You are on page 1of 3

Tóm tắt Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013 của Tòa

dân sự Tòa án nhân dân tối cao.


Nguyên đơn: Châu Thị Nhất
Bị đơn: Nguyễn Văn Dưỡng
Bà Châu Thị Nhất trình bày: tài sản hai vợ chồng gồm 5 lô đất với tổng
diện tích 162,220 mét vuông. Sau khi đi Đài Loan về bà và ông Dưỡng ly
hôn mới biết ông Dưỡng bán lô đất đứng tên bà cho ông Võ Minh Tài. Bà
yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với ông
Tài vì ông Dưỡng giả chữ ký của bà để bán phần tài sản chung của hai vợ
chồng.
Ông Nguyễn Văn Dưỡng trình bày: Trong thời gian bà Nhất sang Đài
Loan ông phải nuôi 3 con nhỏ vì cần tiền nuôi con ăn học ông đã bán hết 5
lô đất, trong đó có lô đất đứng tên bà Nhất, ông ký tên bà để sang tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Minh Tài. Hai vợ chồng chỉ có
tài sản chung là hai lô đất, một lô bà Nhất đứng tên, một lô ông đứng tên,
lô đất em ông đứng tên không phải là tài sản chung của hai vợ chồng.
Từ đó xảy ra tranh chấp
Quyết định của các cấp xét xử:
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2012/DS-ST ngày 18/4/2014 của Tòa
án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang quyết định:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Châu Thị Nhất
và ông Võ Minh Tài là hợp đồng không có hiệu lực.
+ Công nhận quyền sử dụng của bà Châu Thị Nhất đối với thửa đất số
03.
+ Buộc các ông, bà Võ Thị Hậu, Võ Văn Dũng, Võ Văn Tân, Võ Minh
Tài, Châu Ngọc Diễm, Võ Minh Tiến và Huỳnh Thị Hồng Tươi phải trao
trả cho bà Châu Thị Nhất diện tích 29.554,5 mét vuông.
+ Kiến nghị UBND huyện Hòn Đất thu hồi và hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do ông Võ Minh Tài đứng tên năm 2003.
+ Buộc ông Nguyễn Văn Dưỡng phải có trách nhiệm bồi thường giá trị
quyền sử dụng đất cho ông Võ Minh Tài, bà Châu Ngọc Diễm
455.392.000đ
+ Tòa án quyết định án phí
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 199/2012/DS-PT ngày 17/9/2012, Tòa
án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã sửa bản án sơ thẩm: Bác bỏ đơn khỏi kiện
của bà Châu Thị Nhất về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 26/11/2003 với ông Nguyễn Văn Dưỡng ký thay
bà Châu Thị Nhất với ông Võ Minh Tài, công nhận quyền sử dụng đất đới
với thửa đất số 3, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 8/9/2003
cho anh Võ Minh Tài. Tòa án quyết định án phí
Câu hỏi
Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
Người được yêu cầu hợp đồng vô hiệu là ông Võ Minh Tài do bị lừa dối,
nếu ông Tài không biết ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà Nhất khi tiến
hành giáo kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Căn cứ pháp
lý điều 127 Bộ luật dân sự 2015
Người không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tranh chấp vô
hiệu là bà Nhất do việc phân chia tài sản chung vợ chồng ly hôn giữa bà
Nhất và ông Dưỡng chưa được giải quyết và đến nay đã được Toà án cấp
sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm thu thập chứng cứ để làm rõ. Nếu diện
tích đất chung đang tranh chấp chưa được giải quyết trong vụ án ly hôn
giữa bà Nhất và ông Dưỡng thì phải xác định đây là tài sản chung vợ
chồng khi quan hệ hôn nhân còn tồn tại, và như trên đã nêu, bà Nhất
không có quyền khởi kiện đối với ông Dưỡng về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” vì quyền sử dụng đất đó là tài
sản chung vợ chồng chưa chia. Nếu đã được giải quyết trong vụ án ly hôn
giữa bà Nhất và ông Dưỡng thì xác định quyền khởi kiện của bà Nhất theo
quyền của bà Nhất được xác định trong bản án, quyết định ly hôn chia tài
sản chung vợ chồng.
Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
Theo tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa
dối là không còn vì căn cứ theo khoản 1 điều 136 Bộ luật dân sự năm 2005
quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối là hai năm kể từ ngày giao dịch
được xác lập. Còn điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong trường
hợp không có quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự là hai năm, kể từ ngày người có quyền khởi kiện biết được quyền
và lợi ích của mình bị xâm phạm. Nhưng bà Nhất khai năm 2007, bà biết
ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất giao cho ông Tài
nhưng đến 10/12/2010 bà Nhất mới khởi kiện thì cũng đã hết thời hiệu
khởi kiện.
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Tòa án sẽ công nhận hợp đồng do căn cứ vào khoản 2 điều 132
Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số
210?

You might also like