You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI


NGOÀI HỢP ĐỒNG
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
GIẢNG VIÊN: THẦY ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM 2

STT HỌ TÊN MSSV


1 Lê Trần Thanh Thảo 2153801012212
2 Nguyễn Thị Phương Thảo 2153801012216
3 Nguyễn Thị Phương Thảo 2153801012217
4 Vũ Đoàn Phương Thảo 2153801012221
5 Phạm Minh Thư 2153801012232
6 Nguyễn Bảo Trâm 2153801012245
7 Nguyễn Thị Bảo Trân 2153801012247
8 Nguyễn Thị Ngọc Trân 2153801012248
9 Đặng Hoàng Anh Trí 2153801012249
10 Trần Tường Vi 2153801012262
Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng.
Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Tòa án nhân dân TP.
Tuy Hoà tỉnh Phú Yên.
Chủ thể: Nguyên đơn là vợ chồng ông Hà Văn Linh và bà Lê Thị Mỹ Lộc, bị
đơn là vợ chồng ông Đỗ Kim Thành và bà Trần Thị Ngọc Dinh.
Đây là tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có đặt cọc.
Lý do tranh chấp: Vợ chồng ông Linh, bà Lộc đặt cọc mua lô đất của ông
Thành với số tiền 50.000.000 đồng. Trước đó, ông Thành nói vợ chồng ông Linh,
bà Lộc lô đất này là đất thổ cư, cất nhà ở được. Tuy nhiên, sau khi đặt cọc, ông
Linh, bà Lộc biết được lô đất này không hợp pháp, đã bị Uỷ ban nhân dân thu hồi,
không thể mua bán và cất nhà ở. Do đó, vợ chồng bà đã yêu cầu hủy việc mua bán
và yêu cầu ông Thành trả lại tiền cọc nhưng vợ chồng ông Thành không trả.
Tòa án quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Linh, bà
Lộc và buộc vợ chồng ông Thành, bà Dinh trả cho vợ chồng ông Linh, bà Lộc
50.000.000 đồng về khoản tiền đặt cọc.
Câu 1: Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô
đất chuyển nhượng không?
Trong bản án số 18A, Tòa án không đề cập cụ thể đến việc bên bán có nghĩa
vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất chuyển nhượng. Tuy nhiên, trong phần
xét thấy, Tòa án đã đề cập đến việc các bên có nghĩa vụ tìm hiểu kỹ càng về lô đất
chuyển nhượng:
“Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng ông Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất
vườn theo Nghị định 64 của Chính phủ và đã có thông báo thu hồi đất và vợ chồng
ông Thành là người cho rằng là chủ sở hữu nói trên buộc phải biết và đương nhiên
biết nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành không cung cấp rõ
thông tin về lô đất”.
Câu 2: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải
cung cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
Đối với hoàn cảnh trong vụ án, BLDS 2015 buộc bên bán phải cung cấp
thông tin về lô đất chuyển nhượng và quy định khi một bên trong giao dịch có thông
tin xấu làm ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên còn lại thì
phải thông báo nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường (cụ thể tại
Điều 387 BLDS 2015). Bên cạnh đó, BLDS 2015 còn quy định về việc bên bán

1
phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài sản cho bên mua, nếu bên bán không thực
hiện làm cho bên mua không đạt được mục đích thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp
đồng và yêu cầu bồi thường (Điều 443 BLDS 2015). Mặc dù nguyên tắc nghĩa vụ tự
tìm kiếm thông tin tồn tại nhưng không loại trừ khả năng một bên có ý định giấu
diếm, lừa dối, gây nhầm lẫn trong giao dịch dân sự. Vì vậy, BLDS 2015 đưa ra quy
định tại khoản 3 Điều 3 về áp dụng nguyên tắc thiện chí, trung thực. Ở đây muốn
nói đến trong khi giao kết hợp đồng thì các bên không được có sự gian dối, giấu
diếm, đặc biệt là việc cung cấp thông tin phải đúng sự thật. Mọi sự giấu diếm hay
lừa dối, bóp méo sự thật để cho bên kia tin và đồng ý ký kết hợp đồng nhằm thu lợi
cho mình giữa các bên trong giao dịch dân sự đều được coi là không trung thực khi
giao kết hợp đồng (1). (1. Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam - TS.
Lê Trường Sơn, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr.77)
Câu 3: Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có
thuyết phục không? Vì sao?
Theo nhóm, việc Tòa án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn
không thuyết phục. Vì gây nhầm lẫn ở đây có thể hiểu rằng việc các bên trong giao
dịch hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt
hại cho mình hoặc bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức các bên hoặc phán
đoán sai lầm về đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà
căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. BLDS 2015 đã quy định cụ
thể trường hợp các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích
của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được thì giao dịch dân sự không vô hiệu
(khoản 2 Điều 126 BLDS 2015), tức là phải xem xét xem người bị nhầm lẫn có
“biết hoặc đương nhiên phải biết” về sự nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng hay không,
mà trong bản án trên có đề cập: “Ông Linh đã nhờ bạn bè, anh em tìm hiểu một thời
gian khoảng nửa tháng rồi mới quay lại gặp tôi và đồng ý mua đất”. Trong trường
hợp này, bên bị nhầm lẫn (ông Linh) mặc dù không biết nhưng lại có điều kiện,
hoàn cảnh buộc ông phải biết về khả năng bị nhầm lẫn nhưng lại không có biện
pháp, hành vi khắc phục ngay (vợ chồng ông Linh đã không xác thực rõ ràng, chính
xác thông tin về việc thu hồi đất cũng như quyền sử dụng đất của lô đất trên) để
mục đích giao dịch dân sự vẫn đạt được. Vì vậy, dù không đạt được mục đích của
việc giao kết hợp đồng nhưng bên bị nhầm lẫn (ông Linh) không có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu.

2
Câu 4: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao?
Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 không cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn. Theo quy định tại khoản 1
Điều 387 và Điều 127 BLDS 2015, từ những cơ sở trên có thể thấy trong trường
hợp này vợ chồng ông Thành buộc phải biết và đương nhiên phải biết toàn bộ diện
tích đất mua bán là thuộc đất nông nghiệp cấp theo Nghị định 64 và quyền sử dụng
mảnh đất này không thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Thành nhưng đã cung
cấp thông tin sai lệch dẫn đến việc các bên không giao kết được hợp đồng (đây có
thể coi là hành vi không trung thực, thiện chí hoặc lừa dối trong giao kết). Vì vậy,
không thể xét xử theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn mà phải xử lý
theo hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép theo
quy tại Điều 127 BLDS 2015.

Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Câu 1: Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Thứ nhất, về hợp đồng vô hiệu từng phần: Giao dịch dân sự vô hiệu từng
phần khi một phần của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu
lực của phần còn lại của giao dịch. Cơ sở pháp lý: Điều 130 BLDS 2015.
Thứ hai, về hợp đồng vô hiệu toàn bộ: Giao dịch dân sự vi phạm do điều cấm
của luật, trái đạo đức xã hội; do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; do giả tạo; do
nhầm lẫn; do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; do người xác lập không nhận thức và làm
chủ hành vi của mình. Cơ sở pháp lý: Điều 123 đến Điều 129 BLDS 2015.

Không chia làm 2 trng hp.

Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch. Cơ sở
pháp lý: Điều 130 BLDS 2015. Ở đây, Điều 130 không liệt kê những trường hợp vô
hiệu một phần nên phải dựa vào nội dung hợp đồng
Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao.

3
Chủ thể: Nguyên đơn là anh Vũ Ngọc Khánh, anh Vũ Ngọc Tuấn, chị Vũ
Thị Tường Vy; bị đơn là ông Trần Thiết Học, bà Đào Thị Mỹ, bà Nguyễn Thị
Dung.
Đây là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất.
Lý do tranh chấp:
Bà Dung có đơn xin đăng ký quyền sử dụng 252,6m 2 đất thổ do ông Long
mất để lại vợ. Thời điểm này, hộ bà Dung có bà và các con là anh Khánh, anh Tuấn,
chị Vy. Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn chứng thực thể hiện các
anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhưng được xác
định là không có chữ ký chính chủ của anh, chị Khánh, Tuấn, Vy. Nhận thấy tại
thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng, bà Dung và vợ chồng ông Học biết rõ
tài sản chuyển nhượng là tài sản của hộ gia đình, nên việc ký kết hợp đồng không
đúng theo pháp luật nhưng vẫn ký kết, làm cho hợp đồng vi phạm cả hình thức và
nội dung, dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, do các thành viên trong gia đình
không có thỏa thuận về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
nên phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực.
Quyết định của Tòa án: Tòa quyết định chấp nhận kháng nghị Giám đốc
thẩm, hủy Quyết định giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự sơ thẩm và giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử lại theo thủ tục sở
thẩm, đúng quy định của pháp luật. Tòa án tuyên vô hiu mt phn

Câu 2: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài
sản chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của
hộ gia đình?
Đoạn cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình
là:
“Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh chứng thực
ngày 27/7/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà Dung
được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy không
thừa nhận ký vào hợp đồng ủy quyền nêu trên. Bà Dung cho rằng chữ ký của bên ủy

4
quyền không phải do các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy ký, ai ký thì bà Dung không
biết”.
Câu 3: Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo
hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Đoạn trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp
đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần là:
“Trường hợp này, do các thành viên trong gia đình không có thỏa thuận về
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nên xác định quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của các thành viên trong hộ gia
đình theo phần và áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần để giải quyết. Theo
đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực. Còn phần quyền sử
dụng, quyền sở hữu của các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu theo quy định tại
Điều 135 Bộ luật dân sự năm 2005”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
Theo nhóm, việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng
trên vô hiệu một phần là hợp lý. Trong trường hợp này, tài sản tranh chấp là bất
động sản và thuộc sở hữu của hộ gia đình nên việc định đoạt tài sản phải có sự đồng
ý của tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình theo quy
định tại Điều 212 BLDS 2015 và mỗi thành viên trong hộ gia đình đều có phần
quyền đối với khối tài sản của hộ gia đình. Do đó, Hội đồng thẩm phán áp dụng quy
định về sở hữu chung để vô hiệu một phần hợp đồng là phù hợp. Đồng thời, việc vô
hiệu một phần này vừa đảm bảo quyền lợi cho bà Dung vừa không ảnh hưởng đến
quyền của các thành viên khác trong hộ gia đình.
Câu 5: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS
2015.
Thứ nhất, khoản 3 Điều 131 BLDS 2015 đã tách vấn đề hoa lợi, lợi tức là đối
tượng của hợp đồng vô hiệu ra khỏi quy định về khôi phục lại tình trạng ban đầu và
có quy định mới là việc trả hoa lợi, lợi tức cần phải có yếu tố “ngay tình" của người
nhận tài sản. Cụ thể, BLDS 2005 có quy định hoa lợi, lợi tức trước khi giao dịch
được xác lập vẫn chưa hình thành nên nếu buộc bên nhận tài sản giao hoa lợi, lợi
tức lại cho bên giao tài sản thì bên giao tài sản không phải là nhận được tài sản lúc
ban đầu nữa. Nghĩa là bên giao tài sản không nhận được tình trạng ban đầu mà bên

5
giao tài sản còn nhận được nhiều hơn tài sản ban đầu. BLDS 2015 đã khắc phục
được sai sót này nên đã tách phần hoa lợi, lợi tức vào một phần riêng với khôi phục
lại tình trạng ban đầu. Theo BLDS 2005 thì phần quy định về hoa lợi, lợi tức không
thống nhất với Điều 601 BLDS 2005 theo đó tiêu chí để xác định số hoa lợi, lợi tức
khi giao dịch dân sự vô hiệu là sự ngay tình của người chiếm hữu tài sản không có
căn cứ pháp luật.
Thứ hai, BLDS 2015 đã bổ sung thêm khoản 5 Điều 131 với nội dung: “Việc
giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.
Thứ ba, về vấn đề tịch thu tài sản, BLDS 2015 có sự thay đổi là đã bỏ quy
định về tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức được quy định tại Điều 137 BLDS 2005.
Việc sửa đổi này với lý do việc tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức thuộc quy định của
pháp luật hành chính, hình sự mà không phải của BLDS.
Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Chủ thể: Nguyên đơn là ông Trịnh Văn Vinh, bị đơn là ông Đào Văn Lộc, bà
Hoàng Thị Lan.
Đây là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 9/9/2005, ông Vinh cùng ông Lộc, bà Lan lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích 953m 2 với giá 100.000.000 đồng.
Hợp đồng nêu trên không được chính quyền địa phương cho phép chuyển nhượng.
Ông Vinh chỉ mới trả cho vợ chồng ông Lộc 45.000.000 đồng tương ứng với 45%
giá trị thửa đất mà hai bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Quyết định của Tòa án: Toà án nhận định hợp đồng trên vô hiệu do không
được chính quyền địa phương cho phép và ông Vinh mới trả cho ông Lộc 45% giá
trị thửa đất là 45.000.000 đồng mà hai bên đã thoả thuận. Việc Toà án cấp sơ thẩm
và phúc thẩm xác định mức độ lỗi và xác minh thiệt hại sai, dẫn đến việc buộc ông
Lộc bồi thường ½ giá trị toàn bộ thửa đất là không đúng. Trong trường hợp này,
ông Vinh chỉ được bồi thường là ½ chênh lệch giá thị trường của 45% giá trị thửa
đất.
Xác định:
- Bồi thường mức ½: là vô hiệu do hđ kh được chính quyền địa phương cho phép
chuyển nhượng → Do vi phạm điều cấm của luật

6
- Chênh lệch giá thị trường: NĐ 02
- 45% giá trị: Do bên mua đã trả 45/100tr đồng nên khi hđ này vô hiệu 45tr ông V
đã trả cho ông L là phần bị thiệt hại của ông V nên phải đc bồi thường.
Câu 6: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác
định như thế nào?
Trong Quyết định số 319, Toà giám đốc thẩm xác định hai bên cùng có lỗi,
tuy nhiên Toà án không cho biết mức độ lỗi của mỗi người là bao nhiêu. Tại phần
xét thấy của Quyết định có nêu: “Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được
45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá
trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ
được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo thị
trường”.
Câu 7: Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường
như thế nào?
Trong Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường
thiệt hại ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường. Nội dung này
được ghi nhận ở phần xét thấy của Quyết định:
“Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị
thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi
thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường
thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường,
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại buộc vợ chồng ông Lộc bồi thường thiệt
hại ½ giá trị của toàn bộ thửa đất theo giá thị trường là không đúng.”
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa là hợp lý. Dựa trên việc hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lộc, bà Lan và ông Vinh
chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng hay chứng thực; ông Vinh
cũng không chứng minh được đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán đợt 2 theo đúng
thỏa thuận; và tranh chấp là đất trồng lúa không được chính quyền địa phương cho
phép chuyển nhượng nên trong trường hợp này, Toà án có căn cứ để tuyên hợp
đồng vô hiệu một phần. Bên cạnh đó, vì cả hai bên cùng có lỗi, do ông Vinh mới chỉ
thanh toán 45% giá trị thửa đất mà hai bên đã thoả thuận nên Toà xác định ông chỉ
được bồi thường ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường là
phù hợp.

7
Câu 9: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Theo biên bản định giá, thửa đất có giá thị trường là 333.550.000 đồng, mà
ông Vinh được bán với giá 100.000.000 đồng nên giá chênh lệch là 233.550.000
đồng. Ở đây, ông Vinh mới trả 45.000.000 trên tổng giá trị 100.000.000 đồng tức
mới trả 45% và Tòa xác định là ông sẽ được bồi thường ½ chênh lệch giá của 45%
giá trị thửa đất theo giá thị trường. Vì vậy, với các thông tin trong Quyết định số
319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền cụ thể là (45% x 233.550.000) / 2 =
52.548.750 đồng.

Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn.
Ví dụ nghĩa vụ hình thành trong tương lai: Công ty A ký kết HĐ vay với công ty B,
trong HĐ có điều khoản: C bảo lãnh tất cả các HĐ của công ty A đối với công ty B
đến một thời điểm nhất định.
Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao.
Chủ thể: Nguyên đơn là Công ty TNHH K.N.V; bị đơn là Công ty TNHH
sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam và Ngân hàng TMCP Việt Á.
Đây là tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh.
Lý do tranh chấp: Công ty K.N.V ký kết hợp đồng thương mại với Công ty
Cửu Long với nội dung là công ty KNV đồng ý mua 3.000 tấn phân bón của Công
ty Cửu Long với giá là 5.100.000 VNĐ/tấn. Tổng giá trị hợp đồng là
15.300.000.000 đồng và thời gian giao hàng chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày Công
ty Cửu Long nhận tiền ký quỹ. Công ty KNV thanh toán tạm ứng cho Công ty Cửu
Long 20% tổng giá trị hợp đồng ngay sau khi hai bên ký kết, trường hợp Công ty
Cửu Long chậm chậm giao hàng thì phải chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả lãi
tiền ký quỹ cho Công ty KNV theo lãi suất Ngân hàng Nhà nước quy định. Ngày
15/4/2016 Công ty KNV đã chuyển 3.600.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty
Cửu Long. Công ty Cửu Long đã không giao hàng theo nội dung hợp đồng và đã trả
1.550.000.000 đồng cho Công ty KNV nên còn lại 1.510.000.000 đồng. Do đó
Công ty KNV khởi kiện yêu cầu Công ty Cửu Long thành toán số tiền còn lại của
lãi suất chậm trả; thanh toán tiền phạt 5% tổng giá trị hợp đồng với số tiền là
765.000.000 đồng và yêu cầu Ngân hàng Việt Á thanh toán số tiền tạm ứng ký quỹ
còn thiếu là 1.510.000.000 đồng theo hợp đồng với Công ty Cửu Long.

8
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số
22/2019/KN-KDTM của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy Quyết định giám
đốc thẩm số 09/2018/KDTM-GĐT của Tòa án NDTC tại Hà Nội; giữ nguyên Bản
án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 17/2017/KDTM-PT của Tòa án nhân dân
thành phố Hải Phòng về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh” giữa nguyên đơn là
Công ty TNHH KNV với bị đơn là Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân
bón Cửu Long Việt Nam, Ngân hàng TMCP Việt Á.
Câu 1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn từ 14/4/2016 đến 17h00 ngày
09/5/2016.
Theo thông tư số 28/2012/TT-NHNN Điều 18 quy định về thời hạn bảo lãnh:
“1. Thời hạn bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành bảo lãnh hoặc khi bảo
lãnh có hiệu lực theo thỏa thuận của bên bảo lãnh với các bên liên quan cho đến thời
điểm hết hiệu lực của bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam
kết bảo lãnh không ghi cụ thể thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh thì thời điểm hết
hiệu lực của bảo lãnh được xác định tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh hết hiệu lực
theo quy định tại Điều 21 của Thông tư này.
2. Trường hợp ngày hết hiệu lực bảo lãnh trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết
thì ngày hết hiệu lực được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
3. Việc gia hạn bảo lãnh do các bên thỏa thuận.”
Câu 2: Nghĩa vụ của Công ty Cửu Long đối với Công ty KNV có phát sinh
trong thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ của Công ty Cửu Long đối với Công ty KNV có phát sinh trong
thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng vì Công ty KNV và công ty Cửu Long ký kết hợp
đồng ngày 15/4/2016, Công ty KNV thanh toán tạm ứng cho Công ty Cửu Long số
tiền tương đương 20% tổng giá trị hợp đồng ngay sau khi hai bên ký kết hợp đồng.
Đối chiếu với hợp đồng thì ngày giao hàng chậm nhất là ngày 09/5/2016. Việc
Công ty Cửu Long cho rằng không vi phạm nghĩa vụ giao hàng và thời hạn giao
hàng chậm nhất ngày 27/5/2016 là không đúng với thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng (đoạn 2 phần nhận định của Tòa án). Ngân hàng Việt Á phát hành “Thư
bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước” ngày 14/4/2016 sau đó phát hành “Thư tu chỉnh
bảo lãnh” ngày 04/5/2016 để tu chỉnh hiệu lực của Thư bảo lãnh chấm dứt hiệu lực
vào lúc 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016.

9
Câu 3: Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Công ty KNV) khởi
kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng
có còn trách nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có
câu trả lời?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Công ty K.N.V) khởi
kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn
còn trách nhiệm của người bảo lãnh.
Trong đoạn quyết định của Bản án có nêu: “Đến ngày 11/5/2016, khi đã hết
thời hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh, Ngân hàng Việt Á mới có thông báo số
56TB/CNBD/16 gửi Công ty K.N.V về việc không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với
lý do chưa nhận được Thư bảo lãnh bản gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016.
Sau khi nhận được thông báo của Ngân hàng, ngày 12/5/2016, Công ty K.N.V đã
gửi Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng. Như vậy, lý do từ chối thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á là không thể chấp nhận được”.
Ngoài ra còn có đoạn: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc
Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty TNHH K.N.V số
tiền tạm ứng còn thiếu 1.510.000.000 đồng là có căn cứ. Quyết định giám đốc thẩm
của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận ý kiến của
Ngân hàng Việt Á cho rằng Công ty K.N.V nộp bản gốc Thư bảo lãnh khi đã hết
thời hạn hiệu lực nên Ngân hàng Việt Á có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh là không đúng với bản chất của vụ án”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối
cao.
Căn cứ theo khoản 1, 2 Điều 293 BLDS 2015 quy định về phạm vi nghĩa vụ
được bảo đảm thì: “Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa
thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và pháp luật
không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả
nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại”. Điều 335 BLDS 2015 quy định
về bảo lãnh: “Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Trong vụ việc trên, có thể xác định nghĩa vụ được bảo đảm toàn bộ, kể cả
nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại. Vì Công ty Cửu Long vi phạm
nghĩa vụ giao hàng nên trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016 Công ty K.N.V đã có

10
Công văn số 01 đề nghị Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Ngân
hàng Việt Á đã không thông báo ngay cho Công ty K.N.V trong thời hạn bảo lãnh
về việc hồ sơ yêu cầu không đầy đủ, mà lấy lý do Công ty Cửu Long đề nghị Ngân
hàng Việt Á tạm ngưng việc hoàn trả tiền để từ chối bảo lãnh và sau đó đến ngày
11/5/2016, khi đã hết thời hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh, Ngân hàng Việt Á mới có
thông báo gửi Công ty K.N.V về việc không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do
chưa nhận được Thư bảo lãnh bản gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Sau
khi nhận được thông báo của Ngân hàng, ngày 12/5/2016, Công ty K.N.V đã gửi
Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng. Ngân hàng Việt Á đã không đề cập đến việc
Công ty K.N.V phải gửi Thư bảo lãnh bản gốc trước thời điểm thư bảo lãnh hết hiệu
lực, như vậy là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty K.N.V. Do đó,
hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý..

Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Tình huống: Anh Nam là người thuộc quản lý của UBND xã, đã vô ý gây thiệt hại
cho bà Chính khi thực hiện công việc được UBND xã giao. Thực tế, thiệt hại quá
lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam và Tòa án đã áp dụng các quy định về
giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để
ấn định mức bồi thường.
Câu 1: Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
Theo khoản 2 Điều 585 BLDS 2015 quy định về giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế của mình”. Như vậy, bên chịu trách nhiệm bồi
thường nếu có yêu cầu giảm mức bồi thường trong trường hợp này thì phải đáp ứng
đủ hai điều kiện sau:
Một là, người chịu trách nhiệm bồi thường không có lỗi hoặc có lỗi vô ý.
Như vậy, nếu bên chịu trách nhiệm bồi thường có lỗi cố ý thì sẽ không được giảm
mức bồi thường thiệt hại. Trước đây, để được giảm mức bồi thường do thiệt hại quá
lớn so với kinh tế thì người vi phạm phải chứng minh được mình có lỗi vô ý. Tuy
nhiên, khi phân tích về yếu tố lỗi bao gồm ba trường hợp: Lỗi cố ý, lỗi vô ý và
không có lỗi. Như vậy, BLDS trước đây đã bỏ sót trường hợp không có lỗi, BLDS
2015 đã bổ sung thêm trường hợp này.

11
Hai là, thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây thiệt hại. Thiệt
hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của
họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc
phần lớn thiệt hại đó.
Ví dụ: Ông A 60 tuổi, được thuê chạy xe tải chở hàng, thu nhập hàng tháng
là 4 triệu đồng. Trong một lần ông A chở các thanh sắt, vô tình thanh sắt trượt
xuống xe và trúng vào chị B đang lái xe gắn máy phía sau làm chị bị ngã và chấn
thương sọ não. Mọi chi phí bồi thường thiệt hại ước tính 150 triệu đồng. Có thể
thấy, chi phí đền bù thiệt hại này quá lớn so với khả năng kinh tế của ông A. Trong
trường hợp này, ông A có thể được giảm mức bồi thường thiệt hại bởi đáp ứng đủ
hai điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 585 BLDS 2015.
BLDS 2015 chỉ ghi nhận bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế, nhưng cụ thể giảm bao nhiêu
thì BLDS chưa cho biết. Tòa án phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết
định mức giảm bồi thường (phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, mức độ lỗi). Trong
thực tế đã có trường hợp Tòa án cho giảm 30% mức bồi thường thiệt hại.
Câu 2: Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm
mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để
ấn định mức bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?
Xét tình huống nêu trên:
Thứ nhất, mặc dù anh Nam gây thiệt hại cho bà Chính khi thực hiện công
việc được UBND xã giao nhưng đây là lỗi vô ý.
Thứ hai, trên thực tế, thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam.
Thiệt hại xảy ra mà anh Nam có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế
trước mắt của anh cũng như về lâu dài anh không có khả năng bồi thường được toàn
bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.
Trong trường hợp này, anh Nam đã đáp ứng đủ các điều kiện về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế được quy định tại khoản 2
Điều 585 BLDS 2015. Như vậy, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường là có thuyết phục.

Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

12
Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Chủ thể: Nguyên đơn là anh Nguyễn Hữu Công, bị đơn là chi nhánh điện Cái
Bè.
Đây là tranh chấp bồi thường thiệt hại về tính mạng.
Lý do tranh chấp: Vào lúc 16h30 ngày 10/5/2003, cháu Nguyễn Hữu Lợi,
con của anh Nguyễn Hữu Công bị giật điện chết tại nhà anh Huỳnh Chí Dũng do
đường dây hạ thế bị hở mạch, khi cháu chạy ngang qua chạm vào dây thì bị giật
chết, đường dây là do Chi nhánh điện Cái Bè quản lý. Anh Nguyễn Hữu Công đòi
Chi nhánh điện Cái Bè phải bồi thường thiệt hại cho gia đình.
Quyết định của Tòa án:
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 226/2006/DS-ST ngày 24/7/2006 của Tòa án
Nhân dân huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang; bác bỏ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn
Hữu Công về việc đòi Chi nhánh điện Cái Bè bồi thường chi phí mai táng, tổn thất
tinh thần cho gia đình anh với tổng số tiến là 28.000.000 đồng; ghi nhận sự tự
nguyện của chi nhánh điện Cái Bè hỗ trợ cho anh Công 3.000.000 đồng và ông Trần
Văn Ri hỗ trợ số tiền 500.000 đồng.
Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 540/2006/DS-PT ngày 18/10/2006 của Tòa
án Nhân dân tỉnh Tiền Giang, cụ thể: Bác bỏ yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn
Hữu Công, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 226/2006/DS-ST ngày 24/7/2006
của Tòa án Nhân dân huyện Cái Bè và giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án Nhân dân
huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra, được thể hiện ở đoạn:
“Theo quyết định tại Điều 627 BLDS 1995 (Điều 623 BLDS sự 2005) thì
chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi (trừ các trường hợp thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp
bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết…). Trong vụ việc này, bên bị thiệt hại hoàn
toàn không có lỗi nên phải được bồi thường; lẽ ra phải làm rõ trách nhiệm của chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty điện lực 2 và trách nhiệm của bên quản

13
lý, sử dụng đường dây điện nêu trên là Tổ điện 4 thuộc ấp 3, xã Tân Hưng, huyện
Cái Bè (do ông Trần Văn Ri làm tổ trưởng tổ điện) trong việc để rò rỉ nguồn điện
làm chết cháu Lợi.”
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo nhóm, việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra là hợp lý vì có thiệt hại và thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
trực tiếp gây ra. Theo kết luận của công an huyện Cái Bè rằng cháu Nguyễn Hữu
Lợi đã bị điện giật chết tại nhà ông Huỳnh Trí Dũng do đường dây hạ thế chạy
ngang qua nhà ông Dũng bị hở mạch điện dẫn điện qua mái tôn nhà ông Dũng đến
dây chằng bằng sắt xuống đất và khi cháu Lợi đi ngang qua chạm vào dây chằng thì
bị giật chết tại chỗ. Đường dây tải điện trên là “hệ thống tải điện” thuộc danh sách
liệt kê các nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 và chính do
đường đây này đã trực tiếp gây ra thiệt hại cho cháu Lợi.
Câu 3: Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt
hại không?
Tòa dân sự không trực tiếp cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế
gây thiệt hại nhưng đã nhất trí với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với nhận định
trong Quyết định kháng nghị số 581/2009/KN-DS ngày 12-10-2009: “Trong vụ việc
này, bên bị thiệt hại hoàn toàn không có lỗi nên phải được bồi thường: Lẽ ra phải
làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty điện lực 2”.
Câu 4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?
Theo nhóm, Công ty điện lực 2 là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại.
Căn cứ theo Điều 164 BLDS 2005: “Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
Đồng thời, chủ sở hữu cũng có các quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản. Công ty điện lực 2 là pháp nhân và có đủ các quyền trên nên là chủ sở
hữu hợp pháp của đường dây trên.
Câu 5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho gia đình nạn nhân?
Theo Tòa dân sự, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty điện lực 2
và bên quản lý, sử dụng đường dây điện là Tổ điện 4 thuộc ấp 3, xã Tân Hưng,
huyện Cái Bè do ông Trần Văn Ri làm Tổ trưởng tổ điện sẽ là chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân.

14
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho gia đình nạn nhân.
Hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến xác
định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân là hợp lý.
Trước tiên, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã căn cứ vào khoản 1 và khoản 2
Điều 601 BLDS 2015 để tìm ra chính xác chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và
truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cụ thể, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ là Công ty điện lực 2 và bên quản lý, sử dụng đường dây điện là Tổ điện 4 thông
qua hợp đồng mua bán điện. Ngoài ra, Tòa dân sự còn ghi nhận sự tự nguyện của
các đương sự là bồi thường một khoản tiền vì có sự xâm phạm về tính mạng đối với
cháu Lợi.

Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.
Câu 1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân
chết theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.

Nội dung Luật Trách nhiệm bồi thường BLDS 2015


của Nhà nước

CSPL Điều 25, 26, 27. Điều 590, 591, 593.

Chi phí bồi Chi phí khám bệnh, chữa bệnh Thiệt hại do sức khỏe bị xâm
thường theo quy định của pháp luật về phạm theo quy định tại Điều
khám bệnh, chữa bệnh cho 590 của Bộ luật này.
người bị thiệt hại trước khi Chi phí hợp lý cho việc mai
chết. táng.
Chi phí bồi thường sức khỏe Tiền cấp dưỡng cho những
cho người bị thiệt hại trước khi người mà người bị thiệt hại có
chết được xác định là 01 ngày nghĩa vụ cấp dưỡng.
lương tối thiểu vùng tại cơ sở
Thiệt hại khác do luật quy
khám bệnh, chữa bệnh cho 01
định.
ngày khám bệnh, chữa bệnh
theo số ngày trong hồ sơ bệnh

15
án. Bù đắp tổn thất về tinh thần
Chi phí cho việc mai táng người cho những người thân thích
bị thiệt hại chết được xác định thuộc hàng thừa kế thứ nhất
theo mức trợ cấp mai táng theo của người bị thiệt hại, nếu
quy định của pháp luật về bảo không có những người này thì
hiểm xã hội. người mà người bị thiệt hại đã
trực tiếp nuôi dưỡng, người đã
Và bồi thường thiệt hại về tinh
trực tiếp nuôi dưỡng người bị
thần cho gia đình nạn nhân.
thiệt hại.

Chi phí mai Xác định theo mức trợ cấp mai Chi phí hợp lý cho việc mai
táng táng theo quy định của pháp táng.
luật về bảo hiểm xã hội.

Tiền cấp Một tháng lương tối thiểu vùng Không nêu rõ số tiền cụ thể.
dưỡng cho tại nơi người được cấp dưỡng
những người đang cư trú cho mỗi tháng thực
mà người bị hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
thiệt hại đang Trừ trường hợp pháp luật có
thực hiện quy định khác hoặc đã được xác
nghĩa vụ cấp định theo Bản án, Quyết định
dưỡng đã có hiệu lực pháp luật của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.

Mức bồi Được xác định là 360 tháng Theo thỏa thuận.
thường thiệt lương cơ sở. Nếu không thỏa thuận được thì
hại về tinh Trường hợp người bị thiệt hại mức tối đa cho một người có
thần cho gia chết thì không áp dụng bồi tính mạng bị xâm phạm không
đình người bị thường thiệt hại về tinh thần quá một trăm lần mức lương
thiệt hại về quy định tại khoản 1, 2, 3 và 5 cơ sở do Nhà nước quy định.
tính mạng Điều 27 của Luật này.

Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên.

16
Chủ thể: Các bị cáo bao gồm Lê Đức Hoàn, Nguyễn Thân Thảo Thành,
Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy. Người
bị hại là Ngô Thanh Kiều.
Đây là Bản án về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.
Nội dung Bản án: Ngô Thanh Kiều bị bắt vì đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài
sản và được đưa về trụ sở Công an thành phố Tuy Hòa. Nguyễn Minh Quyền và
Phạm Ngọc Mẫn được Lê Đức Hoàn phân công xét hỏi Kiều tại phòng làm việc của
Đội điều tra tổng hợp. Mẫn dùng còng số tám còng một tay Kiều vào thành ghế.
Tiếp đó, Mẫn và Quyền dùng gậy cao su đánh nhiều cái vào bắp đùi, cẳng chân của
Kiều. Khoảng 10h30 cùng ngày, Đỗ Như Huy được Lê Đức Hoàn phân công đến
phòng xét hỏi Kiều để đối chiếu với lời khai của Ngô Thanh Sơn, nghi phạm được
cho là cùng nhóm với Kiều. Do Kiều không trả lời, thái độ bất hợp tác, Huy dùng
gậy cao su đánh vào đùi Kiều. Hơn 11h cùng ngày, Nguyễn Tấn Quang hết ca trực
ban ở cổng Công an thành phố Tuy Hòa đã vào phòng xét hỏi Kiều, khi đó trong
phòng có Quyền và Mẫn. Quang dùng còng số tám còng ngoặt hai tay Kiều ra sau
thành ghế tựa rồi xét hỏi. Quang dùng gậy cao su đánh vào chân Kiều nhiều cái,
dùng chân đạp vào còng đang còng tay Kiều. Sau đó, Quang bỏ ra ngoài. Tiếp đó,
Nguyễn Thân Thảo Thành được phân công canh giữ Ngô Thanh Kiều để Quyền,
Mẫn đi ăn cơm trưa. Do Kiều không trả lời các câu hỏi về việc trộm cắp, Thành đã
dùng gậy cao su đánh vào đầu nghi phạm. Khoảng 14h ngày 13-5-2012, Lê Đức
Hoàn chỉ đạo Mẫn, Thành và Đặng Quốc Bảo (cũng là công an TP Tuy Hòa) dẫn
giải Kiều lên Phòng PC45 Công an Phú Yên để làm việc. Tại đây, ông Hồ Tấn
Thắng - phó trưởng Phòng PC45 - thấy Kiều không ổn về sức khỏe nên đã chỉ đạo
đưa nghi phạm đến bệnh xá Công an Phú Yên khám. Khoảng 17h40, Kiều được
chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên cấp cứu, song Kiều đã tử vong trên
đường đến viện. Tại Bản giám định pháp y số 91/2012/GĐPY ngày 20/6/2012 kết
luận: Ngô Thanh Kiều chết do chấn thương sọ não.
Quyết định của Tòa án: Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã tự nguyện bồi
thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 186.000.000 đồng; buộc Công an
thành phố Tuy Hoà cấp dưỡng nuôi 02 con của Ngô Thanh Kiều mỗi cháu tháng
575.000 đồng/tháng cho đến khi phát sinh một trong các trường hợp chấm dứt nghĩa
vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Câu 1: Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?

17
Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh. Trong trường hợp trên, người thi hành công vụ, cụ thể là 5 bị
cáo (cán bộ Công an thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú Yên), là người thi hành công vụ,
đã gây tử vong cho anh Ngô Thanh Kiều trong quá trình thi hành nhiệm vụ. Tòa án
cũng đã xét thấy rằng việc bắt giữ anh Kiều là có căn cứ và cần thiết, chỉ vi phạm về
hình thức và thủ tục tố tụng.
Căn cứ tại Điều 1 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định:
“Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố
tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường
phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các
cơ quan Nhà nước trong công tác bồi thường Nhà nước”.
Như vậy có thể thấy việc 5 bị cáo là cán bộ công an, người đang thi hành
công vụ nhưng đã gây thiệt hại về tính mạng cho anh Kiều nên trong trường hợp
này anh Kiều sẽ được bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Câu 2: Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu
lực, hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực
thì hướng giải quyết có khác với hướng giải quyết trong vụ án. Căn cứ tại Điều 598
BLDS 2015 quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước”. Như vậy, phải áp dụng tiếp Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước để giải quyết.
Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo hướng liệt kê
nên có phạm vi rất hẹp. Cụ thể, Luật này không quy định bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng mà người bị thiệt hại chết (Điều 26 có phạm vi trách nhiệm bồi
thường trong hoạt động tố tụng hình sự). Do đó, chúng ta sẽ không có quy định nào
để bảo vệ người bị thiệt hại trong trường hợp này.

18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự năm 2015 (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
2. Bộ luật Dân sự năm 2005 (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005.
3. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật số 10/2017/QH13) ngày
20/6/2017.
B. Tài liệu tham khảo
1. Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam - TS. Lê Trường Sơn, Nxb.
Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr.77.

You might also like