao

44
- Chủ thể tranh chấp của Bản án:
+ Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn Thị Bay;
+ Bị đơn: bà Nguyễn Thị Lên, bà Nguyễn Thị Sáu;
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn Cu, anh Nguyễn
Anh Tuấn, chị Huỳnh Thị Kim Lệ.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp thừa kế”
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Cụ Nguyễn Văn Nhà và cụ Phạm Thị Việt có 05 người con gồm: bà Bay, bà
Lên, bà Chim, bà Sáu, ông Cu. Năm 2006, cụ Nhà mất, để lại khối di sản
198m2 (đo thực tế 1850m2) tại thửa số 10 xã Mỹ Lộc;
+ Mặt khác, còn có diện tích 832m2 (diện tích thực tế 1112m2) tại thửa số 204
xã Long Thượng đứng tên bà Sáu, nguồn gốc là do cụ Nhà khai phá, UBND
xã Long Thượng cũng xác nhận cụ Nhà tạo lập đất này từ 1969, đến năm
1975 để cho bà Sáu canh tác. Sau giải phóng, bà cùng bà Lên và chồng bà
Bay tiếp tục khai hoang. Trong đó, đối với phần đất ruộng bà Bay sử dụng,
đối với phần đất gò bà giao cho con trai là anh Tuấn sử dụng trên 15 năm.
Trong quá trình sử dụng, anh Tuấn đã xây nhà, chuyển nhượng một phần đất
cho anh Đệ nhưng bà Chim, bà Bay không có ý kiến tranh chấp gì. Ngày
05/02/2009, các anh chị em lập văn bản thỏa thận về việc để cho bà Sáu đứng
tên kê khai quyền sử dụng đất. Nội dung văn bản này không thể hiện việc
định đoạt chia cho bà Sáu quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này;
+ Do đó, ngày 16/03/2009, bà Chim và bà Bay có khởi kiện yêu cầu chia thừa
kế di sản của cụ Nhà. Bà Lên, bà Sáu xuất trình tờ di chúc lập ngày
26/07/2000 của cụ Nhà. Theo văn bản này, cụ Nhà cho bà Sáu và bà Lên trọn
quyền sử dụng phần đất có diện tích 2198m2 (thực tế đo đạc 1850m2) tại
thửa số 10 xã Mỹ Lộc (có giấy chứng nhận đứng tên ông Nhà), đồng thời có
trách nhiệm thờ cũng ông bà, tổ tiên nhưng không được quyền cầm cố hoặc
chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc
tuổi già.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm, phúc thẩm: Bác yêu cầu của bà Chim, bà Bay về việc yêu cầu
bà Lên, bà Sáu chia thừa kế tại 2 thửa đất 10 và 204;

45
+ Toà Giám đốc thẩm: Chấp nhận kháng cáo, hủy bản án sơ thẩm và phúc
thẩm trước đó để xem xét, làm rõ lại các tình tiết còn thiếu sót.
- Lý do cho Quyết định:
+ Do phải thu thập chứng cứu làm rõ diện tích đất này có phải là di sản thừa kế
của cụ Nhà hay là tài sản riêng của bà Sáu. Nếu đây là di sản của cụ Nhà và
các đương sự không xuất trình được di chúc hợp pháp của cụ Nhà định đoạt
phần đất này thì phải chia thừa kế theo pháp luật nhưng quá trình giải quyết
cần xem xét hợp lý đến công sức bảo quản, tôn tạo tài sản của gia đình bà
Sáu.
5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
- Căn cứ Đoạn thuộc Nội dung - phần Nhận định của Quyết định, Toà án xác định
di chúc có điều kiện là:
+ “Theo văn bản này, cụ Nhà cho bà Sáu và bà Lên trọn quyền sử dụng phần
đất này, đồng thời có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không được
quyền cầm cố hoặc chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Cu khi bị ốm
đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già. Như vậy, di chúc này thuộc loại di chúc có
điều kiện, khi xem xét công nhận di chúc hay không, phải xem xét những điều
kiện được nêu trong di chúc có được bảo đảm thực hiện hay không”;
+ Theo đó, điều kiện của di chúc này là thờ cúng ông bà tổ tiên, nhưng không
được cầm cố hoặc chuyển nhượng phần đất này, nuôi dưỡng ông Cu khi ốm
đau bệnh tật, tuổi già.
6. Cho biết thực trạng văn bản QPPL về di chúc có điều kiện ở Việt Nam?
- Thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở Việt Nam:
+ Pháp luật về thừa kế của Việt Nam hiện nay chưa công nhận "di chúc có điều
kiện", có thể hiểu “điều kiện” ở đây là những yêu cầu người lập di chúc đưa
ra mà những người hưởng di sản buộc phải làm nếu muốn hưởng di sản đó
thì coi như phần "điều kiện" của di chúc đó không có hiệu lực pháp luật;
+ Bên cạnh đó, có quan điểm khác nhau như: ý chí của người lập di chúc bị vi
phạm bởi quyền sở hữu của người hưởng di sản và tôn trọng ý nguyện tuyệt
đối của người lập di chúc.
➔ Chưa có văn bản nào quy định về vấn đề "di chúc có điều kiện".
7. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.

46
- Hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng:
+ Pháp luật về thừa kế của Việt Nam hiện nay chưa công nhận "di chúc có điều
kiện", tức là nếu người lập di chúc vẫn đưa ra những điều kiện mà người
hưởng di sản phải đáp ứng thì mới được hưởng phần di sản đó, thì coi như
phần "điều kiện" của di chúc đó không có hiệu lực pháp luật;
+ Do đó, nếu điều kiện để được nhận di chúc không có hiệu lực pháp luật, thì
người được hưởng di sản thừa kế vẫn được hưởng di sản khi họ không thực
hiện những điều kiện đó, trừ khi việc hưởng di sản gây ra hậu quả nghiêm
trọng hay liên quan đến vi phạm pháp luật, vi phạm về vấn đề đạo đức.
8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên luật
hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?).
- Theo chúng tôi, có thể luật hóa di chúc có điều kiện, nhưng cần cân nhắc và chọn
lọc những điều kiện phù hợp nhất để không xâm phạm đến quyền tự do của
những người thừa kế. Cụ thể:
+ Nên chấp nhận một số điều kiện như: di chúc sẽ không được thực hiện nếu
các đồng thừa kế có hành vi bất hiếu, vi phạm pháp luật, có hành vi trái với
quy phạm đạo đức, chuẩn mực xã hội, luân thường đạo lý…
+ Tuy nhiên, không nên chấp nhận các điều kiện xâm phạm đến quyền tự do
của người thừa kế: bắt buộc phải theo một ngành nghề cụ thể, nối nghiệp cha
mẹ mới được thừa kế; phải kết hôn với một người do cha mẹ chỉ định…
➔ Dân trí nước ta chưa thật sự cao, trình độ văn hóa, nhận thức chưa được
đồng đều và còn nhiều tư duy lạc hậu, cổ hủ. Do đó, hiện tại vẫn chưa
nên công nhận di chúc có điều kiện, vì sẽ dễ đi vào tình trạng xâm
phạm quyền tự do quyết định cho cuộc sống sau này của những người
thừa kế.
v Án lệ Nhật Bản, Quyết định của Tòa án tối cao Tokyo, ngày 11 tháng 12 năm
1992 ghi nhận vụ việc: 13
 Hủy bỏ tư cách thừa kế và toàn bộ mối liên hệ của người con gái đã kết hôn
với thành viên của một nhóm tội phạm có tổ chức (Yakuza) và đưa ra lời mời
dự tiệc cưới dưới tên cha cô ấy bất chấp sự phản đối của cha mẹ cô ấy đối
với cuộc hôn nhân.

13
Kosaku Matsukura, Tổng hợp Án lệ về Thừa kế, NXB.Yuhikaku, 2.1996.

47
Vấn đề 4
Tóm tắt Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở
hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1 và bà Phạm Thị H2;
+ Bị đơn: Ông Phạm Văn H3.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Cụ Phạm Văn H (chết năm 1978) và cụ Ngô Thị V (chết ngày 21-8-1994) có
07 người con chung gồm 04 người con trai trong đó có ông Phạm Văn H3 và
04 người con gái là các bà Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2. Hai cụ
có mảnh đất diện tích là 464m², năm 1991, cụ V chia mảnh đất cho làm 05
phần, bốn người con trai mỗi người được 01 phần, ba người con gái được
hưởng chung 01 phần (44,4m² đất);
+ Sau đó ba chị em đi xây dựng kinh tế ở nơi khác nên nhờ ông H3 trông nom
giúp mảnh đất của các bà vì mảnh đất ông H3 nằm liền mảnh đất của các bà
(tổng diện tích đất ban đầu ông H3 quản lý là 162m² nhưng vì ông đồng ý cắt
bớt 52m2 đất của ông cho ông Q nên ông chỉ còn 110m2);
+ Năm 2004, ba bà có nhu cầu xây dựng nhà trên đất này thì ông H3 lại không
thừa nhận là đất của ba chị em và ông đã chia đất cho con của ông là anh L
và chị T. Các nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông H3 trả lại phần đất cho
ba bà và giải quyết cho các bà được hưởng thừa kế theo pháp luật.

48
+ Ban đầu ông H3 thừa nhận cha mẹ có khối tài sản nhà đất như các nguyên
đơn trình bày và năm 1972, ông lập gia đình riêng được cha mẹ cho ở trên
162m2 đất. Nhưng sau đó, ông lại cho rằng 162m2 đất này có nguồn gốc là bà
N tự khai hoang đổ đất cải tạo hố rác, ruộng rau muống thành nền nhà và sử
dụng đến nay, không phải đất của cụ V, cụ H. Ông H3 cũng đã được cấp giấy
chứng nhận sử dụng mảnh đất 162m2, do đó ông H3 không đồng ý trả lại đất
cho ba bà và cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế di sản của cha
mẹ ông.

- Quyết định của Tòa án:


+ Chỉ công nhận ông H3 là người đứng tên trong giấy tờ sổ sách giấy tờ về địa
chính, nhà đất vẫn là của cụ V, cụ H;
+ Xác nhận việc cụ V có chia đất cho bà H, bà H1 và bà H2 và phần đất của ba
bà do ông H3 quản lý. Không công nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V
từ các nguyên đơn;
+ Bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m 2 đất thuộc quyền sử
dụng hợp pháp.
- Lý do cho Quyết định:
+ Ông H3 cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh 162m 2 là tài sản
riêng của ông;
+ Nhà đất trên không còn là di sản thừa kế của hai cụ nên không công nhận yêu
cầu chia di sản của cụ H, cụ V từ các nguyên đơn;
+ Xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống
nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất
110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2.
1. Trong Án lệ số 24, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản?
- Trong Án lệ số 24, nội dung cho thấy việc đã có thỏa thuận phân chia di sản:
+ Căn cứ Mục [3] phần Nhận định của Tòa án: “Phần chia cho ông Đ (94m2),
ông Q (78m2), ông T (189m2), các ông đều (…) đăng ký đứng tên chủ sử
dụng đất (...) cụ V chia đất, các con đều đã trưởng thành, một số có gia đình
riêng có nhu cầu về đất ở (...). Ông T thừa nhận việc cụ V chia đất, tất cả

49
các con đều đồng ý và ông T xác định phần đất 110m 2 do ông H3 quản lý là
cụ V chia cho ông H3 và bà H, bà H1 và bà H2”.
- Qua đó, có thể thấy, thỏa thuận phân chia di sản đã được xác lập và các con của
cụ H và cụ V cũng đồng ý và không có bất kỳ phản đối nào trong cách chia.
+ Ngoài ra, còn xác định được cụ thể phần đất nào của ai điều đó chứng tỏ việc
thỏa thuận phân chia di sản đã diễn ra và kết thúc cùng với sự thống nhất từ
nội bộ gia đình của hai cụ.

2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?
- Nội dung cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã được Tòa án chấp nhận:
+ Căn cứ Mục [4] phần Nhận định của Tòa án: “(...) đủ cơ sở xác định nhà đất
của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia
tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m 2 trong
đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2”.
+ Theo đó, bằng việc xác định 07 người con của cụ H và cụ V có căn cứ và cơ
sở để sở hữu các phần đất được chia (là tài sản chung của hai cụ) thì Tòa
đồng thời đã chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản của hai cụ cho các người
con.
- Ngoài ra, việc sử dụng cụm từ “phân chia di sản” ở đây là chưa hợp lý, vì:
+ Tài sản được phân chia trong Bản án là tài sản chung của cụ H và cụ V, chỉ
sử dụng đúng cụm từ “phân chia di sản” khi chia đôi tài sản chung của hai cụ
ra và chia phần tài sản của cụ H;
+ Dù cụ V gộp chung tài sản của mình với cụ H (đã chết) thì cũng không thể
gọi là “di sản” vì một phần là của người sống, phần kia của người chết nên
không thể đồng nhất hai khái niệm này lại bằng từ “di sản”.
3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức
và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.
- Theo chúng tôi, việc Tòa chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên là hợp lý, vì:

50
+ Đối với Điều kiện về hình thức (lập thành văn bản), vụ việc trong Án lệ này
khi họp mặt thỏa thuận không có viết ra văn bản, như vậy là đã vi phạm Điều
kiện hình thức theo khoản 2 Điều luật nêu trên;
+ Đồng thời, về vấn đề này, PGS. Đỗ Văn Đại đã từng đề cập:
● “(…) Trong vụ việc đang bình luận, chúng ta có thể thấy có thỏa thuận
phân chia di sản và thỏa thuận này không được thể hiện dưới văn bản.
Điều này cũng cố phần nào thêm quan điểm theo đó yêu cầu về hình
thức nêu trên không là yêu cầu với vai trò là Điều kiện có hiệu lực mà
là yêu cầu về chứng cứ”. 14

+ Đối với Di chúc có Điều kiện về nội dung, vụ việc trong Án lệ này đã thỏa
mãn. Căn cứ Điều 610, 651, 659 BLDS 2015, có thể khẳng định khi phân
chia di sản thì những người thừa kế có quyền tham gia như nhau, tất cả
những người thừa kế phải tham gia thỏa thuận phân chia di sản (kể cả
những người thừa kế thế vị). Do đó, một số người thừa kế không thể tự phân
chia di sản mà không có sự đồng ý của những đồng thừa kế khác.
➔ Trong vụ việc này, cụ V đã họp các con (đều đã trưởng thành) để
phân chia di sản và Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định “thỏa
thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào”
nên đáp ứng Điều kiện về chủ thể.

4. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?
- Căn cứ phần Nội dung Án lệ, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận
trên là tranh chấp về tài sản:
+ “(...) thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế
nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di
sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất
hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi
kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm
1991 (…)”.

14
Đỗ văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức, Hội luật gia Việt
Nam, 2019, Bản án số 157-160, tr.548-549.

51
+ Theo đó, đã hết thời hiệu chia thừa kế di sản và di sản vốn dĩ đã được chia
cho các con chung của cụ H và cụ V. Do đó, các phần đất đã được chia từ di
sản sẽ thuộc sở hữu của các người con.
➔ Đây được xem như là tranh chấp về tài sản là vì liên quan đến quyền
sở hữu của các cá nhân.

52
Vấn đề 5
Tóm tắt Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao
- Chủ thể tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân;
+ Bị đơn: Nguyễn Chí Trải, Nguyễn Thị Thuý Phượng, Nguyễn Thị Bích Đào.
- Vấn đề tranh chấp giữa các bên: “Tranh chấp di sản thừa kế”.
- Các bên tranh chấp vì lý do:
+ Cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978) và cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992)
có 06 người con là bà Xê, ông Trải, bà Xuân, bà Thưởng, bà Trinh và ông
Trai. Cụ Hưng và cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, tài sản chung của
hai cụ là một nhà đất (chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999) trị giá thành tiền là
10.655.687.000 đồng;
+ Sau khi hai cụ chết, nhà đất do chị Nguyễn Thị Thúy Phượng là con của ông
Trải quản lý, sinh sống và làm chủ hộ khẩu nhà đất này. Năm 2008, các
nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng và cụ Ngự.
Thế nhưng, chị Phượng không đồng ý và cho rằng là đã hết thời hiệu để yêu
cầu chia thừa kế, vả lại chị và các con đã sống ổn định hơn 50 năm tại nhà
đất này.
- Quyết định của Tòa án:
+ Công nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, buộc chị Phượng và bà Đào giao
lại nhà đất;
+ Chia di sản của cụ Hưng và cụ Ngự theo pháp luật. Xác định ông Trải được
hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng, phần tài sản này là tài sản chung
của vợ chồng ông Trải, bà Tư;
+ Xem xét việc chị Phượng là cháu nội của hai cụ và công sức sửa chữa, quản
lý của chị trong quá trình chị sinh sống tại nhà đất này.
- Lý do cho Quyết định:
+ Căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của
cụ Hưng vẫn còn là có cơ sở;

53
+ Di sản của cụ Ngự đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế và chị
Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ
Ngự.
1. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
- Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần
thừa kế của cụ Hưng là thuyết phục, vì:
+ Cụ Hưng chết năm 1978, thời điểm này cụ Ngự vẫn chưa mất và các con của
hai cụ vẫn còn đủ 06 người;
+ Căn cứ quy định tại Điều 16 và Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 và điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 676 BLDS 2005, thì ông Trải thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng.
➔ Ông Trải chỉ được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng.
2. Trong Án lệ số 05, Tòa xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ
Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục không?
Vì sao?
- Trong Án lệ, việc Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ
Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư là không thuyết phục, vì:
+ Căn cứ khoản 1 Điều 676 BLDS 2005, thì bà Tư không thuộc hàng thừa kế
theo pháp luật, nên không thể là đồng sở hữu tài sản;
+ Ngoài ra, theo quy định tại Điều 219 BLDS 2005, thì ông Trải cũng không
đề cập đến việc gộp tài sản mà ông nhận được từ cụ Hưng vào tài sản chung
của ông và vợ ông là bà Tư.
➔ Việc xác định tài sản chung là không có cơ sở
3. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công
sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?
- Trong Án lệ số 05, hướng giải quyết của Tòa án là không hợp lý, vì:
 Căn cứ Điều 190 và Điều 191 BLDS 2005 thì chị Phượng đã sống ở nhà đất
này hơn 50 năm mà không hề có tranh chấp hay có yêu cầu chia thừa kế di
sản từ các con của cụ Hưng và cụ Ngự. Trong quá trình sinh sống chị đã
quản lý cũng như sửa chữa và cũng đã trở thành chủ hộ khẩu của nhà đất
này.
+ Theo Điều 645 BLDS 2005: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu
chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế

54
của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Theo đó, cụ Hưng
chết năm 1978 và cụ Ngự chết năm 1992, thời điểm các nguyên đơn khởi
kiện là năm 2008, đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế di sản của hai cụ.
g Chị Phượng có thể nhận được phần tài sản nhiều hơn là chỉ được
hưởng mỗi phần công sức quản lý di sản.

55
1.

You might also like