You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ

BỘ MÔN: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG


THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA


LỚP 127 – DS46A1

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 04


STT Họ và tên MSSV

1 Lê Huỳnh Nhân Ái 2153801012001


2 Đào Ngọc Hương An 2153801012002
3 Đào Quỳnh Anh 2153801012007
4 Đặng Hà Bảo Anh 2153801012008
5 Bùi Hữu Bảo 2153801012026
6 Trần Lê Tâm Châu 2153801012034
7 Trần Lê Mai Chi 2153801012037
8 Nguyễn Thị Hoàng Dịu 2153801012041
9 Đặng Thùy Dương 2153801012048
MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: HỢP ĐỒNG VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC....................................2

VẤN ĐỀ 2: ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT, HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG
HỢP ĐỒNG........................................................................................................................... 7

VẤN ĐỀ 3: ĐỨNG TÊN GIÙM MUA BẤT ĐỘNG SẢN.................................................12

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.....................................................................................16

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................20

1
VẤN ĐỀ 1: HỢP ĐỒNG VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC

Tóm tắt bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi.
- Nguyên đơn: Ông Võ Sĩ M, Bà Phùng Thị N
- Bị đơn: Ông Đoàn C, Bà Trần Thị L
- Vấn đề: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Nội dung bản án:
Giữa nguyên đơn và bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L có quan hệ họ hàng. Năm
2009, Ông C, bà L và con trai là Đoàn Tấn L thống nhất thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ
chồng ông M, bà N 1 lô B với giá 90tr đồng, diện tích 100m2. Ông Mến, bà Nhiễm đã giao
đủ số tiền như trong thỏa thuận nhưng vì không có lô B nên 2 bên thống nhất giao thêm 30tr
để lấy lô A. Ông Mến, bà Nhiễm giao trước 20tr, tổng cộng đã giao 110tr. Tháng 10/2016,
ông CC, bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng sau đó họ chỉ giao giấy
chứng nhận này cho ông M, bà N mà không làm thủ tục chuyển nhượng. Nay ông M, bà N
yêu cầu ông C, bà L phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất trên cho họ. Ông C, bà L có
đơn phản tố yêu cầu Toà án tuyên huỷ hợp đồng chuyển nhượng vì cho rằng tại thời điểm
chuyển nhượng chưa có đất và hợp đồng không được công nhận, chứng thực.
Tòa án phúc thẩm: Công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa đất số 877 giữa ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N với ông Đoàn C, bà Trần Thị L. Ông M,
bà N có quyền sử dụng thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24, xã Phổ Thạnh. Ông M, bà N có
nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 877.
Quyết định giám đốc thẩm số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên xử: Chấp nhận Quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS ngày 19/9/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng; hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DSPT ngày 01/02/2018 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử
lại theo thủ tục phúc thẩm.
Tóm tắt quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các đương sự:
nguyên đơn ông Mến và bà Nhiễm, bị đơn ông Cưu và bà Lắm. Vợ chồng ông Cưu, bà Lắm
thống nhất thoả thuận chuyển nhượng cho vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm một lô B (tự chọn)
với giá chuyển nhượng là 90.000.000. Vì không có lô B nên hai bên thống nhất ông Mến, bà
Nhiễm giao thêm 30.000.000 đồng nữa để lấy lô khu A. Ông Cưu, bà Lắm đã nhận số tiền
110.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Cưu, bà
2
Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm phù hợp với quy định của pháp luật về nội dung,
không vi phạm điều cấm của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 Điều 132 BLDS 2015 hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên không thể yêu tuyên bố vô hiệu vì đã hết
thời hạn hai năm; theo khoản 1 Điều 423 BLDS 2015 thì hợp đồng không được công chứng,
chứng thực không phải là căn cứ để hủy bỏ. Vì vậy chấp nhận Quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm số 68/2018/KN-DS, huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT và
giao hồ sơ vụ án để xét xử lại thủ tục phúc thẩm.
Câu 1: Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng,
chứng thực?
- Đoạn sau đây trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực: “Về thời hạn thực hiện giao dịch
được hai bên xác định là từ khi xác lập giao dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong
nghĩa vụ sang tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nên đây là
giao dịch đang được thực hiện.” Mà thời điểm xác lập giao dịch theo như bản án là vào ngày
10/8/2009 nguyên đơn ông M, bà N cùng phía bị đơn ông C, bà L và anh Đoàn Tấn L1 thỏa
thuận và lập “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư” (Bút lục 27), cho thấy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực.
- Đoạn trong bản án cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được công
chứng, chứng thực: “Như vậy, tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay thể hiện nội dung
thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thỏa thuận bằng lời nói thành
chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao đất,
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để chuyển nhượng.”
Câu 2: Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015
cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015
có hiệu lực?
Đoạn sau đây trong bản số 16 cho thấy Tòa án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho
hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực:
“Hợp đồng vi phạm về hình thức nhưng đang được thực hiện nên được áp dụng BLDS năm
2015 để giải quyết, theo quy định tại Khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 thì hợp đồng này được
công nhận hiệu lực. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không buộc nguyên đơn trả tiếp cho bị đơn
10.000.000 đồng là thiếu sót.”
Câu 3: Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết
phục không? Vì sao?

3
- Theo nhóm em, việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp này là thuyết
phục.Vì:
+ Căn cứ khoản 2 Điều 129 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản
nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã
thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các
bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các
bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
+ Tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình
thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên đơn
đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất
cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công
nhận hiệu lực. Hai bên đã thỏa thuận và lập “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư” (Bút lục 27),
nội dung thỏa thuận được cả hai tham gia giao dịch đều thống nhất ký tên trên cở sở tự
nguyện và thống nhất ý chí về một mục tiêu đã cùng thỏa thuận.
Vì vậy, Có đủ cơ sở để khẳng định quyết định của Tòa án là vô cùng hợp lí và hợp pháp
trong trường hợp này.
Câu 4: Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định
Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao?
Trong bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định Nguyên
đơn thực hiện ⅔ nghĩa vụ là thuyết phục. Vì theo quy định tại Khoản 2 Điều 129 BLDS
2015: Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về
công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất ⅔ nghĩa vụ trong giao
dịch thì yêu cầu của một bên hoặc các bên. Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của
giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện công chứng, chứng thực.
Tòa án cấp phúc thẩm xác định Nguyên đơn đã thực hiện được ⅔ nghĩa vụ trong giao dịch,
đồng thời Tòa án cấp phúc thẩm còn buộc nguyên đơn thanh toán số tiền còn lại chưa thực
hiện tương ứng với giá trị thực tế tại thời điểm tranh chấp.
Câu 5: Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán
không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được liên hệ
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản án
đã có hiệu lực pháp luật?
Trong bản án số 16, đoạn cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán không cần
phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được liên hệ cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp
luật:
“Theo quy định tại Điều 116, Khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 thì tuy giao dịch chuyển

4
nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình thức được quy định tại
Khoản 1 Điều

5
502 BLDS 2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000
đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn ⅔ nghĩa
vụ trong giao dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận
hiệu lực của giao dịch là đúng pháp luật nhưng buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng
thửa 877 cho nguyên đơn là không cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch
thì nguyên đơn liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng
đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.”
Câu 6: Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?
Hướng giải quyết như trên của Toà án có thuyết phục. Vì phía nguyên đơn đã đưa
cho phía bị đơn 110.000.000 đồng số tiền chuyển nhượng lô A, còn 10.000.000 đồng sẽ giao
khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Bên bị đơn đã giao đất và giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nguyên đơn, nguyên đơn đã xây móng nhà và cho bà M1 thuê làm quán buôn
bán. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên bị đơn nên bị đơn có quyền chuyển nhượng
mà không cần có ý kiến của các thành viên khác trong hộ gia đình. Điều đó cho thấy cả 2
bên đã hoàn thành gần xong thủ tục chuyển nhượng đất. Hợp đồng vi phạm về hình thức
nhưng đang được thực hiện nên được áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết. Tại
khoản 2 điều 129 Bộ luật Dân sự 2015 “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản
nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã
thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên
không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
Câu 7: Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.
Theo Điều 132 BLDS 2015, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu:
“ 1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tại các Điều 125, 126, 127,
128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết
hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do
bị lừa dối;
Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình khi xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy
định về hình thức.

6
2. Hết thời hiệu quy định tại Khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.”
Như vậy, căn cứ theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 thời hiệu yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức là 2 năm kể từ ngày luật quy định (điểm đ
K1 Đ132) nên khi hết thời hiệu đó hệ quả pháp lý xảy ra là các bên trong hợp đồng sẽ không
được quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng vi phạm về hình thức đó và
hợp đồng đó có hiệu lực.
Câu 8: Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời
hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
Đoạn mà Tòa áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là: “[5] Về hình thức của hợp đồng… Giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/08/2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà
Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được công chứng, chứng thực là vi phạm về
hình thức. Tuy nhiên từ khi xác lập hợp đồng đến ngày nguyên đơn khởi kiện 18/4/2017, đã
quá thời hạn hai năm, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo quy định tại
Khoản 1 Điều 132 BLDS 2015. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên có
hiệu lực theo Khoản 2 Điều 132 BLDS 2015”.
Câu 9: Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết
phục không? Vì sao?
Quyết định của Tòa khi công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất dù
chưa được công chứng, chứng thực là thuyết phục. Vì:
- Căn cứ theo Khoản 1 Điều 132 BLDS 2015 thì thời hiệu để Tòa tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu là 02 năm, nhưng trong vụ việc thì ông Cưu, bà Lắm trong suốt 02 năm đó không
yêu cầu Tòa tuyên bố giao dịch vô hiệu. Mà mãi đến khi ông Mến, bà Nhiễm khởi kiện ông
Cưu, bà Lắm vì 2 ông bà không thực hiện hiện nghĩa vụ sang tên quyền sử dụng đất cho họ
thì ông Cưu, bà Lắm mới phản tố yêu cầu Tòa hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa hai bên. Hơn nữa, giao dịch dân sự vô hiệu và hủy hợp đồng là hoàn toàn khác
nhau và hợp đồng không được công chứng, chứng thực không phải là căn cứ để Tòa tuyên
hủy hợp đồng theo Điều 423 BLDS 2015.
- Nên tiếp tục căn cứ vào Khoản 2 Điều 132 thì Tòa tuyên giao dịch dân sự chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/08/2009 có hiệu lực.
Câu 10: Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?

7
Đoạn sau đây trong Quyết định 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực: “Giao dịch chuyển nhượng quyền
sử dụng đất lập ngày 10/8/2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà
Nhiễm không được công chứng, chứng thực là vi phạm về hình thức.”

VẤN ĐỀ 2: ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT, HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC HIỆN


ĐÚNG HỢP ĐỒNG

Tóm tắt bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đông Phong Cần Thơ. (Giải thể)
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Dệt .
- Nội dung: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đông Phong giao kết hợp đồng
mua bán xe với ông Trương Văn Liêm. Nhưng trên hợp đồng lại ghi là hợp đồng mua bán
xe giữa công ty Đông Phong với “Trang trí nội thất Thanh Thảo” và đại diện bên mua là bà
“Nguyễn Thị Dệt.
- Kết luận Tòa án: Tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức hợp đồng. Tuyên vô
hiệu với hợp đồng mua bán xe ký kết giữa ông Liêm và công ty Đông Phong. Yêu cầu hai
bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, công ty Đông Phong phải hoàn trả số tiền cọc
67.361.600 đồng, ông Liêm và bà Dệt phải trả cho công ty Đông Phong số tiền 4.880.000
đồng mà công ty đã thanh toán tiền đóng trước bạ đăng ký xe ô tô.
Câu 1: Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do
có vi phạm.
- Điểm giống nhau:
+ Đều là hình thức chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý
từ quá khứ cho đến tương lai.
+ Hệ quả pháp lý: Các bên hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng
hiện vật thì hoàn trả bằng tiền.
+ Việc giải quyết hậu quả liên quan đến quyền nhân thân do BLDS, luật khác có liên quan
quy định.
+ Trách nhiệm bồi thường: Bên có lỗi (bên kia gây thiệt hại) thì phải bồi thường.
- Điểm khác nhau:
Tiêu chí Hợp đồng vô hiệu Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm

- Không có một trong các điều kiện - Vi phạm điều kiện hủy bỏ mà các
Điều kiện
được quy định tại Điều 117 BLDS bên đã thỏa thuận;
chấm dứt
2015;

8
- Do vi phạm điều cấm của luật, trái - Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
đạo đức xã hội; hợp đồng;
- Do giả tạo; - Trường hợp khác do pháp luật quy
- Do người chưa thành niên, người định.
mất năng lực hành vi dân sự, người (CSPL: Điều 423 BLDS 2015)
hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện;
- Do nhầm lẫn;
- Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
- Do người xác lập không nhận thức
và làm chủ hành vi của mình;
- Do không tuân thủ quy định về
hình thức;
- Do có đối tượng không thể thực
hiện được.
(CSPL: Điều 122, Điều 407, Điều
408 BLDS 2015)

- Hợp đồng vô hiệu toàn bộ, không Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp
có hiệu lực, nên không phát sinh đồng không có hiệu lực từ thời điểm
quyền, nghĩa vụ các bên. giao kết, các bên không phải thực
Hiệu lực
- Hợp đồng vô hiệu từng phần thì hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa
hợp đồng
phần không bị vô hiệu vẫn có hiệu thuận về phạt vi phạm, bồi thường
lực, vẫn được giữ nguyên và tiếp tục thiệt hại và thỏa thuận và giải quyết
thực hiện. tranh chấp.

Các bên khôi phục lại tình trạng ban Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã thỏa thuận về giải quyết tranh chấp
nhận. (Khoản 1 đến 4 Điều 131 khi hủy bỏ hợp đồng. Các bên có
Hệ quả
BLDS 2015). quyền đòi lại lợi ích do việc để thực
pháp lý
hiện phần nghĩa vụ theo hợp đồng.
(Khoản 1 đến 4 Điều 427 BLDS
2015).

9
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm
Trách
ngay tình khi giao dịch dân sự (hợp nghĩa vụ của bên kia được bồi
nhiệm bồi
đồng) vô hiệu. (Khoản 3 Điều 133 thường. (Khoản 3 Điều 427 BLDS
thường
BLDS 2015). 2015).

Khoản 1 Điều 125: theo yêu cầu của Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông
người đại diện của người chưa thành báo ngay cho bên kia biết về việc
niên, người mất năng lực hành vi hủy bỏ, nếu không thông báo mà
dân sự, người có khó khăn trong gây thiệt hại thì phải bồi thường
nhận thức làm chủ hành vi hoặc (Khoản 3 Điều 423).
người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu.
K1Đ126: Bên bị nhầm lẫn có quyền
yêu cầu Tòa tuyên vô hiệu
Trách
K1Đ127: Bên bị lừa dối hoặc bị đe
nhiệm
dọa, cưỡng ép có quyền yêu cầu Tòa
thông báo
tuyên vô hiệu
→ Các trường hợp vô hiệu còn lại
(Đ123, Đ124, Đ129) : Tòa tự tuyên
vô hiệu mà không cần bất cứ chủ thể
nào yêu cầu
Điều 128: Người có năng lực hành
vi dân sự nhưng xác lập giao dịch
vào thời điểm không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình thì
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu.
Tòa án hoặc trọng tài tuyên bố hợp Hợp đồng bị hủy bỏ theo quyết định:
Thẩm đồng vô hiệu (Điều 132 BLDS - Một trong các bên (Khoản 1 Điều
quyền 2015). 423 BLDS 2015).
quyết định - Tòa án hoặc trọng tài (Điều 429
BLDS 2015).
Câu 2: Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
- Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long hợp đồng vô hiệu.

10
- Tòa án nhận định: “Xét thấy hợp đồng mua bán xe ngày 26/5/2012 nêu trên là vô hiệu theo
quy định tại các điều 122 của BLDS 2015 nên không có căn cứ tuyên hủy hợp đồng cũng
không xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của nguyên đơn và bị đơn vì hợp đồng vô hiệu
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm giao kết, không ràng
buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng mà phải tuyên hợp đồng vô hiệu và xử
lý hậu quả theo điều 131 của BLDS.”
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng).
Theo quan điểm của nhóm em, hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long khi tuyên hợp đồng trên vô hiệu là hợp lý. Bởi vì, với hướng giải quyết của Tòa, bà
Dệt không phải là người đại diện cho công ty trang trí nội thất Thành Thảo mà thực chất
phải là ông Thành - Giám đốc đại diện công ty TNHH-SX-TM Thành Thảo. Tuy hợp đồng
ghi tên ghi đại diện bên mua là bà Dệt nhưng khi đứng ra giao dịch ký kết lại là ông Liêm là
không đúng quy định của pháp luật tại Điểm a Khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 “Chủ thể có
năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác
lập”. Do đó, ta có thể thấy rằng đây là trường hợp vi phạm về chủ thể, nên hợp đồng bị vô
hiệu là hoàn toàn hợp lý và do đó các bên không phát sinh quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng
mà các bên đã ký kết.
Câu 4: Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì sao?
- Nếu hợp đồng vô hiệu thì không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng bởi vì “phạt vi phạm” là
một một hình thức được các bên xem xét thỏa thuận trong hợp đồng, Căn cứ : Điều 418 quy
định về thỏa thuận phạt vi phạm:
“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa
vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Các bên có thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường
thiệt hại. Trường hợp các bên thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc
vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải chịu phạt vi phạm.”
- Từ những quy định trên, ta có thể rút ra căn cứ để áp dụng phạt vi phạm như sau:
1. Hợp đồng phải có hiệu lực.
2. Chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng.
3. Có thỏa thuận áp dụng phạt vi phạm.
- Tuy nhiên, hợp đồng bị vô hiệu về bản chất là làm cho các bên “không phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” kể từ thời điểm được xác lập. Tức là, một khi hợp đồng

11
bị

12
tuyên bố vô hiệu, điều đó đồng nghĩa với việc điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng
cũng vô hiệu theo. Nên chúng ta không thể áp dụng phạt vi phạm hợp đồng cho hợp đồng
vô hiệu. Câu 5: Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi
trên như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long.
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long cho rằng hợp đồng vô hiệu thì không áp dụng phạt
vi phạm hợp đồng. Nhận định của Tòa án: “Xét hợp đồng mua bán xe ngày 26/5/2012 nêu
trên là vô hiệu theo quy định tại các điều 122 của BLDS nên không có căn cứ tuyên hủy hợp
đồng cũng không xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của cả nguyên đơn và bị đơn vì hợp
đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm giao
kết”. Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long là hợp lý vì hợp đồng
bị tuyên vô hiệu thì đương nhiên không ràng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp
đồng theo khoản 1 Điều 131 BLDS 2015 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”.
Câu 6: Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng do có vi phạm.
- Điểm giống nhau:
+ Đều được quy định trong Bộ luật dân sự.
+ Đều có hậu quả là kết thúc việc thực hiện hợp đồng.
+ Do một bên thực hiện.
+ Một bên không phải bồi thường khi bên còn lại vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong
hợp đồng. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 428 về “Đơn phương chấm dứt hợp đồng” và điểm b
Khoản 1 Điều 423 về “Hủy bỏ hợp đồng”.
+ Bên đơn phương chấm dứt hợp đồng và bên hủy bỏ hợp đồng đều phải thông báo ngay
cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường ( K3Đ423 và K2Đ428 BLDS 2015).
- Điểm khác nhau:
Tiêu chí Hủy bỏ hợp đồng Đơn phương chấm dứt hợp đồng

Căn cứ pháp Điều 423 đến Điều 427 BLDS Điều 428 BLDS 2015
lý 2015

-Do chậm thực hiện nghĩa vụ -Khi một bên vi phạm nghiêm trọng
Các trường -Do không có khả năng làm nghĩa vụ trong hợp đồng
hợp -Do tài sản bị hư hại, bị hỏng, bị -Do các bên thỏa thuận.
mất -Do pháp luật quy định.

13
Phải có sự vi phạm hợp đồng Không bắt buộc phải có sự vi phạm
Điều kiện áp
và đây cũng là điều kiện hủy bỏ hợp đồng bởi hai bên có thể thỏa
dụng
hợp đồng. thuận hoặc do pháp luật quy định

-Hợp đồng không có hiệu lực từ -Hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm
thời điểm giao kết. bên kia nhận được thông báo chấm
dứt
- Các bên không phải thực hiện
nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa -Các bên không phải tiếp tục thực
thuận về phạt vi phạm, bồi thường hiện nghĩa vụ nữa, trừ thỏa thuận về
Hậu quả thiệt hại và thỏa thuận về giải phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và
quyết tranh chấp. thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.

- Các bên hoàn trả cho nhau


những gì đã nhận sau khi trừ đi
chi phí hợp lý trong thực hiện hợp
đồng và chi phí bảo quản, phát
triển tài sản.

Câu 7: Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì
sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
- Ông Minh có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng này để nhận lại đất
của mình.
- Xét thấy hợp đồng chuyển nhượng đất của ông Minh cho ông Cường là một hợp đồng giao
kết hợp pháp theo quy định tại Điều 3 BLDS 2015. Về thời hạn thanh toán hai bên đều đã có
thỏa thuận rõ ràng. Thế nhưng, dù đã nhận được đất nhưng ông Cường lại không trả tiền cho
ông Minh, mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở. Việc không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán cũng đồng nghĩa với việc ông Cường đã vi phạm nghiêm trọng điều khoản của hợp
đồng, căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 423 BLDS 2015. Ông Cường không thanh toán đúng
hạn, dẫn đến kết quả là ông Minh không đạt được mục đích giao kết hợp đồng, đó là hành vi
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng nên ông Minh hoàn toàn có quyền yêu cầu hủy bỏ
hợp đồng chuyển nhượng đất và nhận lại đất này.

VẤN ĐỀ 3: ĐỨNG TÊN GIÙM MUA BẤT ĐỘNG SẢN

Tóm tắt Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.

14
15
Nguyên đơn là bà Tuệ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không được đứng tên
mua nhà tại Việt Nam nên bà Tuệ bỏ tiền mua và nhờ bị đơn là ông Bình và bà Vân đứng
tên hộ. Ông Bình thừa nhận nhà là do bà Tuệ đưa tiền mua và nhờ bà Vân đứng tên cùng
mua. Theo quy định của Luật đất đai, thì bà Tuệ có đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam. Vì vậy phải công nhận cho bà Tuệ được quyền sở hữu nhà và xem xét công sức quản
lý, giữ gìn nhà cho gia đình ông Bình, trừ đi số tiền mua nhà đất do bà Tuệ bỏ ra, phần giá
trị còn lại chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình. Và xem xét đảm bảo quyền lợi của bà Tuệ khi
tại thời điểm mua nhà bà Tuệ chưa có quyền mua nhà tại Việt Nam. Quyết định: Hủy toàn
bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 125/2013/DSPT ngày 10,11/7/2013 của Tòa Phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Hà Nội và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2012/DSST
ngày 5/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Câu 1: Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?
- Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và nhờ ông
Bình, bà Vân đứng tên hộ là thuyết phục.
- Căn cứ vào “Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 07/06/2001 có nội dung xác
nhận căn nhà số 16-B20 do bà Tuệ bỏ tiền mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ. Giấy
này có chữ ký của ông Bình và bà Vân.
- “Giấy khai nhận tài sản” ngày 09/08/2001 có nội dung năm 1933 bà Tuệ mua căn nhà số
16-B20 của Công ty xây dựng nhà ở dân dụng và đã được Ủy ban nhân dân TP. Hà Nội cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ngày 25/05/2001; do bà Tuệ là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài không được đứng tên mua nhà tại Việt Nam, nên bà
Tuệ có nhờ ông Bình và bà Vân đứng tên hộ. Giấy này có chữ ký của bà Tuệ; bà Vân và
ông Bình ký tên dưới mục người đứng tên mua hộ.
- Tại Biên bản hòa giải ngày 05/10/2010 và ngày 14/10/2010, ông Bình cũng thừa nhận nhà
16-B20 là bà Tuệ cho tiền mua và nhờ bà Vân đứng tên cùng mua. Anh Nguyễn Xuân Hải
là con ông Bình cũng khẳng định nhà 16-B20 do bà Tuệ mua.
Câu 2: Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
- Tại thời điểm mua nhà trên, tức năm 1992, bà Tuệ không được đứng tên mua nhà. Vì:
+ Điều 15 Pháp lệnh Nhà ở 1991 quy định: “Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, cá
nhân có quyền sở hữu nhà ở được tạo lập hợp pháp thông qua việc xây dựng, cải tạo, mua,
nhận thừa kế, tặng, cho và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”. Ta thấy rằng
pháp luật Việt Nam quy định rất chung chung về những đối tượng được quyền sở hữu nhà ở
giai đoạn này. Nhưng, Điều 80 Luật Đất đai 1993 lại có quy định cụ thể hơn như sau:
“Chính phủ quyết định việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế (gọi chung
là người nước ngoài), người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất. Quyền và nghĩa vụ

16
của người

17
thuê đất do Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.” Như vậy, pháp luật nhà,
đất giai đoạn này không quy định cho người Việt Nam định cư nước ngoài được quyền sở
hữu nhà ở, đất đai.
+ Sau này, khi pháp luật đã quy định cụ thể hơn về quyền sở hữu của từng chủ thể khác
nhau, thì tại Khoản 2 Điều 126 của Luật Nhà ở 2005 có quy định như sau: “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều này đã về Việt Nam cư
trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn
hộ”. Tuy nhiên, bà Tuệ vẫn không đủ điều kiện về thời gian “cư trú với thời hạn phép từ sáu
tháng trở lên” nên cho đến thời điểm năm 2005 bà Tuệ vẫn không có được đứng tên mua
nhà.
Câu 3: Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam không?
- Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có thể đứng tên mua nhà đất ở Việt Nam. Bà Tuệ thuộc đối
tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam được quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật Nhà ở 2014
và có đủ điều kiện được công nhận quyền sở hữu nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật
nhà ở 2014. Theo "Giấy chứng nhận" ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Bà được
cấp "Giấy miễn thị thực" để nhập cảnh Việt Nam đến 18/6/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú
không quá 90 ngày.
- Điều 7. Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Điều 8. Điều kiện được công nhận quyền sở hữu nhà ở
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam; đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài thì phải có
đủ điều kiện quy định tại Điều 160 của Luật này.
- Đồng thời bà Tuệ đáp ứng các yêu cầu về giấy tờ chứng minh đối tượng được sở hữu nhà
ở quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP.
Điều 5. Giấy tờ chứng minh đối tượng được sở hữu nhà ở
2. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải có giấy tờ theo quy định sau đây:
a) Trường hợp mang hộ chiếu Việt Nam thì phải còn giá trị và có đóng dấu kiểm chứng
nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu;
b) Trường hợp mang hộ chiếu nước ngoài thì phải còn giá trị có đóng dấu kiểm chứng nhập
cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu và kèm theo giấy tờ
chứng minh còn quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam do Sở Tư
pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cơ
quan quản lý về người Việt Nam ở nước ngoài cấp hoặc giấy tờ khác theo quy định của
pháp luật Việt Nam.

18
Câu 4: Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu
nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ chưa?
Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà.
Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ. Đó là Quyết định số
60/2012/QĐ-GĐT ngày 06/11/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Nội
dung của quyết định như sau:
Bà Lá là người Việt Kiệt quốc tịch Pháp thường xuyên về Việt Nam thăm quê và có ý
định mua nhà ở Việt Nam. Căn cứ “Giấy giao nhận tiền vàng mua nhà”, chị Nhung đã ký
nhận của vợ chồng bà Lá 15 lượng vàng 24K và 500.000 đồng để mua căn nhà vợ chồng
ông Hải có “Giấy ủy quyền” tại Phòng công chứng như sau: “Vợ chồng bà Lá là Pháp kiều
nên không thể mua nhà ở Việt Nam nên nhờ chị Nhung đứng tên mua hộ căn nhà của vợ
chồng ông Hải, chị Nhung đứng tên mua hộ căn nhà của vợ chồng ông Hải, chị Nhung
không được sang bán.” Tranh chấp của vụ án cũng được Tòa án xử lý theo hướng xác định
quyền sở hữu căn nhà thuộc vợ chồng bà Lá.
Câu 5: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra
và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và
giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như sau: Tòa án công nhận cho bà Tuệ
được quyền sở hữu nhà và xem xét đến công sức quản lý, giữ gìn nhà cho gia đình ông
Bình. Do đó, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá trị hiện tại của nhà đất
tranh chấp được chia đôi cho bà Tuệ và gia đình ông Bình.
Câu 6: Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có,
nêu Án lệ đó.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ:
+ Án lệ số 02/2016/AL về vụ án "Tranh chấp đòi lại tài sản".
+ Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Thảnh.
+ Bị đơn: ông Nguyễn Văn Tám.
Nội dung án lệ:
Ngày 10/08/1993, bà Thảnh nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính, bà
Lý Thị Sà Quênh diện tích 7.595,7m2 đất ruộng tại Phường 7, thị xã Sóc Trăng với giá
21,99 chỉ vàng. Do bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà để cho ông Tám
đứng tên trong giấy tờ sang nhượng. Năm 2004, không được bà đồng ý, ông Tám đã chuyển
nhượng toàn bộ diện tích đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị
quyền sử dụng đất là 1.260.000.000 đồng. Vì vậy, bà yêu cầu ông Tám trả lại số tiền thu
được từ việc chuyển nhượng đất của bà.
Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

19
Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương
khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi
nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như
vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng
giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng
của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định công sức
của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và
đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định được chính xác công sức
của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia).
Tòa án cấp sơ thẩm công nhận bà Thảnh, ông Tám mỗi người có quyền sở hữu 1/2 số
tiền trên nhưng không trích trả cho bà Thảnh số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng là không
đúng.
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ công nhận bà Thảnh có quyền sở hữu số tiền tương ứng
với 21,99 chỉ vàng, còn lợi nhuận là số tiền còn lại tịch thu sung công quỹ nhà nước là
không đúng với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, không đảm bảo quyền lợi của các
đương sự. Quyết định:
Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DSPT ngày 25/8/2006 của Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số
04/2006/DS- ST ngày 28/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao chưa hoàn toàn hợp lý. Tòa án xem
xét đến công sức giữ gìn, quản lý nhà ở của gia đình ông Bình, chia đôi phần giá trị tăng
thêm (sau khi trừ số tiền mua nhà đất do bà Tuệ bỏ ra) cho bà Tuệ và ông Bình. Tuy nhiên,
Toà không đề cập đến những lợi ích mà ông Bình được hưởng trong quá trình ở tại nhà đất
nêu trên. Ông Bình cơi nới 2 phòng nhỏ cho sinh viên thuê, việc này bà Tuệ không biết.
Ngoài ra, bà Tuệ còn nghĩa tình mua nhà ở Yên Bái và đất và nhà ở Phú Thọ cho gia đình
ông Bình. Hướng giải quyết chia đôi giá trị tăng thêm của nhà đất như vậy chưa thực sự
đảm bảo quyền lợi cho bà Tuệ.

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

1. Tác giả: Đinh Thị Chiến


“Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động”
The right to unilaterally terminate the labour contract of the employer
Số báo: 09(130)/2019
Trang: 49-60

20
2. Tác giả: Nguyễn Thị Hoa
“Ban xử lý tranh chấp - Áp dụng mẫu hợp đồng Fidic và kinh nghiệm cho Việt Nam”
Dispute adjudication board - Application of Fidic forms of contracts and experience for
Vietnam
Số báo: 02(141)/2021
Trang: 86-95
3. Tác giả: Trần Thị Thuận Giang - Lê Tấn Phát
“Hiệu lực của hợp đồng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế: “Khoảng xám” cho xu hướng quay về áp dụng pháp luật quốc gia?”
Contract validity under United Nations Convention on Contracts for the International Sale
of Goods: The “grey zone” for the homeword trend?
Số báo: 05(126)/2019
Trang: 90-102
4. Tác giả: Đỗ Văn Đại - Lê Ngọc Anh
“Thỏa thuận không cạnh tranh sau khi chấm dứt hợp đồng lao động - Kinh nghiệm của nước
ngoài cho Việt Nam”
Non-compete agreement after terminating of labour contracts - Foreign experiences for
Vietnam
Số báo: 09(130)/2019
Trang: 61-76
5. Tác giả: Trần Ngọc Hiệp
“Kiểm soát nội dung hợp đồng theo mẫu theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”
Content control of standard form contract in accordance with Vietnam civil law
Số báo: 07(155)/2022
Trang: 77-87
6. Tác giả: Trần Việt Dũng - Nguyễn Thị Hoa
“Hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công tư: Một số phân tích và đánh giá về khung
pháp lý hiện hành của Việt Nam”
Investment agreement under the form of public-private partnership: Assessments of
Vietnam’s current legal framework
Số báo: 02(150)/2022
Trang: 13-22
7. Tác giả: Nguyễn Mai Linh
“Hợp đồng mẫu trong lĩnh vực xây dựng quốc tế - Thực tiễn sử dụng tại một số quốc gia và
Việt Nam”

21
Model contract in the field of international construction - Practice in some countries and
Vietnam
Số báo: 02(15)/2022
Trang 23-34
8. Tác giả: Trần Thanh Hương - Dương Anh Sơn
“Áp dụng pháp luật hợp đồng qua vụ án tranh chấp hợp đồng dịch vụ quảng cáo tại Thành
phố Hồ Chí Minh”
Application of contract law through the dispute case on advertising service contract in Ho
Chi Minh City
Số báo: 01(149)/2022
Trang: 78-90
9. Tác giả: Nguyễn Chí Công - Phạm Thị Hằng
“Áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế tại
tòa án Việt Nam - Những khó khăn, vướng mắc”
Application of foreign law in the settlement of international trade contract disputes ast
Vietnamese courts - difficulties and challenges
Số báo: 05(144)/2021
Trang: 39-46
10. Tác giả: Nguyễn Hoàng Thái Hy - Ngô Nguyễn Thảo Vy
“Nguyên tắc lấp lỗ hổng quy định trong công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế (CISG) - Kinh nghiệm cho Việt Nam”
Gap filling’s rule of Vienna Convention on Contracts for the International Sale of Goods
(CISG) - Experience for Vietnam
Số báo: 05(144)/2021
Trang: 47-60
11. Tác giả: Nguyễn Thị Bích Ngọc
“Điều 8 Công ước Vienna về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên Hợp quốc (CISG):
Nội dung các tiêu chí giải thích quyên bố, xử sự khác của một bên và thực tiễn áp dụng của
tòa án trọng tài quốc tế thuộc Phòng Công nghiệp Liên bang Nga”
Article 8 of Vienna Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG):
contents of criteria for interpreting declaration, other behaviour of one party and the
practice of application of the International Commercial Arbitration Court at the Chamber
of Commerce and Industry of the Russian Federation
Số báo: 09(139)/2020
Trang: 77-92
12. Tác giả: Huỳnh Quang Thuận - Đặng Thái Bình

22
“Quyền khởi kiện và sự ràng buộc của thỏa thuận trọng tài đối với người thứ ba trong hợp
đồng vì lợi ích của người thứ ba”
Right to sue and the binding effects of the arbitration agreement with a third party in the
contract for the benefit of the third person
Số báo: 08(138)/2020
Trang: 39-50
13. Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Huyền
“Tính dự liệu trước của thiệt hại và vấn đề giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
pháp luật hợp đồng”
Foreseeability and the limitation of liability in damages under contract law
Số báo: 08(138)/2020
Trang: 60-72
14. Tác giả: Đặng Thái Bình
“Điều kiện áp dụng chế định hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam - So sánh với pháp luật Nhật Bản”
Conditions for applying institution on contracts for the benefit of third parties in the Civil
Code of Vietnam – A comparison with Japanese law
Số báo: 08(129)/2019
Trang: 39 - 52
15. Tác giả: Lương Khải Ân
“Bàn về quy định trần lãi suất 20%/năm trong quan hệ hợp đồng vay tài sản”
On interest rate ceiling of 20% per year in civil property loan agreement-induced relations
Số báo: 03(133)/2020
Trang: 27 - 37
16. Tác giả: Đoàn Xuân Quang
“Bất cập trong pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng làm việc của viên chức và một
số kiến nghị”
Shortcomings in the law on settlement of public employees’ contractual disputes and some
recommendations for improvement
Số báo: 07(137)/2020
Trang: 64 - 72
17. Tác giả: Nguyễn Minh Hằng - Đoàn Thanh Huyền
“Luật áp dụng và lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế”
Applicable law and choice of law in international commercial contracts
Số báo: 07(137)/2020
Trang: 83 - 99

23
18. Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Trinh - Bùi Thị Quỳnh Trang
“Bồi thường thiệt hại tinh thần cho pháp nhân do hành vi vi phạm hợp đồng trong khuôn khổ
CISG”
Recoverability non-material damages arising out of the breach of contract to legal entity
under CISG
Số báo: 06(136)/2020
Trang: 78 -94
19. Tác giả: Nguyễn Hoàng Thái Hy
“Trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng do sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh theo
quy định của Công ước Vienna năm 1980”
Responsibility of the party violating contractual obligations due to a fundamental change of
circumstances under the provisions of the 1980 Vienna Convention
Số báo: 05(135)/2020
Trang: 49 - 62
20. Tác giả: Trần Thăng Long
“Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đầu tư quốc tế”
Settlement of disputes arising from international investment contracts
Số báo: 04(134)/2020
Trang: 103
Nguồn: Tạp chí pháp luật Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS. Đỗ Văn Đại,... (2017), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, NXB. Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.

2. Trần Văn Biên (2006), Hình thức hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, Tạp
chí Tòa án nhân dân, TAND tối cao, số 3, tr. 15-19.

3. Đỗ Văn Đại (2013), Hình thức bắt buộc của hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam:
Những bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí Luật học, Đai học Luật Hà Nội, số 02(153), tr.
3-14.

4. Lê Minh Hùng (2010), Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 01/2009.

24

You might also like