You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT QUỐC TẾ
LỚP TMQT45A2

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

NHÓM 02
BỘ MÔN

Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giảng viên: ThS. Lê Hà Huy Phát
Giảng viên phụ trách thảo luận: ThS. Hoàng Vũ Cường
Thành viên nhóm:
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Bùi Nhật Hạ (Nhóm trưởng) 2053801090040
2 Tống Trần Kim Ngọc Hân 2053801090044
3 Vũ Trịnh Nhật Hoàng 2053801090049
4 Nguyễn Hồ Quốc Hưng 2053801090050
5 Trần Hoàng Lân 2053801090058
6 Hoàng Văn Mẫn 2053801090064
7 Nguyễn Huỳnh Hà Ngân 2053801090071
8 Mai Thị Bích Ngọc 2053801090078

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 12 năm 2021


LUẬT HỢP ĐỒNG BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG 1


VẤN ĐỀ 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU 5
VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN 11
VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ KHĂN 14
VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA 16
VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA 19
VẤN ĐỀ 1 THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

VẤN ĐỀ 1: THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

TÓM TẮT BẢN ÁN:


Bản án số 18A/2016/DSST
(Ngày 15/6/2016 của TAND TP. Tuy Hoà tỉnh Phú Yên)
Nguyên đơn vợ chồng ông Linh, bị đơn vợ chồng ông Thành. Về vụ án “Tranh chấp đặt cọc”
như trên với nội dung sau: vợ chồng ông Linh là bên mua do có nhu cầu mua đất thổ cư để xây
nhà nên đã tìm hỏi mua và thấy được thông tin rao bán đất của vợ chồng ông Thành, sau khi
thỏa thuận hai bên tiến đến giao kết hợp đồng và bên mua là ông Linh đã đặt cọc 50.000.000
đồng tuy nhiên trong quá trình thỏa thuận bên ông Thành đã không cung cấp rõ thông tin về lô
đất nên sau khi đặt cọc và qua sự tìm hiểu của mình nên vợ chồng ông Thành biết rằng bên bán
là ông Thành đã cung cấp thông tin sai sự thật nên yêu cầu bên vợ chồng ông Thành trả lại tiền
cọc. Sau quá trình thụ lý và điều tra Tòa xét thấy bên ông Thành đã không cung cấp rõ ràng
thông tin về lô đất cho bên mua dẫn đến bên mua đặt cọc và xét về phần lỗi thì đây là do lỗi của
hai bên do đó yêu cầu bên bán có nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền cọc cho bên mua là vợ chồng ông
Linh và không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

CÂU 1: Theo Tòa án bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất chuyển
nhượng không?
⮚ Theo Tòa thì bên bán (vợ chồng ông Thành) có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua
(vợ chồng ông Linh) theo đó tại hai đoạn trong phần xét thấy của bản án có nêu: “Tuy nhiên diện
tích đất mà vợ chồng ông Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo nghị định 64 của
Chính phủ và đã có thông báo thu hồi đất nhưng khi giao kết hợp đồng đạt cọc vợ chồng ông
Thành không cung cấp rõ không tin về lô đất” và đoạn “vợ chồng ông Thành là người cho rằng
là chủ quyền sử dụng đất nói trên buộc phải biết và đương nhiên phải biết toàn bộ diện tích đất
mua bán với vợ chồng ông Linh là đất nông nghiệp cấp theo Nghị định 64 và được thông báo
nằm trong quy hoạch giải tỏa, mặt khác đất này không đứng tên vợ chồng ông Thành nhưng đã
cung cấp thông tin sai dẫn đến sự nhầm lẫn nên vợ chồng ông Linh đã xác lập giao dịch”.
⮚ Yếu tố lỗi trong phần trên đã cho thấy Tòa cho rằng bên bán vợ chồng ông Thành có
nghĩa vụ phải cung cấp thông tin cho bên mua và thông tin đó phải cần thiết và khách
quan.

1
VẤN ĐỀ 1 THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

CÂU 2: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung cấp
thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
⮚ Đối với hoàn cảnh tương tư trong vụ án, BLDS 2015 buộc bên bán phải cung cấp thông tin
về lô đất chuyển nhượng. Vì hợp đồng trong vụ án trên là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất một loại hợp đồng thông được quy định tại Mục 7 Chương XVI BLDS 2015 từ Điều
500 đến 503, tại khoản 1 Điều 501 có nêu rõ rằng: “1. Quy định chung về hợp đồng và nội dung
của hợp đồng thông dụng có liên quan trong Bộ luật này cũng được áp dụng với hợp đồng về
quyền sử dụng đất, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Do đó có căn cứ để ta áp dụng
các quy định liên quan của BLDS để điều chỉnh về vấn đề này trừ trường hợp có quy định khác.
❖ Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy định rằng: “1. Trường hợp một bên
có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải
thông báo cho bên kia biết.” Ở đây thông tin trong giao kết hợp đồng trong BLDS
2015 được coi là một nghĩa vụ trong trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến
chấp nhận giao kết của bên kia, trong vụ án trên chúng ta thấy rằng trong quá trình
giao kết hợp đồng vợ chồng ông Thành đã vi phạm nghĩa vụ của mình bằng việc cung
cấp thông tin nhưng không đúng sự thật về lô đất chuyển nhượng dẫn đến bên mua là
vợ chồng ông Linh chấp nhận giao kết.
❖ Thứ hai, tại Chương XVI các loại hợp đồng thông dụng tại khoản 1 Điều 443 có
nêu: “Bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về tài sản mua
bán và hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó; nếu bên bán không thực hiện nghĩa vụ
này thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện trong một thời hạn hợp lý;
nếu bên bán vẫn không thực hiện làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết
hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”.
Nếu xem xét tương tự trong vụ án nêu trên thì bên bán (vợ chồng ông Thành) phải có
nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về lô đất chuyển nhượng.
→ Từ hai quy định tại Điều 387 và Điều 443 BLDS 2015 ta có thể thấy rằng đối với hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất như trên thì bên bán phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin
cho bên mua.

CÂU 3: Việc Tòa án theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn có thuyết phục
không? Vì sao?
⮚ Việc Tòa án theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn là CHƯA THUYẾT
PHỤC. Vì:
❖ Xét theo quy định của pháp luật hiện hành quy định tại khoản 1 Điều 126 BLDS
2015 về giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn như sau: “1. Trường hợp giao dịch dân sự
2
VẤN ĐỀ 1 THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích
của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”. Căn cứ theo
khoản 1 Điều 126 vừa nêu điều kiện để Tòa tuyên bố một giao dịch có vô hiệu hay
không đó là việc một trong các bên có sự nhầm lẫn và không đạt được mục đích khi
xác lập giao dịch, tuy nhiên trước khi có sự nhầm lẫn của bên mua và mục đích của
giao dịch không đạt được thì trong tình huống chúng ta thấy rằng nguyên nhân dẫn
đến có sự nhầm lẫn đó là gì và tại sao bên mua lại không đạt được mục đích thì Tòa
lại bỏ qua mà không đi sâu vào vấn đề này.
🡺 Do đó theo chúng em nên tìm hiểu về mối quan hệ nhân quả của sự nhầm lẫn trên
với nguyên nhân là bên bán là vợ chồng ông Thành trong quá trình giao kết có thông
tin có thể ảnh hưởng đến việc xác lập giao dịch với bên ông Linh mà nếu bên mua là
bên vợ chồng ông Linh biết thì đã không xác lập giao dịch, căn cứ theo lời khai của
ông Thành và tình tiết vụ án có thể thấy ông Thành đã im lặng trong quá trình giao
kết và để cho bên mua tự tìm hiểu về thông tin của mảnh đất trong khi đó với tư cách
tự cho mình là chủ sở hữu vợ chồng ông Thành biết và đương nhiên phải biết phần
đất dự định chuyển nhượng trên không thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông do
trên đất đứng tên người khác, đồng thời phần đất trên là đất nông nghiệp được cấp
theo nghị định 64 và đã nằm trong phần đất có quyết định thu hồi.
❖ Xét thấy rằng sự cung cấp thông tin không rõ ràng của bên bán là vợ chồng ông Thành
khi có một thông tin quan trọng biết chính xác nhưng không cung cấp cho bên mua
là sự lừa dối để hợp đồng có thể diễn ra, căn cứ theo Điều 127 có quy định về giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối thì lừa dối là “hành vi cố ý của một bên hoặc của
người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.” Trong tình huống
trên chủ thể của giao dịch là mảnh đất nông nghiệp được cấp theo nghị định 64 nằm
trong diện thu hồi, bên bán vợ chồng ông Thành đã có hành vi cố ý bằng cách cung
cấp thông tin không rõ ràng và buộc bên mua phải tự tìm hiểu về mảnh đất đây là sự
cố ý của bên bán nhằm cho bên mua hiểu sai lệch về chủ thể rằng đây là đất thổ cư
hợp pháp theo quy định của pháp luật do đó Tòa cần cho rằng trong tình huống trên
giao dịch dân sự vô hiệu do có sự lừa dối và nếu xét theo hướng này chúng ta thấy có
nhiều căn cứ hơn để quy trách nhiệm cho bên bán là vợ chồng ông Thành đã có lỗi
trong quá trình giao kết hợp đồng.

3
VẤN ĐỀ 1 THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

CÂU 4: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng giao
dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao?
⮚ Hiện nay theo quy định của BLDS 2015 KHÔNG CHO PHÉP XỬ LÝ các vụ án tương
tự như trên theo hướng giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn. Vì trong tình huống trong vụ án trên yếu
tố nhầm lẫn không được thể hiện rõ nét, thay vào đó yếu tố lừa dối lại được thể hiện một cách
rõ thông qua việc bên bán có hành vi cố ý nhằm làm cho bên mua hiểu sai lệch về chủ thể của
giao dịch thông qua sự im lặng và cung cấp thông tin không rõ ràng, sai sự thật về chủ thể giao
dịch là mảnh đất.
→ Do đó, đối với các tình huống tương tự như trên BLDS 2015 theo hướng giao dịch dân sự
vô hiệu do có sự lừa dối và áp dụng quy định tại Điều 127 BLDS 2015 để giải quyết.

4
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

VẤN ĐỀ 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ
HIỆU

TÓM TẮT BẢN ÁN:


Quyết định số 22/2020/DS-GĐT
(Ngày 23/04/2020 của HĐTP TAND tối cao)
Ngày 04/12/2002, Bà Dung có Đơn xin đăng kí quyền sử dụng 252,6m2 đất thổ tại tỉnh Bình
Phước. Ngày 31/12/2003, UBND huyện Lộc Ninh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 252,6m2
đất thổ cho bà Dung, thời điểm này hộ bà Dung (chủ hộ) và các con là anh Khánh, anh Tuấn,
chị Vy. Hợp đồng ủy quyền thể hiện các anh chị cùng ủy quyền cho bà Dung được làm thủ tục
ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nhưng các anh
chị không thừa nhận ký vào hợp đồng ủy quyền. Nay không đủ yếu tố giám định chữ ký nên hợp
đồng ủy quyền không có hiệu lực. Tại thời điểm chuyển nhượng, cả bà Dung và vợ chồng ông
Học bà Mỹ đều nhận thức được tài sản chuyển nhượng là tài sản của hộ gia đình bà Dung, việc
chứng thực hợp đồng ủy quyền không đúng theo quy định nhưng hai bên vẫn kí hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, làm cho hợp đồng vi phạm cả hình thức và nội dung, dẫn đến hợp
đồng vô hiệu. Tuy nhiên, tại Điều 216, khoản 1 Điều 223 BLDS 2005, phần quyền sử dụng, sở
hữu của bà Dung chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có
hiệu lực, còn phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của các anh chị con bà Dung là vô hiệu theo
quy định tại Điều 135 BLDS 2005.

Quyết định số 319/2011/DS-GĐT


(Ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự TAND tối cao)
Ngày 17/7/2006 ông Vinh cùng vợ chồng ông Lộc lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ - với
giá 100 triệu đồng, ông Vinh đã trả được 45 triệu đồng. Tranh chấp xảy ra sau đó khi ông Vinh
không tiếp tục giao tiền tiếp và ông Lộc cũng không giao giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Vinh.
Tòa Giám đốc thẩm xét thấy Hợp đồng chuyển nhượng đất trồng lúa nêu trên không được chính
quyền địa phương cho phép chuyển nhượng và ông Vinh mới trả được 45% giá trị thửa đất nên
hợp đồng bị vô hiệu. Và đồng thời, tòa cho rằng cả hai bên cùng có lỗi nên ông Vinh chỉ được
bồi thường 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường chứ không phải 1/2
giá trị toàn bộ thửa đất như quan điểm Tòa sơ thẩm và phúc thẩm.

5
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

CÂU 1: Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
⮚ Hợp đồng vô hiệu một phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch theo Điều 130 BLDS 2015. Hợp
đồng vô hiệu một phần là khi một phần của hợp đồng không có một trong các điều kiện là [1]
thứ nhất chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch
dân sự được xác lập; [2] thứ hai là chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; [3]
thứ ba là mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức theo quy định trong ĐIều 117 của BLDS 2015 thì phần đó sẽ bị vô hiệu, không ảnh
hưởng đến các phần còn lại trong hợp đồng đó.
⮚ Hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
117 BLDS 2015, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác theo Điều 122 BLDS 2015. Hợp
đồng dân sự vô hiệu toàn phần là hợp đồng sẽ mặc nhiên bị vô hiệu khi hợp đồng được xác lập.

CÂU 2: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản chung
của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình?
⮚ Ở phần nhận định của Tòa: “…Hợp đồng ủy quyền được Uỷ ban nhân dân thị trấn Lộc
Ninh chứng thực ngày 27/7/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà
Dung được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận ký
vào Hợp đồng ủy quyền nêu trên. Bà Dung cho rằng chữ ký của bên ủy quyền không do các anh,
chị Khánh, Tuấn, Vy ký,…”

CÂU 3: Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp
đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
⮚ Ở phần nhận định của Tòa: “…Trường hợp này, do các thành viên trong gia đình không
có thỏa thuận về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nên xác định quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của các thành viên trong hộ gia đình theo
phần và áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần để giải quyết. Theo đó, phần quyền sử
dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng với quy
định của pháp luật thì có hiệu lực. Còn phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của các anh, chị
Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu theo quy định tại Điều 135 Bộ luật dân sự 2005…”

6
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

CÂU 4: Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển
nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
⮚ Theo nhóm em, việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ
vô hiệu một phần là HOÀN TOÀN HỢP LÝ.
⮚ Theo nhận định của Tòa án “…Ngày 31/12/2003, UBND huyện Lộc Ninh cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng 252,6 m2 đất thổ cư là tài sản chung của bà Dung (BL 323). Thời điểm này,
hộ bà Dung có bà Dung (chủ hộ) và các con là anh Khánh, anh Tuấn, chị Vy. Như vậy, có căn
cứ xác định diện tích đất 252,6 m2 đất thổ là tài sản chung của bà Dung và các anh, chị Khánh,
Tuấn, Vy…”.
⮚ Theo quy định về sở hữu chung của các thành viên khoản 2 Điều 212 BLDS 2015 việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên trong gia đình phải được thực
hiện theo phương thức thỏa thuận. Theo quy định tại khoản 2 Điều 146 của Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính Phủ về Luật đất đai “Hợp đồng chuyển nhượng
bằng quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tất cả các thành
viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản
ủy quyền theo quy định về pháp luật của dân sự”. BLDS 2015 có bổ sung quy định được áp
dụng tài sản liên quan của hộ gia đình tại khoản 2 Điều 212 “Trường hợp không có thỏa thuận
thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có
liên quan”. Việc khẳng định sở hữu chung của thành viên gia đình là “sở hữu chung theo phần”
củng cố thêm quan điểm nêu trên của Tòa án nhân dân tối là vô hiệu một phần nếu tài sản có thể
phân chia theo phần.
⮚ Theo Điều 209 BLDS 2015 sở hữu chung theo phần là mỗi chủ sở hữu có quyền và nghĩa
vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp này các thành viên trong gia đình không có thỏa thuận
về sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất nên việc Tòa áp dụng quy định về tài sản
chung theo phần để giải quyết là hợp lý. Theo đó, việc Tòa quyết định phần quyền sử dụng, sở
hữu của bà Dung để chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật là
có hiệu lực. Phần quyền sử dụng, sở hữu của các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu.
⮚ Việc tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu một phần mang tính linh hoạt, nhằm đảm bảo
quyền lợi, lợi ích hợp pháp tối đa của các chủ thể trong giao dịch ở đây là bà Dung và vợ chồng
ông Học. Vì nếu theo nguyên tắc và quy định chung thì giao dịch dân sự vô hiệu có thể bị hủy
hoàn toàn, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận từ nhau theo khoản 2 Điều 131
BLDS 2015. Tuy nhiên trong trường hợp này, phần đất đó là sở hữu chung thì nên áp dụng sở
hữu chung theo phần để giải quyết, phần sở hữu nào của bà Dung thì bà vẫn có quyền chuyển

7
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

nhượng theo ý chí của bà, phần nào không phải của bà Dung thì sẽ bị vô hiệu và xử lý theo pháp
luật.

CÂU 5: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
BLDS 2005 BLDS 2015
“Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch “Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi xác lập.
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi
những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ những gì đã nhận.
trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện
thu được bị tịch thu theo quy định của pháp vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. 3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức
không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân
sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.

- Thứ nhất, các chế định hoa lợi, lợi tức và chủ thể bồi thường thệt hại, BLDS 2015 quy định
hẳn sang một khoản khác, xem như ngang bằng với nghĩa vụ “khôi phục tình trạng ban đầu, trả
lại cho nhau những gì đã nhận”. Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005 lại theo hướng vấn đề hoa lợi
và lợi tức là vấn đề “khôi phục lại tình trạng ban đầu” là chưa hợp lý vì hoa lợi, lợi tức hoàn
toàn có thể phát sinh sau khi giao dịch được xác lập, nếu khôi phục lại tình trạng ban đầu sẽ
thiếu công bằng đối với bên hưởng lợi từ hoa lợi, lợi tức. Thấy rằng, BLDS 2015 tách vấn đề
hoa lợi, lợi tức ra khỏi quy định về khôi phục lại tình trạng ban đầu là phù hợp.
- Thứ hai, hoa lợi, lợi tức theo quy định tại BLDS 2015 nếu là “bên ngay tình” thì “không phải
hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”; trong khi BLDS 2005 lại quy định theo hướng hoa lợi, lợi tức
không phải trả lại trong trường hợp “bị tịch thu theo quy định của pháp luật”, tức là khi pháp
luật có yêu cầu tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được thì người thu được nó phải nộp cho Nhà nước

8
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

thay vì hoàn trả cho bên kia. Còn BLDS 2015 thì ngầm định chỉ cần người đó ngay tình thì
những hoa lợi, lợi tức thu được sẽ vẫn thuộc sở hữu của người đó mà không phải hoàn trả lại
cho người có quyền liên quan. Hướng quy định mới này là tiến bộ, bảo vệ lợi ích của người ngay
tình.
- Thứ ba, BLDS 2015 quy định thêm: “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”. Việc bổ sung
thêm chế định này sẽ làm đầy đủ hơn trách nhiệm pháp lý của các bên gây ra thiệt hại, đồng thời
bảo vệ một cách tối đa nhất lợi ích của những người bị xâm phạm đến các quyền nhân thân.
“Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay
tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó
không bị vô hiệu” (khoản 2 Điều 133 BLDS 2015). Quy định này đã bảo đảm quyền lợi hơn
cho bên ngay tình, đồng thời nâng cao vai trò của việc đăng ký tài sản tại các cơ quan Nhà nước,
qua đó góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc đăng ký tài sản. Tuy nhiên, trên thực
tế, việc đăng ký hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, thời gian đăng ký không đảm bảo để thực hiện
hoặc giao kết hợp đồng, làm cho nhiều người dân vẫn còn khá “xa lạ” với việc đăng ký tài sản
khiến quyền và lợi ích hợp pháp của họ không được bảo đảm.
- Thứ tư, ngoài những thay đổi nêu trên, BLDS 2015 còn bỏ hẳn quy định về tịch thu tài sản,
hoa lợi, lợi tức được quy định tại Điều 137 BLDS 2005. Việc sửa đổi này được tiến hành trong
quá trình chỉnh lý Dự thảo tại Quốc hội với lý do việc tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức là việc của
pháp luật hành chính, hình sự và không là việc của BLDS.

CÂU 6: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định như
thế nào?
⮚ Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định cả 2 bên cùng
có lỗi:
❖ Bị đơn (ông Lộc) : không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
❖ Nguyên đơn (ông Vinh): không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền đợt 2 đúng thỏa
thuận.

CÂU 7: Ông Vinh sẽ chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị
thửa đất theo giá thị trường.
⮚ Trong phần Xét thấy của Quyết định có đoạn: "Trong trường hợp này ông Vinh mới trả
được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị

9
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ
được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường,... "
CÂU 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
⮚ Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự CHƯA THỰC SỰ HỢP LÝ.
⮚ Theo nhóm em, trường hợp này hợp đồng vô hiệu do vi phạm về nội dung hợp đồng, cho
nên dù cho có công chứng, chứng thực đi chăng nữa thì hợp đồng vẫn vô hiệu. Bởi vì đất chuyển
nhượng ở đây là đất ruộng lúa nhưng hợp đồng chuyển nhượng lại ghi là đất màu, và hơn nữa,
việc chuyển nhượng đất ruộng lúa cũng bị hạn chế theo quy định tại Khoản 3 Điều 191 Luật
Đất đai 2013: “Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận
chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa.”
⮚ Ở đây, Tòa án chưa làm rõ, chưa có chứng cứ, xác minh đầy đủ về việc liệu rằng ông Vinh
và gia đình ông có phải là những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp hay không và do vậy có
khả năng mục đích, nội dung của hợp đồng sẽ vi phạm điều cấm của luật. 🡺 Vì vậy, hợp đồng
chuyển nhượng này có thể bị vô hiệu toàn bộ - toàn bộ nội dung trong hợp đồng sẽ bị vô hiệu
- khác với quan điểm mà Tòa án nhận định.
⮚ Khoản 4 Điều 131 BLDS quy định: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Trong
thực tiễn xét xử, việc xác định lỗi đang có một số nhầm lẫn. Lỗi là lỗi đối với thiệt hại nhưng cụ
thể trong giao dịch vô hiệu thì thiệt hại là gì và xác định lỗi như thế nào. Thiệt hại vẫn xác định
theo những quy định chung về xác định thiệt hại nhưng từ Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày
16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán thì thiệt hại từ giao dịch vô hiệu còn bao gồm chênh lệch
giá tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu.
⮚ Việc xác định lỗi cũng được hướng dẫn cụ thể trong Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP. Từ
giá trị pháp lý của giao dịch vô hiệu quy định ở khoản 1 Điều 131 cho thấy mọi thỏa thuận trong
hợp đồng là không có giá trị ràng buộc (trừ các thỏa thuận về biện pháp bảo đảm) nên không
thể xác định lỗi căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng. Lỗi được xác định là lỗi làm cho
hợp đồng vô hiệu chứ không phải là lỗi vi phạm hợp đồng.1

CÂU 9: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?

1
Chu Xuân Minh, “Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu”,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/tuyen-bo-giao-dich-dan-su-vo-hieu-va-giai-quyet-hau-qua-giao-dich-
dan-su-vo-hieu?fbclid=IwAR3q3MhPyMEFMBXxch-A_q31ANwmmA3TZVyL-
kHMKWr6GshjxzwEJY6tRNE, truy cập ngày 19/11/2020.

10
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
VẤN ĐỀ 2
MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

⮚ Khoản tiền cụ thể ông Vinh sẽ được bồi thường là: 1/2 x 45% x 233.550.000 đồng =
52.548.750 đồng vì theo Quyết định của Tòa án thì ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là
1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường mà hiện nay thửa đất 953m 2 có
giá là 333.550.000 đồng và do đó giá chênh lệch ở đây là 233.550.000 đồng.

11
BIỆN PHÁP
VẤN ĐỀ 3
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN

VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN

TÓM TẮT BẢN ÁN:


Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT
(Ngày 26/02/2020 của HĐTP TAND tối cao)
Nguyên Đơn là công ty K.N.V (A) bị đơn là công ty Cửu Long (B) và Ngân hàng Việt Á (C).
Bên A mua lô hàng phân bón của bên B với tổng giá trị hợp đồng là 15.300.000.000 đồng. Nếu
bên B cố tình trì hoãn không giao hoặc giao chậm sẽ phạt 5%. Nghĩa vụ của A được bảo đảm
bằng biện pháp bảo lãnh của bên C. Xét thấy bên B đã không thực hiện đúng hợp đồng - vi phạm
nghĩa vụ giao hàng nên Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đã buộc B trả A 946.200.000 đồng. Và
buộc bên C thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho A số tiền tạm ứng còn thiếu 1.510.000.000 đồng.
Tòa án nhân dân tối cao quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

CÂU 1: Thư bảo lãnh của ngân hàng có thời hạn như thế nào?
⮚ Theo thông tư số 07/2015/TT-NHNN về thời hạn bảo lãnh:
“Điều 19. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh
1. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành cam kết bảo lãnh
hoặc sau ngày phát hành cam kết bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên liên quan cho đến
thời điểm hết hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23 của Thông tư này.
2. Thời hạn hiệu lực của thỏa thuận cấp bảo lãnh do các bên thỏa thuận nhưng tối thiểu phải
bằng thời hạn có hiệu lực của cam kết bảo lãnh.
3. Trường hợp ngày hết hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh trùng vào
ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
4. Việc gia hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh do các bên thỏa thuận phù hợp với thỏa thuận
cấp bảo lãnh.”
→ Trong bản án Ngân hàng phát hành Chứng thư bảo lãnh số 002217 ngày 14/4/2016,
Chứng thư tu chỉnh bảo lãnh số 002218 ngày 04/5/2016 gia hạn thư bảo lãnh đến 17 giờ
00 phút ngày 09/5/2016. Như vậy thời hạn của Thư bảo lãnh là từ ngày 14/4/2016 đến 17
giờ 00 phút ngày 09/5/2016.

CÂU 2: Nghĩa vụ của công ty Cửu Long đối với công ty KNV có phát sinh trong thời gian
bảo Lãnh của Ngân hàng không?
⮚ Nghĩa vụ của công ty Cửu Long đối với công ty KNV có phát sinh trong thời hạn bảo lãnh
của Ngân hàng. Vì theo Điều 335 về Bảo lãnh quy định:
12
BIỆN PHÁP
VẤN ĐỀ 3
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN

“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây
gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh.”
→ Như vậy việc bảo lãnh không làm mất đi nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh, mà chỉ là một
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà thôi.
CÂU 3: Theo tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (cty KNV) khởi kiện ngân hàng
trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm của người
bảo lanh hay không? Đoạn nào của quyết định đã cho câu trả lời?
⮚ Theo tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (cty KNV) khởi kiện ngân hàng trả nợ
thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn có trách nhiệm của người bảo lãnh.
Đoạn [5] của phần Nhận định của Tòa án đã trả lời cho câu hỏi đó: “Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm buộc Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho công ty
TNHH K,N.V số tiền tạm ứng còn thiếu 1.510.000.000 đôgng là có căn cứ. Quyết định giam đốc
thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận ý kiến của Ngân
hàng Việt Á cho rằng công ty K.N.V nộp bản gốc Thư bảo lanh khi hết thời hạn hiệu lực nên
ngân hàng Việt Á từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là không đung với bản chất vụ án.”

CÂU 4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao?
⮚ Theo quan điểm của nhóm em việc tòa giải quyết như trên là HỢP LÝ VÀ THUYẾT
PHỤC.
⮚ Vì bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm theo đó bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ nếu bên
có nghĩa vụ không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Ở đây công ty Cửu Long đã
vi phạm nghĩa vụ giao hàng. Và phía bên công ty KNV đã yêu cầu Ngân hàng hoàn trả tiền ứng
trước theo như Thư bảo lãnh. Có đủ chứng cứ chứng minh được rằng lý do từ chối thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng là không hợp lý vì vậy Tòa án đã yêu cầu ngân hàng thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả cho công ty K.N.V tạm ứng còn thiếu là 1.510.000.000 đồng. Quyết định của
Tòa án đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo lãnh khi bên công ty Cửu Long không thực
hiện nghĩa vụ và trong trường hợp công ty không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
⮚ Bên cạnh đó sau khi nhận được thông báo về việc hoàn trả tiền ứng trước theo thư bảo
lãnh, phía ngân hàng đã có công văn phản hồi gửi công ty KNV nhưng nội dung ngân hàng
không thể hiện sự phản đối đối với việc bảo lãnh; không đề cập đến việc từ chối trách nhiệm bảo
13
BIỆN PHÁP
VẤN ĐỀ 3
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN

lãnh do công ty KNV không gửi thư bảo lãnh bản gốc. Do đó, có thể suy luận rằng phía ngân
hàng đã chấp nhận việc bảo lãnh đối với công ty KNV. Vì thế, việc ngân hàng căn cứ vào lí do
từ chối bảo lãnh: hết thời hạn bảo lãnh mới nhận được thư bảo lãnh bản gốc để từ chối việc bảo
lãnh - điều này không hợp lí, không có cơ sở chấp nhận và trái với quy định tại khoản 3 Điều 3
của BLDS 2015 “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của mình một cách thiện chí, trung thực.”

14
GIẢM MỨC
VẤN ĐỀ 4
BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ KHĂN

VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ KHĂN

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

CÂU 1: Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế.
⮚ Theo khoản 2 Điều 585 BLDS 2015, để giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với
khả năng kinh tế, cần đáp ứng đủ hai điều kiện:
❖ Thứ nhất, người gây thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý. Lỗi là yếu tố quyết định
đầu tiên trong việc xem xét để giảm mức bồi thường. Dưới góc độ lý thuyết thì các
hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý là thể hiện sự “chống đối” xã hội cao hơn các
hành vi vô ý, do đó nguyên tắc này không đặt vấn đề giảm mức bồi thường trong
trường hợp người gây thiệt hại do lỗi cố ý.2
❖ Thứ hai, thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây ra thiệt hại.
✔ Khái niệm thiệt hại quá lớn là một vấn đề phức tạp, cơ quan có trách nhiệm
cũng chưa giải thích cụ thể bởi lẽ cùng thiệt hại với đại lượng không đổi, đối
với cá nhân này là rất lớn nhưng với người khác lại không coi là lớn.3
✔ Ở BLDS 2005 nêu rõ khả năng kinh tế “trước mắt và lâu dài” và ngày nay
cụm từ này không được giữ lại nhưng hướng áp dụng sẽ không khác vì chúng
ta vẫn đang bàn về “khả năng” của người chịu trách nhiệm bồi thường.4

CÂU 2: Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng thực tế của anh Nam để ấn định bồi thường
có thuyết phục không? Vì sao?
⮚ Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng thực tế của anh Nam để ấn định bồi thường là THUYẾT
PHỤC. Bởi vì:
❖ Trong tình huống trên, thiệt hại xuất phát do lỗi vô ý của anh Nam. Vì sự vô ý của
mình, anh Nam đã gây thiệt hại cho bà Chính khi thực hiện công việc được giao.
Trong phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì BLDS không quy định “lỗi vô ý”

2
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Sđd, tr.268.
3
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, tập 1, Nxb.Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam
(xuất bản lần thứ ba), tr.269-270.
4
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, tập 1, Nxb.Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam
(xuất bản lần thứ ba), tr.269.
15
GIẢM MỨC
VẤN ĐỀ 4
BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ KHĂN

là gì. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP: “Vô ý gây thiệt hại là
trường hợp một người không thấy trước hành vì của mình có khả năng gây thiệt hại,
mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
❖ Hơn thế nữa, thiệt hại do anh Nam gây ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
🡺Từ hai điều trên cho thấy, trường hợp của anh Nam thỏa mãn hai điều kiện để áp dụng các
quy định về giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng thực tế.

16
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VẤN ĐỀ 5
DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA

VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY
RA

TÓM TẮT BẢN ÁN:


Quyết định số 30/2010/DS-GĐT
(Ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự TAND tối cao)
Nguyên đơn: anh Nguyễn Hữu Công.
Bị đơn: Chi nhánh điện Cái Bè, Tiền Giang.
Lý do xảy ra vụ án: Cháu Nguyễn Hữu Lợi bị điện giật chết.
Tại Bản án sơ thẩm, anh Công yêu cầu Chi nhánh điện Cái Bè, Tiền Giang phải bồi thường chi
phí mai táng, tổn thất về tinh thần cho gia đình nhưng bị Tòa bác bỏ lời yêu cầu. Anh Công
kháng cáo, Tòa Phúc thẩm cũng bác bỏ yêu cầu trên của anh. Tòa Giám đốc thẩm cho rằng việc
anh Công khởi kiện không đúng đối tượng là có căn cứ nhưng Tòa sơ thẩm và phúc thẩm không
hướng dẫn anh khởi kiện đúng đối tượng, dẫn đến thiệt hại cho gia đình anh. Tòa xác định đây
là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và hủy Bản án sơ thẩm, phúc thẩm giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án Nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử lại.

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

CÂU 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
⮚ Trong quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao thì Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
tại Điều 623 BLDS 2005. Đoạn cho câu trả lời: “Khi giải quyết vụ án, Tòa án các cấp cần xác
định rõ đường dây điện đó do ai quản lý, sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự và
Nghị định số 45/2001/NĐCP ngày 02-08-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực
và sử dụng điện để giải quyết.”

CÂU 2: Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hai do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra?
⮚ Theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 thì “Nguồn nguy
hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, hà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn
nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.” Theo đó, BLDS 2015 đã liệt kê rõ các nguồn
nguy hiểm cao độ mà trong đó có liệt kê rõ nguồn nguy hiểm cao độ có bao gồm hệ thống tải
17
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VẤN ĐỀ 5
DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA

điện. Cụ thể trong Quyết định, Tòa án xác định là có thiệt hại xảy ra cho cháu Hữu, đó là việc
cháu Nguyễn Hữu Lợi bị điện giật chết. Tòa án xác định được cháu Lợi chết là do đường dây hạ
thế chạy ngang qua nhà ông Dũng (nhà bỏ trống) bị hở mạch điện dẫn điện qua mái tole, do va
chạm nên tạo ra hai mối đứt vỏ nhựa, lộ dây nhôm phía trong; cháu Lợi đi ngang qua chạm vào
và bị điện giật chết tại chỗ. Việc chứng minh có hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này là
không dễ dàng bởi hành vi lắp đặt điện không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của
nạn nhân mà do tác động của nhiều yếu tố khách quan từ bên ngoài, có thể là do thời tiết... dẫn
đến hiện tượng điện bị rò rỉ. Nhưng hệ thống điện là 1 trong những nguồn nguy hiểm cao độ đã
được quy định nên chủ sở hữu, người quản lý vẫn phải có trách nhiệm bồi thường theo quy định
của BLDS.
→ Vì các lẽ trên, nhóm em nghĩ việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra là HOÀN TOÀN THUYẾT PHỤC.

CÂU 3: Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại không?
⮚ Tòa dân sự Tòa án tối cao không cho biết ai là chủ sở hữu của đường dây hạ thế gây thiệt
hại. Trong Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa chỉ xét việc khi giải
quyết vụ án, Tòa án các cấp cần xác định rõ đường dây điện đó do ai quản lý, sử dụng và từ đó
căn cứ vào Điều 623 BLDS 2005 và Nghị định số 45/2001/NĐ-CP để giải quyết chứ không hề
nhắc đến ai là chủ sở hữu của đường dây điện hạ thế gây thiệt hại về tính mạng cho cháu Nguyễn
Hữu Lợi.

CÂU 4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại?
⮚ Trong Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010, chủ thể là chủ sở hữu đường dây
điện hạ thế gây thiệt hại là Chi nhánh điện Cái Bè, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang do ông
Nguyễn Văn Bạch làm người đại diện. Vì Chi nhánh điện Cái Bè là đơn vị vận hành, sử dụng
và quản lý điện. 🡺 Chi nhánh điện Cái Bè là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại.

CÂU 5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân?
⮚ Trong Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010, theo Tòa án dân sự thì chủ thế
sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân là anh Trần Văn Ri- tổ
trưởng tổ điện xã Tân Hưng (người đại diện kí hợp đồng là anh Sua nhưng anh Sua chỉ làm
khoảng 1 tháng, sau đó giao lại cho anh Ri chịu trách nhiệm). Vì trong hợp đồng giữa Chi nhánh
điện Cái Bè và tổ điện xã Tân Hưng thì quy định trách nhiệm bên mua điện phải có nghĩa vụ sử
dụng điện an toàn, chịu trách nhiệm quản lý từ đầu dây ra của công tơ vào nhà.
18
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VẤN ĐỀ 5
DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA

CÂU 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn
nhân.
● Điều 601, BLDS 2015
● Phần III, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
⮚ Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ
thiệt hại xảy ra không phải là do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của sự vật mà
hoạt động của chúng thì luôn tìm ẩn khả năng gây thiệt hại. Và căn cứ theo Điều 601 BLDS
2015 thì nguồn nguy hiểm cao độ là “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông
vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định”. Do đó đường dây điện hạ thế gây thiệt hại là nguồn nguy hiểm cao độ. Nguồn nguy hiểm
cao độ này đã gây ra cái chết của cháu Nguyễn Hữu Lợi- con trai của anh Nguyễn Hữu Công.
Trong BLDS 2015 cũng đã quy định về việc “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác
chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” và trong
Nghị Quyết 03/2006 cũng quy định “Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao
chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo đức, xã hội hoặc không nhằm
trốn tránh việc bồi thường”, trong hợp đồng kí kết của Chi nhánh điện Cái Bè với tổ điện xã
Tân Hưng thì có quy định nội dung bên mua điện có nghĩa vụ đảm bảo cung cấp điện ổn định,
an toàn cho bên mua điện và bên mua điện có nghĩa vụ sử dụng điện an toàn, chịu trách nhiệm
quản lý từ đầu dây ra của công tơ vào nhà. Do đó, theo cam kết của hợp đồng bên mua đương
nhiên trở thành chủ thể được chủ sở hữu giao quyền chiếm hữu, sử dụng đường dây điện hạ thế
gây thiệt hại trên phải đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho phía gia đình nạn nhân.
→ Trong hướng giải quyết xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã xác định
và xét thấy chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường là anh Trần Văn Ri - tổ trưởng tổ điện xã
Tân Hưng (người đại diện kí hợp đồng là anh Sua nhưng anh Sua chỉ làm khoảng 1 tháng,
sau đó giao lại cho anh Ri chịu trách nhiệm) phải chịu trách nhiệm là hoàn toàn đúng và
hợp lý.

19
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VẤN ĐỀ 6
DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA

VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY
RA

TÓM TẮT BẢN ÁN:


Bản án số 02/2015/HSST
(Ngày 15/4/2015 của TAND tỉnh Phú Yên)
Ngô Thanh Kiều đã cùng đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và bị bắt giữ nhưng Kiều
không nhận tội. Vào ngày 13/5/2012 tại phòng làm việc của cơ quan điều tra thành phố Tuy Hòa,
Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy, Nguyễn Thân Thảo
Thành là các trinh sát viên được phân công tiến hành điều tra, canh giữ Kiều đã có hành vi còng
tay, dùng dùi cao su đánh nhiều cái vào người và dẫn đến tử vong cho Kiều. Tòa án đã tuyên
phạt tù đối với năm bị cáo và cấm các bị cáo Hoàn và uy đảm nhiệm chức vụ trong 3 năm, áp
dụng điều 610, 620 BLDS 2005 buộc công an thành phố Tuy Hòa phải bồi thường, cấp dưỡng
cho hai con của của của Kiều là Ngô Thị Thanh Thảo và Ngô Thị Kim Oanh.

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

CÂU 1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước và BLDS 2015.
⮚ Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước:
❖ Điều 25, 27
❖ Các khoản chi phí phải bồi thường:
✔ Chi phí mai táng: được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
✔ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người gây thiệt hai đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng: Một tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người đó được cấp
dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trừ trường hợp
có quy định khác hoặc đã được xác định theo bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
✔ Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình người bị thiệt hại về tính
mạng: được xác định là 360 tháng lương cơ sở. Trường hợp người bị thiệt hại
về chết thì không áp dụng bồi thường thiệt hại về tinh thần theo quy định tại
khoản 1, 2, 3 và 5 điều 27.

20
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VẤN ĐỀ 6
DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA

⮚ BLDS 2015:
❖ Điều 591, 593
❖ Các khoản chi phí được bồi thường:
✔ Chi phí mai táng: được xác định theo chi phí hợp lí cho việc mai táng.
✔ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người gây thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng: không nêu rõ số tiền cụ thể.
✔ Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình người bị thiệt hại về tính
mạng: Nếu không thỏa thuận được thì áp dụng mức tối đa cho một người có tính
mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do nhà nước quy
định.

CÂU 2: Hoàn cảnh như trên có được luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước điều chỉnh
không? Vì sao?
⮚ Hoàn cảnh trên được Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước điều chỉnh căn cứ theo
quy định tại các Điều 1,2 và khoản 2 Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm
2017:
❖ Điều 1. Phạm vi điều chỉnh: “Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường;
quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ
tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách
nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường
nhà nước.”
❖ Điều 2. Đối tượng được bồi thường: “Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt
hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước được quy định tại Luật này”.
❖ Điều 3. Giải thích từ ngữ: “2. Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê
chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức
và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm
vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý
hành chính, tố tụng hoặc thi hành án”.

21
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VẤN ĐỀ 6
DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA

→ Xét thấy, trong bản án này người thi hành công vụ là 5 bị cáo trong quá trình tiến hành
nhiệm vụ được giao là bắt giữ Kiều - có liên quan đến hoạt động tố tụng và thi hành án và
việc bắt giữ này là có căn cứ, người bị hại là Kiều có thiệt hại vật chất lẫn tinh thần, dẫn đến
tử vong do người thi hành công vụ gây ra. Do vậy hoàn cảnh vụ án này phù hợp với luật
trách nhiệm bồi thường của nhà nước nên được luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước
điều chỉnh.

CÂU 3: Nếu hoàn cảnh của vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng giải
quyết có khác với hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
⮚ Nếu hoàn cảnh của vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực thì sẽ áp dụng Điều
598 BLDS 2015 – “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ gây ra theo quy định của luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước”.
Quy định này đã viện dẫn đến luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Tuy nhiên thiết nghĩ
văn bản này là một văn bản chuyên ngành đối với thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra vì
có phạm vi điều chỉnh đối với những hoạt động và hành vi được liệt kê có giới hạn. Trước thực
tế phạm vi điều chỉnh theo hướng như vậy, sẽ có trường hợp không thuộc nội dung liệt kê của
các vụ án.
⮚ Trước sự không đầy dủ của pháp luật chuyên ngành, ta nên quay lại các quy định chung về
bồi thường thiệt hại và đó chính là BLDS 2015 cụ thể là Điều 597 BLDS 2015 theo đó “Pháp
nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được
pháp nhân giao: nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong
việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”, quy định này
không giới hạn hoạt động gây ra thiệt hại nên hoàn toàn có thể áp dụng cho hoạt động công vụ
và cũng không khoanh vùng chủ thể gây ra thiệt hại vì BLDS sử dụng thuật ngữ “người” gây ra
thiệt hại nên cũng có thể áp dụng cho chủ thể gây thiệt hại là người thi hành công vụ.

22

You might also like