You are on page 1of 39

TRƯỜNG ĐH LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP QTKD46.2

BUỔI THẢO LUẬN DÂN SỰ THỨ TƯ

HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

NGOÀI HỢP ĐỒNG

Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giảng viên: Lê Thanh Hà
Nhóm: 46.CONTRACT

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 03 năm 2023


Danh sách thành viên

1 Lê Cẩm Nhung ( Leader ) 2153401010089

2 Lê Thành Trọng 2153401010129

3 Lê Thị Linh Nhung 2153401010090

4 Lê Thị Thanh Tâm 2153401010101

5 Ngô Kim Xuân 2153401010150

6 Trương Mỹ Uyên 2153401010138

7 Trần Phương Thảo 2153401010108

8 Phạm Lê Vy 2153401010146

9 Nguyễn Minh Thuận 2153401010118

1
Phan Thị Yến Vy 2153401010147
0
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1 - ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ ĐẢM BẢO VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM..................................................................................................................1
Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh....................................................................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang....................................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp cao
tại Tp. Hồ Chí Minh............................................................................................................1
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ..................................................................................2
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?..........................................................................................4
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?......................................................4
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp
nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?............................................................5
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc
dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ................................................................5
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố?.......................................................................................................................................6
1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ
sở văn bản khi trả lời?.........................................................................................................6
1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?.................................................7
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02.. .7
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì
sao?.....................................................................................................................................8
1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã
chấm dứt?............................................................................................................................9
1.12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?...........................9
1.13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục
không? Vì sao?..................................................................................................................10
1.14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp
(Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?..........................................................................11
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM..............................................................14
Tóm tắt Bản án số: 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 về “V/v: Tranh chấp hợp đồng
tín dụng” của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. Dương.........................................................14
Tóm tắt Quyết định số: 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 về “V/v: Tranh chấp hợp
đồng tín dụng” của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh. Giang......................14
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm........15
2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải
đăng ký không? Vì sao?....................................................................................................16
2.3. Hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...............................................................................17
2.4. Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009 có vô
hiệu không? Vì sao?..........................................................................................................17
2.5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?...............18
2.6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ ba
không? Vì sao?..................................................................................................................19
2.7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS 2015), Ngân hàng có
quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại tài sản thế chấp
(xe ô tô) không? Vì sao?...................................................................................................19
2.8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có thuyết
phục không? Vì sao?.........................................................................................................20
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC........................................................................................................22
Tóm tắt Quyết định Giám đốc thẩm số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về “V/v tranh chấp đòi lại tiền cọc từ
việc hủy hợp đồng mua bán cổ phần”...............................................................................22
Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL về "không phải chịu phạt cọc vì lý do khách quan" được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và
được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao....................................................................................................23
Tóm tắt Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh về Trang chấp hợp đồng đặt cọc..............................................................................24
3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp;................................24
3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc...............................................26
3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?......................27
3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan, bên
nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao?...................28
3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận
cọc như thế nào?...............................................................................................................28
3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn thuộc
sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?............................................................................28
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan đến
quyền sở hữu tài sản đặt cọc.............................................................................................29
3.8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?..................................29
3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có
thuyết phục không? Vì sao?..............................................................................................30
3.10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I
phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL không?
Vì sao?..............................................................................................................................30
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH.....................................................................................................31
4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh...................................................................................31
4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh..................................31
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao....................................................................................................32
4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng
là quan hệ bảo lãnh?..........................................................................................................32
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.......................33
4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm cho
nghĩa vụ nào? Vì sao?.......................................................................................................33
Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.........................................................................................................................33
4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được
bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?..............................................34
4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?........................34
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến
vấn đề liên đới nêu trên.....................................................................................................35
4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh....................................................................................................................................35
4.10. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?................35
4.11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?........36
4.12. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết.........................................36
4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................
VẤN ĐỀ 1 - ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ ĐẢM BẢO VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM

Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh.

Nguyên đơn: Ông Phạm Bá Minh, ủy quyền cho Ông Lý Gia Đạt.
Bị đơn: Bà Bùi Thị Khen, Ông Nguyễn Khắc Thảo.
Nội dung: Bà Khen và ông Thảo thế chấp sạp tại chợ Tân Hương để vay với lãi suất
3%/tháng. Đến hạn, bà Khen ông Thảo không trả được nợ. Đến thời điểm cả hai bên xác nhận,
ông Khen bà Thảo đã trả tổng số tiền 29.600.000 đồng. Tuy nhiên, Tòa nhận định, mức lãi suất
3%/tháng vượt quá quy định của pháp luật. Tòa tuyên ông Thảo bà Khen có nghĩa vụ trả lại cho
ông Minh tổng số tiền 38.914.800 đồng (đúng với mức lãi suất theo quy định của pháp luật), ông
Minh phải trả lại bản chính Giấy chứng nhận sạp cho bà Khen.

Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang.

Nguyên đơn: Nguyễn Văn Ôn, Lê Thị Xanh.


Bị đơn: Nguyễn Văn Rành.
Nội dung: Vợ chồng ông Ôn cùng ông Rành thỏa thuận việc thục đất, có lập “Giấy thục
đất làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản với giá 30 chỉ vàng 24k, thỏa thuận 3
năm sẽ chuộc, quá hạn không chuộc sẽ giao phần đất với số vàng đã cầm cố. Cả 2 đều thừa nhận
là cầm cố đất. Bản án sơ thẩm xét việc giao dịch thục đất trên tương tự với giao dịch cầm cố tài
sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để giải quyết. Tòa giám đốc thẩm, xin rút đoạn
“Thứ nhất” về phần thủ tục, còn đoạn “Thứ hai” trong kháng nghị về phần nội dung thì vẫn giữ
và đề nghị hủy bản án sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại
Tp. Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn: Ngân hàng Liên doanh V.


Bị đơn: Công ty PT.
Nội dung: Tranh chấp hợp đồng tín dụng. Ngân hàng và công ty đã ký kết các hợp đồng tín
dụng; để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết các hợp đồng thế chấp.
Các hợp đồng trên đều được ngân hàng tất toán nhưng với hợp đồng thế chấp của ông T, bà H thì
ngân hàng còn yêu cầu xử lý tài sản thế chấp cho khoản vay khác. Được biết khoản vay này phát

1
sinh từ việc ngân hàng và công ty tự ý ký kết phụ lục, hợp đồng bổ sung trên hợp đồng thế chấp
của ông T bà H mà không có sự đồng ý của ông bà.
Quyết định của Tòa án: Hủy bản án phúc thẩm số và giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Ngân
hàng phải trả lại cho ông T, bà H bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất.

1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

BLDS 2005 BLDS 2015

Cơ sở Điều 320. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa Điều 295. Tài sản bảo đảm.
pháp lý vụ dân sự.
Điều 321. Tiền, giấy tờ có giá dùng để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Điều 322. Quyền tài sản dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Nhận xét BLDS 2005 quy định về vật bảo đảm tại Điều 320; ngoài ra tại Điều 321 và
Điều 322 lần lượt quy định về tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Như vậy
có tới 3 điều luật về tài sản bảo đảm 1 nhưng nó cũng chỉ là sự lặp lại về khái
niệm tài sản được quy định tại Điều 163: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản” của Bộ luật này. Trong khi đó, BLDS 2015 chỉ
có 1 điều luật quy định về tài sản đảm bảo là Điều 295. Và thay đổi từ ngữ
“vật” thành từ ngữ “tài sản”, như vậy có thể đối chiếu khái niệm “tài sản” tại
Điều 105 và Điều 115 BLDS 2015. Việc quy định “tài sản” mà không liệt kê
cụ thể giúp mở rộng về khái niệm “tài sản” và cho phép khai thác tối đa khái
niệm này.
Cơ sở Khoản 1 Điều 320: “Vật bảo đảm thực Khoản 1 Điều 295: “Tài sản bảo
pháp lý hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền đảm phải thuộc quyền sở hữu của
sở hữu của bên bảo đảm và được phép bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm
giao dịch”. giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”.

1
Đỗ Văn Đại (2021), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt
Nam, tr.306.

2
Cả hai bộ luật đều ghi nhận nguyên tắc chung về tài sản bảo đảm, đó chính là:
Nhận xét
tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
So với BLDS 2005, BLDS hiện hành đã không còn giữ lại quy định “được
phép giao dịch”. Trên thực tế, các giao dịch bảo đảm đều được hình thành
trên cơ sở giao dịch dân sự, theo pháp luật hiện hành điều kiện để giao dịch
dân sự có hiệu lực khi giao dịch dân sự không có điều cấm của pháp luật quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015.

Cơ sở Không quy định. Khoản 2 Điều 295: “Tài sản bảo


pháp lý đảm có thể được mô tả chung,
nhưng phải xác định được”.

Nhận xét BLDS 2015 bổ sung quy định về việc: “Tài sản bảo đảm có thể được mô tả
chung, nhưng phải xác định được”. Điều này là cần thiết đối với những
trường hợp tài sản luôn có sự biến động, thay đổi về số lượng, chủng loại và
giá trị hàng hóa như: hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất. Quy định
này phù hợp với thực tiễn xác lập và thực hiện giao dịch bảo đảm.
Trong trường hợp, khi các bên giao kết giao dịch bảo đảm mà mô tả tài sản
quá khái quát, không rõ ràng dẫn đến việc không xác định được tài sản bảo
đảm. Khắc phục vấn đề trên, BLDS 2015 quy định thêm rằng: Khi mô tả
chung về tài sản bảo đảm thì phải là tài sản xác định được.

Cơ sở Không quy định. Khoản 4 Điều 295: “Giá trị của tài
pháp lý sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng
hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được
bảo đảm”.

Nhận xét Khoản 4 Điều 295 BLDS hiện hành có quy định về “Giá trị của tài sản bảo
đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm” khác
với BLDS 2005 không có quy định về trường hợp này. Vì trên thực tế sẽ có
những lúc có người yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị nghĩa
vụ được bảo đảm. Điểm mới này khiến cho pháp luật tiến gần với thực tiễn
đời sống dân sự nhiều hơn.

3
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?

Tại phần “NHẬN THẤY”:


Căn cứ theo lời khai của phía nguyên đơn - ông Phạm Bá Minh:
“….Vào ngày 14/9/2007, bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông
một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng,
lãi xuất thỏa thuận là 3% / tháng….”.
Căn cứ theo lời khai của bị đơn - bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo:
“Có thế chấp một giấy tờ sạp D2- 9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng cho ông
Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh…..”.

1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?

Căn cứ theo Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Có thể thấy rằng giấy chứng nhận sạp không phải là vật và tiền.
Căn cứ theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, khoản
1 Điều 3 Thông tư số 04/2016/TT-NHNN và khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy
định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có
giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều
kiện khác”. Ví dụ: cổ phiếu, trái phiếu, tính phiếu, hồi phiếu,… Như vậy, giấy chứng nhận sạp
không phải là giấy tờ có giá, đồng nghĩa với việc không phải là tài sản.
Căn cứ theo quy định tại Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác”. Quy định về quyền tài sản khác ở điều luật này là một quy định không rõ
ràng.
Như vậy có thể thấy rằng, BLDS 2015 không quy định cụ thể giấy chứng nhận sạp có phải
là tài sản hay không. Theo quan điểm của nhóm thì giấy chứng nhận sạp không được coi là tài
sản. Để được coi là tài sản và đem ra giao dịch thì giấy chứng nhận phải có giá trị, tuy nhiên giấy
chứng nhận sạp chỉ là một tờ giấy đăng ký sử dụng sạp và nó chỉ quy định quyền sử dụng sạp
chứ không quy định sạp đó thuộc quyền sở hữu của ông bà.

4
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp nhận
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự không được tòa án
chấp nhận.
Đoạn của bản án cho câu trả lời nằm ở phần XÉT THẤY, cụ thể : “…Xét sạp thịt heo do
bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng
ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để
bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.

1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng
giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.

Theo nhóm, hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng
nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ là hợp lý.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 về tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự:
“Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản,
bảo lưu quyền sở hữu”. Theo Tòa án, sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp, tức nó chỉ là giấy chứng
nhận, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lí để bà Khen thi
hành án trả tiền cho ông Minh. Vậy, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Theo đó, tài sản cầm
cố nếu không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen có quyền sử dụng nó chứ không có
quyền định đoạt nó trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.

1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố?

Trong Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 có các đoạn như sau cho thấy
các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố :
Trong phần NHẬN THẤY của Quyết định số 02 có đoạn: “...Vào ngày 30/08/1995 (âm
lịch), ông Ôn, bà Xanh và ông Rành đã xác lập giao dịch “thục đất làm ruộng” (BL31). Theo
thỏa thuận này thì ông Ôn, bà Xanh là người có tài sản là quyền sử dụng đất (QSDĐ) hợp pháp,
ông Rành có tài sản là 30 chỉ vàng. Thực hiện giao dịch ông Ôn, bà Xanh giao QSDĐ cho ông
Rành canh tác, đổi lại ông Rành đưa cho ông Ôn, bà Xanh 30 chỉ vàng 24k để sử dụng, hai bên
thỏa thuận nếu quá 03 năm ông Ôn, bà Xanh không chuộc lại đất cũng bằng số vàng trên thì
ông Rành có quyền canh tác số ruộng đất này vĩnh viễn...”.

5
Trong phần XÉT THẤY của Quyết định số 02 có đoạn: “Ngày 30/8/1995 vợ chồng ông
Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập
“Giấy thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản”.

1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở
văn bản khi trả lời?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản” và Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác”. Vì quyền sử dụng đất được luật thừa nhận là quyền tài sản, là bất động sản nên quyền
sử dụng đất là tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể có quyền sử dụng đất đó. Bên cạnh đó, Điều
310 BLDS 2015 quy định cho phép cầm cố bất động sản đồng thời tại khoản 1 Điều 167 Luật
Đất đai 2013 quy định người sử dụng đất “được” thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Mặc dù
căn cứ theo Luật Đất đai hiện hành không có quy định nào khẳng định rằng quyền sử dụng đất là
bất động sản nhưng căn cứ theo các quy định tại Luật Kinh doanh Bất động sản thì ta có thể suy
ra được rằng quyền sử dụng đất được hiểu là bất động sản. Do đó mà người sử dụng đất hoàn
toàn có quyền cầm cố quyền sử dụng đất theo quy định của BLDS 2015.

1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố,
thể hiện trong bản án như sau: Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang giữ nguyên kháng nghị của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm: “Với giao dịch trên
cho thấy, mặc dù pháp luật dân sự không quy định cụ thể cho người sử dụng đất có quyền cầm
cố quyềm sử dụng đất nhưng xét về bản chất của giao dịch này thấy rằng giữa các bên đương
sự đã thực hiện một giao dịch cầm cố tài sản tuân thủ đúng quy định của pháp luật…”.

1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02.

Hướng giải quyết của Tòa án cho rằng được phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố là
hợp lý.
Thứ nhất, Về thực tiễn trong các giao dịch dân sự thường gặp, cầm cố đất hay cầm cố
quyền sử dụng đất đã có từ rất lâu với những tên gọi khác nhau như: cầm cố đất, cố đất, thục đất,
cầm cố quyền sử dụng đất. Nghĩa là chưa xét đến tính quy phạm pháp luật thì việc cầm cố đất

6
hay cầm cố quyền sử dụng đất đã có từ rất lâu trong thực tiễn đời sống thông qua các giao dịch
dân sự. Vì vậy ta nhận định rằng tính thực tiễn đời sống Toà án hoàn toàn xử lý thuyết phục.
Thứ hai, Về mặt pháp lý:
- Một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLDS 2015 là các bên tham gia
quan hệ xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận.
- Khoản 1 Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn
quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Tuy Luật Đất 2013 không quy định về quyền
cầm cố quyền sử dụng đất nhưng cũng không có quy định cấm việc cầm cố quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015: “Mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Như vậy, điều kiện để
giao dịch dân sự có hiệu lực là chỉ cần không vi phạm vào điều cấm của pháp luật, không trái với
đạo đức xã hội và là sự tự nguyện từ ý chí giữa các bên tham gia. Việc cầm cố tài sản tại tình
huống trên được xem là một hợp đồng phụ và là một giao dịch dân sự có hiệu lực. Như vậy, hoàn
toàn nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật hiện hành, từ đó mặc dù luật không quy định rõ
ràng, cụ thể nhưng cũng không cấm nên cầm cố quyền sử dụng đất có thể được chấp nhận.
- Khoản 2 Điều 310 BLDS 2015 có quy định: “Trường hợp bất động sản là đối tượng của
cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ
ba kể từ thời điểm đăng ký”. Như vậy, BLDS 2015 đã ghi nhận rõ ràng khả năng cầm cố bất
động sản nếu luật cho phép.
- Tuy quyền sử dụng đất không được quy định cụ thể là bất động sản, đồng thời BLDS
2015 cũng quy định đất đai là một trong những tài sản công thuộc sở hữu toàn dân nhưng trong
Luật Kinh doanh bất động sản đã có nhiều điều khoản quy định cho thấy quyền sử dụng đất là
bất động sản. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Vậy nên, với quy định hiện nay của BLDS 2015, Luật Đất đai 2013 và Luật Kinh doanh
bất động sản hiện hành thì hoàn toàn có thể cầm cố quyền sử dụng đất miễn không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Bởi lẽ, BLDS 2015 cho phép cầm cố bất động sản, Luật
Đất đai 2013 không cấm cầm cố quyền sử dụng đất và Luật Kinh doanh bất động sản cho ta
ngầm hiểu rằng quyền sử dụng đất được xem là bất động sản.

7
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì
sao?

Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ khoản vay
của công ty với ngân hàng.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 317 BLDS 2015 “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây
gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và
không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
Xét trong Quyết định có ghi tại khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp bất động sản số
63/2014/HĐTC: “Phạm vi nghĩa vụ bảo đảm: Bên thế chấp đồng ý dùng toàn bộ tài sản thế
chấp được mô tả tại Điều 2 Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ
phát sinh trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với
Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp theo quy đinh tại Điều 3 Hợp
đồng này, bao gồm nhưng không giới hạn các nghĩa vụ sau: Nợ gốc; nợ lãi; lãi phạt quá hạn;
phí; khoản phạt; khoản bồi thường thiệt hại(nếu có) theo hợp đồng tín dụng, hợp đồng cấp bảo
lãnh”.
Như vậy, việc thế chấp tài sản nêu trên được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của công
ty với ngân hàng.

1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã
chấm dứt?

Đoạn trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt:
Phần “NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA”:
“Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công ty PT đã tất
toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các
ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T,
bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều
327 Bộ luật dân sự năm 2015.”

1.12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?

Cơ sở pháp lý:
Điều 327 BLDS 2015 về chấm dứt thế chấp tài sản.
“Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.
2. Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

8
3. Tài sản thế chấp đã được xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các bên.”
Căn cứ quyết định:
“Căn cứ thỏa thuận tại cơ sở kết lập hợp đồng và khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp
bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 thì ông T, bà H chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm
“thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát sinh trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng
tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay” mà các hợp đồng tín dụng cụ thể đó chịu sự
điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014… hết
hiệu lực từ ngày 25/11/2014.”
Như vậy trong bản án, nguyên đơn là ngân hàng thừa nhận việc công ty đã tất toán các
khoản vay từ các hợp đồng thế chấp, trong đó bao gồm các hợp đồng với các bên thế chấp mà
ngân hàng đã tất toán (hiện không xét đến) và hợp đồng thế chấp của ông T bà H đang có tranh
chấp với ngân hàng. Việc thế chấp tài sản của ông T bà H đã chấm dứt từ ngày 25/11/2014 đúng
theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015 nên việc ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản
thế chấp của ông T bà H để thu hồi nợ là không có sơ sở và trái pháp luật. Dựa trên những căn cứ
đó, tòa xác định hợp đồng trên đã chấm dứt.

1.13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục không?
Vì sao?

Quan điểm của nhóm đối với việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt
là hoàn toàn thuyết phục.
Hợp đồng thế chấp của ông T bà H đã chấm dứt từ ngày 25/11/2014 là đúng theo quy định
tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015 bởi hợp đồng thế chấp trên chỉ đảm bảo cho các hợp đồng tín
dụng cụ thể số 106/2014/HĐTDCT ngày 11/6/2014; số 65/2014/HĐTDCT ngày 15/4/2014 và số
73/2014/HĐTDCT ngày 25/4/2014 mà các hợp đồng này ngân hàng đều đã tất toán. Do đó,
nghĩa vụ bảo lãnh của ông T bà H đối với công ty cũng đã chấm dứt vào ngày những hợp đồng
tín dụng trên được tất toán.
Nếu tòa xác định hợp đồng thế chấp của ông T bà H không chấp dứt thì quyền và lợi ích
hợp pháp của ông T bà H sẽ bị xâm phạm nặng nề bởi ông bà sẽ phải bảo lãnh thêm những hợp
đồng khác vượt quá giá trị tài sản đảm bảo. Cụ thể là trong bản án phúc thẩm thì ông T bà H đã
không được trả lại giấy tờ nhà đất mà ngân hàng còn có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là
quyền sở hữu nhà đất của ông bà.
Thực tiễn xét xử:
Án lệ số 08/2016/AL cũng tương tự Quyết định số 27 là tranh chấp về hợp đồng tín dụng
giữa ngân hàng và công ty. Từ 25/12/2007 đến 27/5/2008, công ty và ngân hàng lần lượt ký kết 4

9
hợp đồng tín dụng vay vốn được đảm bảo bằng tài sản của các bên thế chấp. Tuy nhiên các hợp
đồng thế chấp trên đều được công chứng vào 25/6/2008 nên Tòa án cấp phúc thẩm cũng xác
định: “Hợp đồng thế chấp ngày 25/6/2008... không liên quan đến các biên bản giao nhận hồ
sơ…”. Và các hợp đồng trên cũng không ghi rõ đối tượng được bảo lãnh. Do đó, giải pháp pháp
lý của án lệ là công ty phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng.
Cả Án lệ 08/2016/AL và Quyết định số 27 đều có điểm chung là công ty và ngân hàng thực
hiện ký kết các hợp đồng tín dụng nhưng các hợp đồng đó đều không phải đối tượng được bảo
lãnh bởi bên thế chấp tài sản (hoặc không xác định được, đối với án lệ trên) nên Tòa giải quyết
theo hướng các hợp đồng tín dụng kể trên không liên quan đến bên thế chấp tài sản bảo lãnh là
đúng theo quy định của pháp luật.
Mặc dù theo Tạp chí toàn án thì Án lệ số 08/2016/AL đương nhiên bị bãi bỏ vì nội dung án
lệ đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh và bản thân án lệ cũng có 1 số bất cập tuy nhiên trên
nhiều phương diện thì án lệ trên vẫn có thể dùng để kham khảo bởi phần trở thành án lệ trong án
lệ số 08/2016/AL là về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng trong
bản án mà câu hỏi hiện tại không yêu cầu đề cập tới.

1.14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp
(Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?

Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp (Ngân
hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là không
thuyết phục.
Cơ sở pháp lý:
Điều 322 BLDS 2015 về nghĩa vụ của bên nhận thế chấp.
“1. Trả các giấy tờ cho bên thế chấp sau khi chấm dứt thế chấp đối với trường hợp các
bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp.
2. Thực hiện thủ tục xử lý tài sản thế chấp theo đúng quy định của pháp luật.”
Điều 327 BLDS 2015 về chấm dứt thế chấp tài sản.
“Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.
2. Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
3. Tài sản thế chấp đã được xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các bên.”
Điều 68 Nghị định 161/2006/NĐ-CP về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất trong trường hợp không có thoả thuận về phương thức xử lý:

10
“1. Trong trường hợp không có thoả thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền
sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được bán đấu giá.
2. Trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử
dụng đất thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người mua, người nhận chính tài sản gắn liền với
đất đó được tiếp tục sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp trong hợp đồng về quyền
sử dụng đất giữa bên thế chấp và người sử dụng đất được chuyển giao cho người mua, người
nhận chính tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Theo khoản 1 Điều 322 BLDS 2015 thì khi hợp đồng thế chấp chấm dứt thì bên nhận thế
chấp phải trả lại giấy tờ cho bên thế chấp sau khi bên được đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ được
bảo đảm bằng vật thế chấp. Như vậy, từ ngày 25/11/2014 thì ngân hàng phải trả lại giấy tờ nhà
đất cho ông T bà H nhưng ngân hàng lại không thực hiện tức là ngân hàng đã vi phạm Điều 322
BLDS 2015.
Theo khoản 1 Điều 327 BLDS 2015 thì khi nghĩa vụ được đảm bảo bằng thế chấp chấm
dứt thì việc thế chấm tài sản cũng đồng thời chấm dứt. Như vậy, từ ngày 25/11/2014, thì việc thế
chấp của ông T bà H đã không còn hiệu lực, việc ngân hàng cố tình yêu cầu ông T bà H chịu
trách nhiệm cho khoản vay phát sinh sau đó là trái pháp luật.
Căn cứ theo bản án, ngân hàng và công ty đã ký kết bản hợp đồng phụ (phụ lục) nâng hạn
mức cho vay từ 1,5 tỷ đồng lên 10 tỷ đồng mà không có sự đồng ý của ông T bà H. Đồng thời,
giữa ngân hàng và công ty còn xuất hiện bản hợp đồng có chữ ký giả mạo chữ ký của ông T bà H
nhằm nâng hạn mức cho vay. Việc nâng hạn mức cho vay vượt quá giá trị tài sản đảm bảo của
ngân hàng cũng là trái pháp luật. Từ những việc trên hoàn toàn có thế thấy được việc ngân hàng
cố tình thực hiện các hợp đồng, việc làm trái pháp luật nhằm mục đích thu lợi từ phần chênh lệch
rất lớn kể trên.
Như vậy, việc làm của ngân hàng trong quyết định trên là trái pháp luật và xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông T bà H. Tuy nhiên Tòa lại chỉ tuyên ngân
hàng trả lại giấy tờ nhà đất cho ông T bà H là vô cùng bất hợp lý khi người ngay tình bị xâm
phạm quyền lợi một cách nghiêm trọng lại không được bảo vệ. Căn cứ Điều 68 Nghị định
161/2006/NĐ-CP, thì từ bản án phúc thẩm ngày 26/8/2020 đến Giám đốc thẩm ngày 2/6/2021,
ngân hàng đã có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông T bà H để phục vụ cho nghĩa vụ
trả nợ. Nếu trong thời gian đó có quyết định đồng ý xử lý tài sản thế chấp của ông T bà H thì
quyền lợi của ông T bà H sẽ bị xâm phạm vô cùng nghiêm trọng. Đáng ra, ông T bà H đã có thể
nhận lại giấy tờ nhà đất từ ngày 25/11/2014, vậy mà đến 02/6/2021 mới có thể nhận lại.
Việc tòa chỉ yêu cầu ngân hàng trả lại giấy tờ nhà đất cho ông T bà H mà không đưa ra bất
kỳ hình phạt hay yêu cầu bồi thường nào đối với ngân hàng là một thiếu sót nghiêm trọng. Nhóm
không đồng tình với quyết định của Tòa và đưa ra gợi ý ông T bà H có thể kiện ngược lại ngân
hàng để yêu cầu khoản bồi thường tương xứng.

11
Thực tiễn xét xử:
Theo bài đăng trên Cổng thông tin điện tử Viện phát triển bảo hiểm Việt Nam:
Thực tế, không hiếm các vụ việc tranh chấp dân sự, khách hàng tố cán bộ ngân hàng cố
tình định giá tài sản vượt quá giá trị tự có.
Theo Luật sư Nguyễn Văn Thái (Công ty Luật Bross và cộng sự), việc hình sự hóa hành vi
này là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng trong thời điểm
hiện tại cũng như tương lai.
Bởi có cán bộ tín dụng, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn hoặc tổ chức định giá biết rõ tài
sản bảo đảm có giá trị thấp, nhưng đã cố ý bằng các thủ đoạn, hành vi nào đó để nâng giá trị tài
sản đó lên cao hơn thực tế, nhằm mục đích vay được tiền hoặc vay được số tiền lớn hơn từ các tổ
chức tín dụng.
Khi bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán, buộc ngân hàng phải xử lý tài sản bảo đảm theo
quy định của pháp luật thì mới phát hiện tài sản bảo đảm không đúng thực tế, ngân hàng không
thu hồi được khoản nợ đã cho vay.
“Rõ ràng hành vi nâng khống giá trị tài sản bảo đảm với lỗi cố ý trực tiếp và hậu quả
khiến ngân hàng hoặc một tổ chức, cá nhân khác thiệt hại số tiền lớn được pháp luật quy định
thì là hành vi nguy hiểm cho xã hội và cần phải được hình sự hóa thành luật và không trái với
các quy định và nguyên tắc chung của Luật Các tổ chức tín dụng”, ông Thái nói.”2
Như vậy trên thực tế việc ngân hàng cố tình làm sai lệch đi hợp đồng hoặc giá trị tài sản
được nêu trong hợp đồng không phải là hiếm nhưng lại chưa có đủ các chế tài để xét xử. Trong
quyết định số 27 cũng là một trường hợp tương tự nhưng ngân hàng lại không phải chịu bất kỳ
trách nhiệm nào ngoài việc phải trả lại giấy tờ nhà đất cho ông T bà H.

VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Tóm tắt Bản án số: 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 về “V/v: Tranh chấp hợp đồng tín
dụng” của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. Dương

Ngân hàng N (nguyên đơn) ký với Công ty V (bị đơn) hai hợp đồng tín dụng vào năm
2009 và 2010. Để đảm bảo nghĩa vụ trả các khoản vay trên, các bên thỏa thuận về tài sản thế
chấp là hệ thống khoan cọc nhồi và nhà đất mà ông Q, bà V cho Công ty V mượn để thế chấp
vay vốn tại Ngân hàng. Sau đó, Công ty V vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện
buộc Công ty thực hiện nghĩa vụ trả nợ và nếu Công ty không trả thì sẽ xử lý tài sản thế chấp.
Nhưng theo ông Q, bà V nội dung hợp đồng thế chấp tài sản không đúng với ý chí của ông bà
nên yêu cầu Tòa tuyên vô hiệu.
2
Đỗ Mến (2017), Hình sự hóa hành vi khống giá tài sản đảm bảo, nên hay không?, Cổng thông tin điện tử Viện phát triển bảo
hiểm Việt Nam.

12
Tòa sơ thẩm buộc Công ty trả nợ cho Ngân hàng, nhận định hợp đồng thế chấp nhà đất
chưa phát sinh hiệu lực do chưa được đăng ký đúng quy định pháp luật. Tòa phúc thẩm buộc
Công ty trả tổng nợ gốc và lãi của 2 hợp đồng tín dụng, đồng thời bác yêu cầu tuyên hợp đồng
thế chấp vô hiệu của ông Q, bà V.

Tóm tắt Quyết định số: 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 về “V/v: Tranh chấp hợp
đồng tín dụng” của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh. Giang

Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VP bank) và bị đơn là ông
Thọ và bà Loan ký kết hợp đồng vay tiền số HCM/15/1636/HĐTD ngày 19/06/2015. Để đảm
bảo nghĩa vụ trả khoản vay trên, các bên thỏa thuận về tài sản thế chấp là 01 chiếc ô-tô tải. Quá
trình thực hiện hợp đồng thế chấp, bị đơn tự ý chuyển nhượng xe trên cho bà Giao và không
đồng ý tiếp tục trả nợ vì cho rằng bà Giao đã mua lại xe và có văn bản đồng ý trả số tiền còn lại
cho Ngân hàng. Đến tháng 07/2017, bà Giao chuyển nhượng xe cho ông Tân và ông Tân tiếp tục
có nghĩa vụ trả hết số tiền còn lại cho Ngân hàng.
Tòa sơ thẩm xác định giao dịch chuyển nhượng xe ô-tô tải là trái pháp luật, buộc ông Tân
trả lại xe cho VP bank để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Thọ - bà Loan nhưng không
đề cập đến phần tiền mà ông Tân đã trả cho ông Thọ - bà Loan. Tòa giám đốc thẩm cũng cho
rằng giao dịch chuyển nhượng trái pháp luật và cần xem xét, giải quyết số tiền mà ông Tân và bà
Giao đã phải trả cho VP bank thay cho ông Thọ - bà Loan.

2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.

So với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 có những quy định mới về đăng ký
biện pháp bảo đảm như sau:
● Về phương thức đăng ký biện pháp bảo đảm:
Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Dân sự 2005 nêu rõ: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch
dân sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo
đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”. Trong khi đó, khoản 1 Điều
298 Bộ luật Dân sự 2015 khẳng định; “Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận
hoặc theo quy định của luật”.
Như vậy, cả hai Bộ luật đều ghi nhận 2 phương thức đăng ký là đăng ký bắt buộc
và đăng ký tự nguyện. Tuy nhiên, về đăng ký bắt buộc, Bộ luật Dân sự 2005 quy định
việc đăng ký phải tuân theo pháp luật, còn Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ việc đăng ký chỉ

13
cần tuân thủ quy định của luật. Điểm mới này phù hợp với quy định của Hiến pháp và
các quy định khác có liên quan. Bởi lẽ, chỉ khi luật có quy định đăng ký là điều kiện có
hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì các bên mới phải tuân thủ quy định đó và văn bản
dưới luật không thể áp đặt những trường hợp phải đăng ký biện pháp bảo đảm3.
● Về hệ quả pháp lý của đăng ký biện pháp bảo đảm:
Khoản 3 Điều 323 Bộ luật Dân sự 2005 khẳng định: “Trường hợp giao dịch bảo
đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp
lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký”. Khoản 2 Điều 298 Bộ luật Dân sự 2015
quy định: “Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.
Bên cạnh sự khác nhau về từ ngữ (“giá trị pháp lý đối với người thứ ba” và “hiệu
lực đối kháng với người thứ ba”), Điều 297 Bộ luật Dân sự 2015 đã làm rõ “hiệu lực đối
kháng với người thứ ba” gồm quyền truy đòi tài sản và quyền được ưu tiên thanh toán
trước4. Việc bổ sung này đã khắc phục được sự không rõ ràng của cụm từ “giá trị pháp lý
đối với người thứ ba” trong Bộ luật Dân sự 2005.
● Về đối tượng của hoạt động đăng ký:
Bộ luật Dân sự 2005 quy định đối tượng của hoạt động đăng ký là “giao dịch bảo
đảm”, trong khi đối tượng của hoạt động này trong Bộ luật Dân sự 2015 là “biện pháp
bảo đảm”.
Cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự 2005 không thực sự phù hợp với lý thuyết
chung về đăng ký cũng như thực tiễn vận hành hệ thống đăng ký của nước ta. Bởi lẽ, nhìn
một cách tổng thể, đăng ký biện pháp bảo đảm chính là sự công bố công khai quyền được
bảo đảm bằng tài sản của một hoặc nhiều chủ thể đối với tài sản bảo đảm. Do đó, chỉ có
thể đăng ký biện pháp bảo đảm chứ không thể đăng ký toàn bộ nội dung của giao dịch
bảo đảm, bao gồm cả các nội dung khác ngoài biện pháp bảo đảm. Có thể thấy, Bộ luật
Dân sự 2015 đã khắc phục được thiếu sót về đối tượng đăng ký trong Bộ luật Dân sự
2005.

3
Đỗ Văn Đại (2020), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 354.
4
Khoản 2 Điều 297 Bộ luật Dân sự 2015: “Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì
bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của
Bộ luật này và luật khác có liên quan”.

14
2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng
ký không? Vì sao?

Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 thuộc trường hợp phải đăng ký.
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP (Nghị định chỉ làm rõ luật, không phải luật) có quy
định về các trường hợp phải đăng ký biện pháp bảo đảm, trong đó gồm thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất như nhà ở5. Trong vụ việc trên, đối tượng của hợp đồng thế chấp số
1013.2009/HĐTC là nhà đất. Đối chiếu với quy định này, hợp đồng thế chấp số
1013.2009/HĐTC phải được đăng ký biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 lưu ý phải viện dẫn “luật” (nếu là nhà ở thì Luật nhà ở ko yêu
cầu phải đăng ký, nếu là quyền sử dụng đất thì Luật đất đai yêu cầu phải đăng ký)
2.3. Hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định. Đoạn của bản
án cho câu trả lời là:
“Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên
thứ ba ngày 07/9/2009. Sau khi các bên ký kết hợp đồng thì công chứng viên thực hiện
việc công chứng theo trình tự: lập lời chứng của công chứng viên ghi nhận rõ các bên
tham gia ký kết hợp đồng thế chấp gồm: Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay ghi
nhận rõ việc bên thế chấp và bên vay ký tên và Hợp đồng trước mặt công chứng viên tại
địa chỉ số 60 V, phường T, quận H, Hà Nội. Sau đó công chứng viên đóng dấu và trả hồ
sơ cho phía Ngân hàng. Công chứng viên, ông Khúc Mạnh C khẳng định khi ký kết hợp
đồng, ông Q và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu và Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Bên Ngân hàng đã có Giấy đề
nghị Công chứng và Biên bản định giá tài sản, hợp đồng thế chấp đều ghi ngày
07/9/2009 được ký và đóng dấu bởi người có thẩm quyền của Ngân hàng. Ngoài ra Biên
bản định giá có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp là vợ chồng ông Q và bà V; bên khách
hàng vay là Công ty V do ông Nguyễn Tử D làm đại diện ký tên và đóng dấu Văn phòng
công chức đã thực hiện đúng pháp luật công chứng, nội dung văn bản công chứng không
5
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP về các trường hợp phải đăng ký biện pháp bảo đảm:
“1. Các biện pháp bảo đảm sau đây phải đăng ký:
a) Thế chấp quyền sử dụng đất;
b) Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
c) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay;
d) Thế chấp tàu biển”.

15
trái với quy định của pháp luật, không vi phạm Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 nên không
thể tự vô hiệu”.

2.4. Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009 có vô hiệu
không? Vì sao?

Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 không bị vô
hiệu. Bởi vì, tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thông tư số
05/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người yêu cầu đăng ký
có quy định “người yêu cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc các bên ký hợp đồng thế
chấp, bảo lãnh” chỉ đến ngày 01/3/2010 thì mới có Thông tư số 06/2010/TTLT-BTP-BTNMT và
tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định là khi đăng ký thế chấp mới (lần đầu) thì các bên
phải ký còn đăng ký thay đổi, bổ sung thì chỉ cần một bên.
Như vậy, tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc bên nhận thế
chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì bên nhận
thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng ký vẫn đúng quy định và phát
sinh hiệu lực. Mà khi đăng ký hợp lệ thì chỉ phát sinh quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp chứ
không phải sẽ vô hiệu hợp đồng thế chấp do chưa đăng ký giao dịch đảm bảo như phía gia đình
ông Q bà V đề nghị (Điều 323 Bộ luật Dân sự 2005).

2.5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?

Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên là thuyết phục.
Việc Tòa án ghi nhận giá trị pháp lý của giao dịch bảo đảm nếu không được đăng ký mà
không tuyên bố vô hiệu là có cơ sở6.
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự 2015 ghi nhận hiệu lực của giao dịch nếu giao dịch “không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” theo Điều 3 và hợp đồng thế chấp giữa các
bên trong trường hợp này không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Ngoài ra,

6
Thực tế, vẫn có Tòa án theo hướng giao dịch bảo đảm vô hiệu nếu chưa được đăng ký. Theo Bản án số
40/2014/DS-ST ngày 29-7-2014 của Tòa án nhân dân quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh, “[...] nhưng các bên đã
không thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều
323; 342; 343 Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, nên giao dịch dân sự về thế chấp quyền sử dụng đất giữa các bên vô hiệu [...]”.
Xem thêm Đỗ Văn Đại (2020), Luật Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và Bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Bản án số 39-41, tr. 302.

16
theo Điều 308 Bộ luật này có thể thấy nhà lập pháp đã ghi nhận giá trị pháp lý của biện pháp bảo
đảm không được đăng ký (người nhận bảo đảm không được đăng ký vẫn được thanh toán).
Thứ hai, về bản chất của yêu cầu đăng ký, mục đích chính của đăng ký là để công khai
thông tin về biện pháp bảo đảm đối với người ngoài về việc tài sản được sử dụng để bảo đảm nên
biện pháp bảo đảm được đăng ký có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, còn nếu không được
đăng ký thì vẫn có hiệu lực giữa các bên (các bên trong giao dịch bảo đảm đương nhiên biết về
giao dịch nên không cần việc đăng ký để ràng buộc các bên)7.

2.6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ ba
không? Vì sao?

Hợp đồng thế chấp trong Quyết định 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
Theo nội dung Quyết định, tài sản thế chấp cho hợp đồng vay của ông Thọ, bà Loan là xe
ô-tô tải, giấy chứng nhận đăng ký xe ô-tô tải do Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Tây Ninh cấp
ngày 18/06/2018 cho ông Thọ. Việc đăng ký bảo đảm đối với tài sản thế chấp đã làm phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định tại khoản 2 Điều 319 Bộ luật Dân sự 2015.
Vì vậy, hợp đồng thế chấp xe ô-tô tải của ông Thọ và bà Loan có hiệu lực đối kháng với
người thứ ba.

2.7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS 2015), Ngân hàng có quyền
yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô)
không? Vì sao?

Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo Bộ luật Dân sự 2015), Ngân hàng
không có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại tài sản thế chấp
(xe ô tô).
Căn cứ Điều 166 Bộ luật Dân sự 2015 thì chủ thể có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật là chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền khác đối với tài sản. Trong
trường hợp này, Ngân hàng không phải là chủ sở hữu đồng thời không phải chủ thể có quyền
khác đối với tài sản quy định tại Điều 159 Bộ luật này, do đó không có quyền đòi tài sản thế chấp
từ ông Tân.

7
Xem thêm Đỗ Văn Đại (2020), Luật Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và Bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Bản án số 39-41, tr. 299-301.

17
2.8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có thuyết
phục không? Vì sao?

Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng là thuyết phục.
Vì những lý do sau:
Thứ nhất, Ngân hàng đã đăng ký biện pháp bảo đảm nên có hiệu lực đối kháng
với người thứ ba theo khoản 2 Điều 319 Bộ luật Dân sự 2015. Vì vậy, Ngân hàng có
quyền truy đòi tài sản bảo đảm, căn cứ theo khoản 2 Điều 297 Bộ luật Dân sự 2015 thì
Ngân hàng với tư cách là “bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và
được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật Dân sự 2015 khi biện
pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba”. Biện pháp bảo đảm là để
bảo đảm nghĩa vụ trả nợ phải được thực hiện nên khi nghĩa vụ thực hiện không đúng
hoặc không thực hiện thì luật đã trao cho bên nhận bảo đảm quyền truy đòi tài sản nhằm
bảo vệ quyền của bên nhận bảo đảm.
Thứ hai, Ngân hàng có căn cứ để xử lý tài sản bảo đảm và có quyền yêu cầu
người thứ ba giao tài sản thế chấp căn cứ theo Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015 về các
trường hợp xử lý tài sản bảo đảm thì “Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” và căn cứ theo khoản
5 Điều 323 Bộ luật Dân sự 2015 về quyền của bên nhận thế chấp có quy định “ yêu cầu
bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý
khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Trong trường
hợp này, trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Thọ và bà Loan nhiều lần vi phạm
nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng có căn cứ để có quyền yêu cầu người thứ ba giao tài sản
thế chấp nhằm xử lý tài sản bảo đảm.
Thứ ba, tài sản thế chấp không được chuyển nhượng cho người thứ ba nếu chưa
có sự đồng ý của Ngân hàng và nếu có giao dịch dân sự chuyển nhượng thì giao dịch dân
sự này là trái luật và bị vô hiệu. Theo khoản 8 Điều 320 Bộ luật Dân sự 2015 quy định
bên thế chấp “không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp”, trừ trường
hợp tài sản thế chấp là “hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh” và
phải được “bên nhận thế chấp đồng ý” nếu “tài sản thế chấp không là hàng hóa luân
chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh” (khoản 4 và khoản 5 Điều 321 Bộ luật Dân
sự 2015). Theo nhóm, xe ô-tô tải trong trường hợp này không phải hàng hóa luân chuyển
trong quá trình sản xuất, kinh doanh theo khoản 4 Điều 321 Bộ luật Dân sự 2015 về
quyền của bên thế chấp nên không được bán, thay thế, trao đổi tài sản thế chấp (không

18
được định đoạt) và phải được sự đồng ý của Ngân hàng thì mới được chuyển nhượng tài
sản thế chấp.
Thứ tư, trong trường hợp Tòa án nhận định xe ô-tô tải này là tài sản luân chuyển
trong quá trình, sản xuất kinh doanh nên bên thế chấp có quyền chuyển nhượng thì việc
chuyển nhượng vẫn phải đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Nhưng
vì việc chuyển nhượng có ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ, cụ thể ở đây là vi
phạm nghĩa vụ trả nợ, do có vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ gây ảnh hưởng xấu
đến lợi ích của Ngân hàng nên Ngân hàng có quyền buộc bên thế chấp thực hiện nghĩa vụ
và đòi tài sản từ bên thứ ba.

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC

Nghiên cứu:
- Điều 328 BLDS 2015 (Điều 358 BLDS2005) và các quy định liên quan khác (nếu có);

19
- Án lệ số 25/2018/AL; Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- Bản án /DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.số 26/2019
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 3;
- Hoàng Thế Cường, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 19;
- Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 149 và tiếp
theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia TP. HCM 2007, tr. 393 và 394;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?
v=l1vhhdg39g&list=PLy3fk_j5LJA6gWD1_IlUl73yNZtlflQ_u

Tóm tắt Quyết định Giám đốc thẩm số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về “V/v tranh chấp đòi lại tiền cọc từ việc
hủy hợp đồng mua bán cổ phần”

Nguyên đơn: Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân (Người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn: ông Phan Hùng)
Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận (Người đại diện hợp pháp
của bị đơn: ông Đinh Ẩn)
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
+ Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Người đại diện hợp pháp là
ông Nguyễn Tấn Viện)
+ Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước (SCIC)
+ Ông Nguyễn Liêm - Nguyên Giám đốc Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận
+ Ông Lê Văn Lợi - Nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận
Nội dung: Ngày 20/02/2008, Công ty Ninh Thuận và Công ty Hoàng Quân ký với nhau Biên
bản thỏa thuận về việc Công ty Ninh Thuận sẽ bán cho Công ty Hoàng Quân cổ phần thuộc sở
hữu của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) tại Công ty Ninh Thuận
39.192 cổ phiếu, mệnh giá 100.000 đồng/cổ phiếu. Ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân đã
chuyển tiền đặt cọc là 1.000.000.000 đồng cho Công ty Ninh Thuận qua Ngân Hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, Ngân hàng lại căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản
thỏa thuận cho phép Ngân hàng được cấn trừ số công nợ quá hạn và lãi suất từ 1 tỷ đồng được
chuyển vào là trái pháp luật vì số tiền đó vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận.
Khi Công ty Hoàng Quân gửi số tiền đặt cọc để mua Cổ phần thì khi việc mua bán cổ phần thành
công, số tiền đó sẽ phải chuyển cho SCIC. Hơn nữa, SCIC không ủy quyền bất ký hình thức nào
cho ông Nguyễn Liêm thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần nên hợp đồng thỏa thuận bán cổ
phần là trái pháp luật.
- Việc Ngân hàng chỉ đạo xử lý nợ của Công ty Ninh Thuận, bán toàn bộ nợ vay của Công ty này
cho bên mua nợ là Công ty Sơn Long Thuận là trái pháp luật vì không có văn bản nào bàn giao
khoản nợ tiền đặt cọc từ Công ty Hoàng Quân, chủ sở hữu số tiền 1 tỷ đó là Công ty Hoàng

20
Quân. Nên Tòa án quyết định căn cứ theo Tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm buộc Ngân hàng có trách
nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn 1.000.000.000 đồng.

Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL về "không phải chịu phạt cọc vì lý do khách quan" được Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được
công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: ông Phan Thanh L.


Bị đơn: bà Trương Hồng Ngọc H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lại Quang T
Nội dung: Ông Phan Thanh L đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc H để
mua nhà do bà H đứng tên. Hết thời hạn hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu đối với căn nhà nêu trên là 30 ngày theo như được nêu trong Hợp đồng đặt cọc, bà H
không thực hiện đúng cam kết nên ông L khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền cọc 2.000.000.000
đồng và phạt cọc 2.000.000.000 đồng. Bà H không đồng ý phạt cọc, chỉ đồng ý trả tiề cọc cùng
với lãi suất theo mức lãi suất của ngân hàng, vì cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc bà không
thực hiện được đúng cam kết là do cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên cho bà. Toà án cần
xác minh là do lỗi chủ quan của bà H không liên hệ với cơ quan thi hành án dân sự để làm thủ
tục sang tên, hay do lỗi khách quan của cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên cho bà H.
Nội dung án lệ:
- “…Tại Điều 5 của hợp đồng đặt cọc có nêu, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, bà
H phải hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên,
sau đó sẽ ký hợp đồng mua bán có công chứng; nếu vi phạm thời hạn nêu trên, bà H chịu phạt số
tiền tương đương với tiền cọc là 2.000.000.000 đồng. Hết thời hạn trên, bà H không thực hiện
đúng cam kết, nên ông L khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền cọc 2.000.000.000 đồng và phạt cọc
2.000.000.000 đồng.
- …tại thời điểm ông L đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc H, bà H đã nhận
nhà nhưng chưa làm thủ tục sang tên do cơ quan thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
đang quản lý toàn bộ giấy tờ có liên quan đến căn nhà…
- …Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở
hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới việc bà H không thể thực hiện đúng cam kết với ông L thuộc về
khách quan, và bà H không phải chịu phạt tiền cọc…”

Tóm tắt Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
về Trang chấp hợp đồng đặt cọc

Nguyên đơn: Ông Vũ Đình P


Bị đơn: Ông Trần Xuân I
Nội dung: Ngày 26/8/2016, ông Vũ Đình P và ông Trần Xuân I thống nhất thỏa thuận ký hợp
đồng đặt cọc, với nội dung: Ông P đặt cọc trước cho ông I 450.000.000 đồng để mua và ông I
đồng ý bán loại xe ô tô Hyundai Santafe 07 chỗ nhập khẩu từ Mỹ, sản xuất năm 2016 và thời
gian giao xe trước Tết Dương lịch năm 2017, nhưng không ghi giá xe. Do có mối quan hệ làm ăn
quen biết từ năm 2008, ông P biết ông I có người thân định cư ở Mỹ có thể mua được xe ô tô sản
xuất tại Mỹ nhập khẩu về Việt Nam, nên ông P đã nhờ ông Ích mua hộ, ông I đồng ý và nói giá
xe khoảng hơn 800.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật việc kinh doanh mua
bán xe ô tô nhập khẩu là loại hàng hóa

21
kinh doanh có điều kiện, thương nhân phải đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép kinh doanh. Ông P và ông I ký hợp đồng đặt cọc với tư cách là cá nhân với nhau, bản thân
ông I không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu xe ô tô và ngay
cả doanh nghiệp do ông I làm chủ là Công ty Cổ phần P L cũng không đăng ký kinh doanh nhập
khẩu xe ôtô. Việc ký hợp đồng đặt cọc giữa ông P và ông I đã vi phạm các quy định của pháp
luật về mua bán nhập khẩu xe ô tô, vi phạm Điều 117, Điều 122, Điều 123 Bộ luật Dân sự năm
2015, nên hợp đồng này vô hiệu và không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên. Cả ông P và ông I khi ký hợp đồng đặt cọc đã không xem xét các quy định của
pháp luật về điều kiện mua bán xe ôtô nhập khẩu, nên cả hai bên đều có lỗi làm cho giao dịch vô
hiệu, nên thiệt hại các bên phải tự chịu và yêu cầu phạt đặt cọc của ông P không có căn cứ.
Và cho biết:

3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp;

Đặt cọc Cầm cố Thế chấp


Cơ sở Điều 328 BLDS 2015 Điều 309 đến Điều 316 Điều 317 đến Điều 327
pháp lý BLDS 2015 BLDS 2015
Khái niệm Đặt cọc là việc một bên Cầm cố là việc một bên Thế chấp là việc một bên
(sau đây gọi là bên đặt (sau đây gọi là bên cầm (sau đây gọi là bên thế
cọc) giao cho bên kia cố) giao tài sản thuộc chấp) dùng tài sản thuộc
(sau đây gọi là bên quyền sở hữu của mình sở hữu của mình để bảo
nhận đặt cọc) một cho bên kia (sau đây gọi là đảm thực hiện nghĩa vụ và
khoản tiền hoặc kim bên nhận cầm cố) không giao tài sản cho bên
để bảo đảm thực hiện kia (sau đây gọi là bên
khí quý, đá quý hoặc
nghĩa vụ. nhận thế chấp).
vật có giá trị khác (sau
đây gọi chung là tài sản
đặt cọc) trong một thời
hạn để bảo đảm giao
kết hoặc thực hiện
hợp đồng.

Chủ thể Bên đặt cọc và bên Bên cầm cố và bên nhận Bên thế chấp và bên nhận
nhận đặt cọc cầm cố thế chấp. Có thể thêm bên
thứ ba giữ tài sản thế
chấp.
Đối tượng Tiền, vật có giá trị hoặc Tài sản thuộc quyền sở 1.Động sản;
các vật thông hữu của bên cầm cố bao 2. Bất động sản;
thường khác mà bên gồm: Động sản; các giấy 3.TS được hình thành
đặt cọc giao cho bên tờ có giá (trái phiếu, cổ trong TL;
nhận đặt cọc. Giá trị phiếu,…). 4.TS đang cho thuê cũng
tài sản đặt cọc có thể Đặc biệt, trường hợp này như hoa lợi, lợi tức thu
thấp hơn giá trị hợp không bao gồm bất được từ việc cho thuê TS
đồng cần bảo đảm. động sản. (nếu PL có quy định và

22
các bên thỏa thuận)
5.TS thế chấp được bảo
hiểm thì khoản tiền bảo
hiểm cũng có thể được
thế chấp.

Bản chất Là biện pháp bảo đảm Là biện pháp bảo đảm Là biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ dân thực hiện nghĩa vụ dân
dân sự thuộc vật quyền, sự thuộc vật quyền, trong sự thuộc vật quyền, trong
nhằm bảo đảm đó không có sự chuyển đó bắt buộc có sự chuyển
cho giao kết hoặc thực giao tài sản cho giao tài sản (chuyển giao
hiện hợp đồng. Đặc bên nhận thế chấp mà dưới dạng vật chất).
biệt, đặt cọc có thể chỉ giao các giấy tờ chứng
được thực hiện trước minh tình trạng
khi hai bên xác lập hợp pháp lý của tài sản thế
đồng có nghĩa vụ được chấp (chuyển giao dưới
bảo đảm. dạng giấy tờ).

Các Không có quy định về 1. Nghĩa vụ được bảo 1. Nghĩa vụ được bảo
trường trường hợp chấm dứt đảm bằng cầm cố chấm đảm bằng thế chấp chấm
hợp chấm đặt cọc. Tuy nhiên việc dứt. dứt.
dứt đặt cọc sẽ dẫn đến 2. Việc cầm cố tài sản 2. Việc thế chấp tài sản
một số vấn đề sau: được hủy bỏ hoặc được được hủy bỏ hoặc được
1. Nếu hợp đồng được thay thế bằng biện pháp thay thế bằng biện pháp
thực hiện, giao kết thì bảo đảm khác. bảo đảm khác.
tài sản đặt cọc được 3. Tài sản cầm cố đã được 3. Tài sản thế chấp đã
trả lại hoặc được trừ xử lý. được xử lý.
khi thực hiện nghĩa vụ 4. Theo thỏa thuận của 4. Theo thỏa thuận của các
trả tiền. các bên bên.
2. Nếu bên đặt cọc từ
chối giao kết, thực hiện
hợp đồng thì tài
sản đặt cọc thuộc về
bên nhận đặt cọc.
3. Nếu bên nhận đặt
cọc từ chối giao kết,
thực hiện hợp đồng thì
phải trả lại tài sản đặt
cọc và khoản tiền
tương đương với tài
sản đặt cọc (trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.

23
3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.

BLDS 2005 (Điều 358) BLDS 2015 (Điều 328)


1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên 1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là
kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là
quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một
dân sự. thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. hợp đồng.
2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự 2. Trường hợp hợp đồng được giao kết,
được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại
cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực
được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ
nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì
thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;
cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao
nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho
hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản
đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc,
tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
trường hợp có thoả thuận khác. Đặt cọc để đảm bảo giao kết, thực hiện
Đặt cọc để đảm bảo giao kết hoặc thực hợp đồng và cũng không nêu ra là việc
hiện hợp đồng dân sự đặt cọc phải thành lập văn bản.
Việc đặt cọc phải được thành lập văn bản.

- Căn bản là khi xét về nội dung thì chế định đặt cọc trong hai BLDS 2005 và BLDS 2015 không
có sự thay đổi nhiều, có chăng thay đổi là vấn đề việc lập thành văn bản giữa bên đặt cọc và bên
nhận cọc thì ở BLDS 2015 không bắt buộc việc đặt cọc phải được lập thành văn bản như BLDS
2005 nữa bởi lẽ khi xét đến thực tiễn đã có Tòa án theo hướng đây là điều kiện có hiệu lực của
đặt cọc nên đã vô hiệu thỏa thuận đặt cọc không được lập thành văn bản nhưng chứng minh được
bằng sự thỏa thuận giữa các bên và bằng việc chuyển khoản thực tiễn như trên xảy ra bất cập
trước yêu cầu văn bản của BLDS 2005. Trước bất cập như vậy với xu hướng là không đặt nặng
hình thức của vấn đề giao dịch đã có sự thay đổi đáng chú ý như vừa nêu trên (dựa theo bình
luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015)
- Mặt khác BLDS 2015 còn rút gọn đi thuật ngữ hợp đồng dân sự trong BLDS 2005 thay thế vào
đó là thuật ngữ hợp đồng. Điều này chứng tỏ ràng các nhà lập pháp mong muốn mở rộng phạm
vi điều chỉnh của chế định đặt cọc đó là không chỉ bó hẹp chỉ trong các loại hợp đồng dân sự mà
còn mở rộng ra nhiều loại hợp đồng khác không phải hợp đồng dân sự. Vì thuật ngữ hợp đồng
bao hàm rất nhiều loại hợp đồng như thương mại, hợp dồng lao động, v.v… Điều này cũng phù
hợp hơn với thực tiễn vì trong nhiều trường hợp hợp đồng đặt cọc giữ các bên không phải là hợp
đồng dân sự thì sẽ bị vô hiệu làm mất quyền lợi cũng như lợi ích của các bên tham gia ký kết hợp
đồng.

24
3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?

+ Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc
thuộc về bên nhận đặt cọc.
+ Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt
cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt
cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan, bên
nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao?

- Theo quan điểm của nhóm, nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do
khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản sản đặt cọc cho bên đặt cọc.
- Theo quy định tại Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao:
“Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và c mục 1 này, nếu cả hai bên cùng có lỗi
hoặc trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì không phạt
cọc.”
- “Không phạt cọc” đối với bên đặt cọc tức là sẽ được nhận lại tài sản đặt cọc, còn đối với bên
nhận bảo đảm có ý nghĩa là phải hoàn trả lại tài sản đặt cọc nhưng không mất một khoản tiền
tương đương giá trị tài sản đặt cọc.
- Cơ sở pháp lý: Điểm d mục 1 Chương I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP.
* Đối với Quyết định số 49

3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận
cọc như thế nào?

+ Theo Quyết định, bên đặt cọc là Công ty Hoàng Quân đã chuyển tài sản đặt cọc vào tài khoản
của Công ty Ninh Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam + Chi nhánh
tỉnh Bình Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008.

3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn thuộc sở
hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?

- Theo Tòa Giám đốc thẩm trong Quyết định 49 được bình luận thì tài sản đặt cọc vẫn còn thuộc
sở hữu của bên đặt cọc là Công ty Hoàng Quân vì số tiền đặt cọc 1 tỷ đồng là tiền của Công ty
Hoàng Quân đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận và quá trình mua bán nợ
giữa Công ty Ninh Thuận và Công ty Sơn Long Thuận không có văn bản nào bàn giao số tiền đặt
cọc 1 tỷ đồng đó mua bán cổ phần từ Công ty Hoàng Quân.
- Theo Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 328 BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi
là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí
quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng” và khi Công ty Hoàng Quân chuyển khoản thì có ghi
rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ phần. Như vậy, theo quy định trên của pháp luật thì số tiền
này vẫn thuộc sở hữu của Công ty Hoàng Quân và có thể được chuyển cho SCIC khi việc mua
bán cổ phần thành công.

25
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan đến
quyền sở hữu tài sản đặt cọc.

+ Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc là hoàn
toàn hợp lý
+ Công ty Hoàng Quân đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận mở tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận (gọi tắt là Ngân
hàng) theo ủy nhiệm chi ngày 22-02-2008. Tuy nhiên, khi số tiền này được chuyển vào tài khoản
của Công ty Ninh Thuận thì Ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản thỏa
thuận cho phép Ngân hàng được quyền trích tài khoản của Công ty Ninh Thuận để cấn trừ vào số
công nợ quá hạn và lãi suất của Công ty Ninh Thuận là trái với quy định của pháp luật. Bởi lẽ, số
tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận, theo quy
định tại khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 “Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản
tiền... trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Công ty Hoàng Quân
khi chuyển tiền vào tài khoản Công ty Ninh Thuận đã ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ
phần. Vì vậy, Ngân hàng đã chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản của Công ty
Hoàng Quân.
+ Theo PGS.TS Đỗ Văn Đại, BLDS chỉ quy định là “giao” tài sản đặt cọc, chứ không quy định
“chuyển quyền sở hữu tài sản đặt cọc”. Ở đây, tài sản đặt cọc được giao là “ để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng” (khoản 1 Điều 328 BLDS năm 2015) và khi đặt cọc hoàn thành sứ
mệnh, “ tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc” (khoản 2 Điều 328 BLDS năm 2015).
Hướng này bảo vệ tốt hơn người đặt cọc và tránh được trường hợp người thứ ba can thiệp vào tài
sản đặt cọc vốn chỉ “để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng” (khoản 1 Điều 328 BLDS
năm 2015).
+ Như vậy, hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở
hữu tài sản đặt cọc là hợp lý và thuyết phục vì đã phản ánh đúng với bản chất
của đặt cọc và bảo vệ tốt người đặt cọc.
* Đối với Bản án số 26

3.8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?

Đoạn cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL thuộc phần Nhận định của Toà án, cụ
thể như sau: "Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA
ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “Trường hợp bên nhận đặt
cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt cọc không phải
chịu phạt cọc”.”

3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có thuyết
phục không? Vì sao?

- Đối với hoàn cảnh trong vụ việc này, việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL là thuyết phục.
Bởi lẽ, căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06
tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “Trường hợp bên nhận đặt cọc không

26
thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt
cọc”.
- BLDS 2015 không có quy định chi tiết về yếu tố khách quan hay một sự kiện xảy ra do yếu tố
khách quan. Tuy nhiên, có thể suy luận một cách hợp lý rằng, một sự kiện xảy ra một cách khách
quan khi sự kiện đó xảy ra không theo ý chí của các bên. Hay nói cách khác, sự kiện đó không
do các bên tạo ra hoặc phát sinh do lỗi chủ quan của các bên. Có thể thấy, để xác định yếu tố
khách quan thì điều quan trọng là xác định bên vi phạm có lỗi chủ quan hay chủ ý để xảy ra sự
kiện bất khả kháng hay không.
- Trong trường hợp này, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ Mỹ
về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà biếu), nên ông mới đồng ý mua hộ ông
P; nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước ở từng thời điểm và hoàn
toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu. Ngoài ra, ông I không có xe ô tô để
bán và cũng không có đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho ông P; ông P biết rõ điều này và
không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng ông I có khả năng bán xe ô tô cho ông P, nhưng
cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ông I
không thực hiện được thỏa thuận là do trở ngại từ yếu tố khách quan. Như vậy,
việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL là hợp lý và bảo đảm quyền lợi cho
ông I.

3.10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I
phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL không? Vì
sao?

- Việc Tòa án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I phải trả số
tiền phạt cọc là 450.000.000đ phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL. Vì theo thực tế, ông I cũng đã
từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ Mỹ về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà
tặng, quà biếu), nên ông mới đồng ý mua hộ ông P; nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách
quản lý của Nhà nước ở từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý
nhập khẩu. Vì ông I không có xe ô tô để bán và cũng không có dduur điều kiện nhập khẩu xe để
bán cho ông P; ông P biết rõ điều này và không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng ông I
có khả năng bán xe ô tô cho ông P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ông I không
thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.

VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH

4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh.

* Chủ thể: bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh.
Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: Bên nhận bảo lãnh chưa được yêu
cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bão lãnh khi nghĩa vụ đến hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc (khi có thỏa thuận) không có khả năng thực

27
hiện nghĩa vụ của mình. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên nhận bảo
lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.
Mối quan lệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh: Bên bảo lãnh được hưởng thù lao
(nếu có thỏa thuận) và có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình trong
phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện.
* Điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ bên bảo lãnh:
Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ hay bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ nếu có thỏa
thuận.
* Phạm vi bảo lãnh: Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa
vụ cho bên được bảo lãnh.
* Hình thức: Việc bảo lãnh có thể được lập thành văn bản hoặc thiết lập bằng lời nói, hành
vi cụ thể. Nếu pháp luật có quy định, việc bảo lãnh plải được thể hiện bằng văn bản có công
chứng, chứng thực.

4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.

Nếu như ở BLDS 2005 hình thức của bảo lãnh được quy định rõ ràng tại Điều 362 BLDS
2005, thì ở BLDS 2015 đã không còn quy định này. Thay vào đó, BLDS 2015 đã mở rộng thêm
về phạm vi bảo lãnh (khoản 3, 4 BLDS 2015). Điều này cho thấy BLDS 2015 không còn quá
khắt khe với các quy định về hình thức của bảo lãnh, việc không quy định về hình thức bảo lãnh
sẽ giúp các bên linh hoạt hơn, chủ động hơn trong việc thiết lập quan hệ bảo lãnh. Các bên có thể
tự do lựa chọn hình thức là văn bản, bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp pháp luật
bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo
quy định đó.
Ngoài ra, BLDS 2015 cũng mở rộng thêm về việc miễn trừ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tại
khoản 3 Điều 341 BLDS 2015, theo đó thì điều luật này giúp bảo đảm quyền lợi cho bên nhận
bảo lãnh. BLDS 2015 cũng đã quy các quy định khác về trách nhiệm của bảo lãnh thành trách
nhiệm dân sự của bên bảo lãnh được quy định tại Điều 342 BLDS 2015.
 Đối với Quyết định số 02

Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Qũy tín dụng nhân dân Trung ương – chi nhánh Đông Nai.

28
Bị đơn: Bà Đỗ Thị Tỉnh.
Nội dung: Tranh chấp hợp đồng tín dụng, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ký hợp đồng
cho doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay một số tiền. Tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả khoản
vay là quyền sử dụng đất của ông Miễn và bà Cà. Sau khi trả được một khoản tiền nhưng vẫn
còn nợ là số tiền gốc và lãi nên Quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Đỗ Thị Tỉnh là
chủ tịch doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân thanh toán khoản nợ.

4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là
quan hệ bảo lãnh?

Đoạn cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ
bảo lãnh:
“Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc tẩm tuyên: “Số tiền trên được đảm bảo
thanh toán bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Trần Văn Miễn đứng tên diện tích
là 20408m2, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba…” là không đúng.
Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số 01534
ngày 22/09/2006 giữa các bên có hiệu lực thì phải tuyên theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 5
và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng thế chấp; Điều 361 Bộ luật dân sự là khi Chủ doanh nghiệp tư
nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay, nếu ông
Miễn, bà Cà không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.”

4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.

Căn cứ pháp lý: khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định về bảo lãnh: “Bảo lãnh là việc
người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận
bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ”.
Vậy nên, việc xác định trên của hội đồng thẩm phán là hợp lý và đúng quy định của pháp
luật vì ông Miễn bà Cà đã lấy tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay của chủ doanh nghiệp
tư nhân Đại Lộc Tân bằng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số 01534 ngày
22/9/2006 giữa Quỹ tín dụng (bên nhận thế chấp) với ông Miễn bà Cà (bên thế chấp) và bà Tỉnh
- chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân (bên vay vốn). Hợp đồng thế chấp đã được chứng thực
và đăng ký giao dịch bảo đảm. Nên khi doanh nghiệp tư nhân không trả hoặc trả không đủ thì
ông Miễn, bà Cà trả thay và nếu ông Miễn và bà Cà không trả hoặc trả không đủ thì mới xử lý
thế chấp để thu hồi nợ.

29
4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm cho
nghĩa vụ nào? Vì sao?

Theo Tòa án, quyền sử sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm nghĩa
vụ trả nợ cho bà Tỉnh - Chủ doanh nghiệp Đại Lộc Tân. Ngày 26/9/2006, quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương - chi nhánh Đồng Nai ký hợp đồng tín dụng số TC066/02/HĐTD cho doanh nghiệp
tư nhân vay 900.000.000 đồng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng 20,408 m2 đất
tại xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai do vợ chồng Trần Văn Miễn và bà Nguyễn
Thị Cà đem đi thế chấp cho quỹ tín dụng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh nghiệp tư
nhân Đại Lộc Tân. Nên ông Miễn và bà Cà phải có trách nhiệm trả nợ thay nếu bà Tỉnh chủ
doanh nghiệp Đại Lộc Tân không trả hoặc trả không đủ số nợ.
Đối với Quyết định số 968

Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hồng Nhung.


Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thắng.
Nội dung: Bà Nhung cho bà Mát vay 500.000.000 đồng với lãi suất 1,2%/tháng. Các bên
thỏa thuận trả lãi hàng tháng còn tiền gốc sẽ trả vào tháng 10/2006, có lập giấy biên nhận dưới sự
bảo lãnh của ông Ân (Nhơn) và bà Thắng. Sau khi vay tiền, bà Mát trả được 8 tháng tiền lãi và
sau đó không trả tiền cả gốc lẫn lãi nên bà Nhung khởi kiện yêu cầu bà Mát trả tiền. Tòa sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu của bà Nhung, buộc bà Mát và bà Thắng cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách
nhiệm trả cho bà Nhung số tiền cả gốc lẫn lãi. 
Tòa phúc thẩm hủy bản án Tòa sơ thẩm; Tòa giám đốc thẩm quyết định hủy bản án dân sự
phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm để xét xử sở thẩm lại theo quy định của pháp luật.

4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được
bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?

Việc Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được bảo lãnh liên đới
thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền được thể hiện qua đoạn sau trong phần Xét thấy: “Tại
bản án dân sự sơ thẩm số 89/2008/DS-ST ngày 30/7/2008, TAND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng
Nai quyết định: Chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị Hồng Nhung. Bà Nguyễn Thị Mát và Bà
Nguyễn Thị Thắng cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung
700.100.000 đồng”.

30
4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?

Hướng liên đới trên không được Toà giám đốc thẩm chấp nhận. Đoạn của quyết định cho
thấy điều đó:
“Toà án các cấp chưa thu thập, xác định rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của bà
Mát, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm (Toà án nhân dân huyện Trảng Bom) đã buộc bà Thắng cùng
liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự cùng bà Mát là chưa chính xác. Toà án cấp phúc thẩm huỷ
bản án sơ thẩm hướng dẫn đương sự lựa chọn có thể khởi kiện bà Mát hoặc bà Thắng là không
đúng quy định của pháp luật”.

4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến
vấn đề liên đới nêu trên.

Căn cứ theo khoản 2 Điều 335 BLDS 2015 về Bảo lãnh:


“Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh.”
Theo quy định trên, các bên không có thỏa thuận khác về việc bảo lãnh của bà Thắng nên
bà Thắng chỉ có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Mát khi bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ.
  Việc Toà án địa phương chưa thu thập, xác minh rõ ràng về khả năng nghĩa vụ dân sự của
bà Mát như thế nào nhưng lại buộc bà Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ cho bà Mát là
chưa đảm bảo được quyền lợi của bà Thắng. Do vậy, việc Toà giám đốc thẩm huỷ bản án sơ
thẩm và phúc thẩm để yêu cầu làm rõ lại những yếu tố xác minh về khả năng trả nợ của bà Mát
là hợp lý và đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của bên bảo lãnh (bà Thắng)
và bên nhận bảo lãnh (bà Nhung).

4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh.

Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là khi người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng) nếu khi đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Đó là khi nghĩa vụ bảo lãnh được phát sinh.
Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là thời điểm mà bên được bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn thực hiện hoặc theo thỏa thuận trường hợp tại

31
khoản 2 Điều 335 BLDS 2015 “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”

4.10. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?

Theo Điều 335 BLDS 2015:


“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi
là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
  2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh.”
 Theo quy định của khoản 2 Điều này thì người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
của mình; khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh; hoặc các bên có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

4.11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?

 Theo Quyết định, người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bà Mát (bên được
bảo lãnh) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần,
thì phần không thực hiện được bà Thắng và ông Ân (bên bảo lãnh) mới phải có trách nhiệm thực
hiện thay.
 Đoạn của quyết định cho thấy:
“Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nêu trên có cơ sở xác định bà Mát là người vay tiền của
bà Nhung còn bà Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người bảo lãnh cho bà Mát nên trước hết cần
xác định bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bà Nhung; nếu bà
Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì
phần không thực hiện được bà Thắng và ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay theo
quy định tại Điều 361, 363, và Điều 365 Bộ luật dân sự”.

32
4.12. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết.

Ở Quyết định số 968/2011 DS-GDT ngày 27-12-2011 về Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh,
Tòa án theo hướng cần phải xác định người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu
người đó không có khả năng thanh toán hoặc chỉ được một phần mới tính đến trách nhiệm của
người bảo lãnh. 
Trên thực tế đã có quyết định theo hướng giải quyết trên. Cụ thể, trong Quyết định số
01/2010/DS-GĐT ngày 06/01/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Chị Nguyễn Thị Bích Thảo đã vay của ông Lê Văn Sang 60 triệu đồng và đã giao Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà đối với nhà số 50/3 đường Xuân An, phường 3, thành phố Đà Lạt
do ông Nguyễn Văn Lộc và bà Trần Thị Phục (bố, mẹ chị Thảo) đứng tên cho ông Sang để làm
tin. Các bên lập hợp đồng thế chấp căn nhà trên (trị giá 100 triệu đồng) để đảm bảo nghĩa vụ trả
nợ cho chị Thảo, hợp đồng có công chứng hợp pháp vào ngày 09/11/1996, các có mặt và không
phản đối. Sau đó, chị Thảo không thực hiện không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông Sang. Bên
cho vay đã khởi kiện yêu cầu buộc bà Phục, ông Lộc (với tư cách bị đơn) thanh toán khoản nợ.
Tuy nhiên, trong vụ án này, chị Thảo là người vay tiền của ông Sang, còn ông Lộc, bà Phục là
những người dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay của chị Thảo. Do vậy, ông Sang
phải khởi kiện yêu cầu chị Thảo trả nợ, nếu chị Thảo không trả được nợ gốc và lãi thì ông Lộc,
bà Phục có trách nhiệm trả thay; nếu ông Lộc, bà Phục không trả được thì bà Tý có quyền yêu
cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản bảo lãnh để thu hồi nợ.

4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Theo Điều 335 BLDS 2015 quy định về bảo lãnh thì việc lập giấy biên nhận có sự bảo lãnh
của ông Ân và bà Thắng nghĩa là ông bà sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ, như là một căn
cứ cho rằng hai ông bà sẽ có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nhung thay cho bà Mát trong trường
hợp bà Mát không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán của mình. Ở đây Tòa án các cấp chưa xác
định rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ của bà Mát mà Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc bà Thắng cùng
liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự cùng bà Mát là chưa chính xác.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO

You might also like