You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC DÂN SỰ 1


BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI
(GIAO DỊCH DÂN SỰ)
BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI: GIAO DỊCH DÂN SỰ

BÀI TẬP 1: Năng lực pháp luật dân sự của thể trong xác lập giao
dịch
CÂU 1. So với BLDS 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.

BLDS 2005 BLDS 2015


Năng Người tham gia có năng lực Có thêm điều kiện: Chủ thể có năng
lực của hành vi dân sự lực pháp luật dân sự, năng lực hành
chủ thể vi dân sự phù hợp với giao dịch dân
sự được xác lập
Điều Mục đích và nội dung của giao Hạn chế phạm vi điều chỉnh của Luật,
cấm dịch không vi phạm điều cấm hẹp hơn so với quy định của BLDS
của pháp luật 2005: Mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật
Mục Điều 123 BLDS 2005: Mục đích Điều 118 BLDS 2015: Mục đích và
đích và của giao dịch dân sự là lợi ích nội dung của giao dịch dân sự không
nội dung hợp pháp mà các bên mong vi phạm điều cấm của luật
muốn đạt được khi xác lập giao
dịch đó
Giới hạn Hình thức giao dịch dân sự là Làm hẹp đi yêu cầu về hình thức:
về hình điều kiện có hiệu lực của giao Hình thức của giao dịch dân sự là điều
thức dịch trong trường hợp pháp luật kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
có quy định trong trường hợp luật có quy định

- Suy nghĩ về sự thay đổi trên: Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong
BLDS 2015 có những điểm mới và tiến bộ hơn so với BLDS 2005. Trong điều
117 BLDS 2015 không chỉ đề cập đến năng lực hành vi dân sự mà còn đề cập
đến năng lực pháp luật của chủ thể. Quy định như vậy hợp lí và chặt chẽ hơn so
với BLDS 2005 tại điều 122. BLDS 2015 thu hẹp phạm vi điều chỉnh của các
điều cấm và hình thức giao dịch dân sự, hạn chế sự tự do như quy định của
BLDS 2005.

CÂU 2. Đoạn nào của bản án cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà
ở tại Việt Nam?

- Theo bản án, đoạn cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà đất tại
Việt Nam: "Ông T và bà H là người Việt Nam đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo
quy định Luật đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì ông
T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây
lâu năm tại Việt Nam."
CÂU 3. Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ
đã bị Toà án tuyên bố vô hiệu?

- Theo bản án, đoạn cho thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ đã bị Toà án
tuyên bố vô hiệu: "Ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở
nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy cho
nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 2/6/2004, giấy cam
kết ngày 16/3/2011 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và do không
tuân thủ theo quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của BLDS" và
đoạn "Vô hiệu giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư
ngày 02/6/2004 và cam kết ngày 16/3/2011 mà các bên đã xác lập do vi phạm
điều cấm của pháp luật."

CÂU 4. Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ
thể) về căn cứ để Toà án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?

- Điều 116 BLDS 2015 quy định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự.
- Giao dịch dân sự vô hiệu khi không có một trong các điều kiện quy định tại
Điều 117 BLDS 2015, cụ thể:
 Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập
 Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
 Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội
 Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định

BÀI TẬP 2: Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận
thức
CÂU 1. Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ
thời điểm nào ông Hội bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?

- Năm 2007 là thời điểm ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức, tại
thời điểm này ông đã bị tai biến và nằm liệt một chỗ.
- Ngày 10/8/2010 Toà án nhân dân Thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội bị mất
năng lực hành vi dân sự.

CÂU 2. Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau
khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?

- Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước khi ông Hội bị
tuyên mất năng lực hành vi dân sự.
- Giao dịch được diễn ra vào ngày 8/2/2010 còn ông Hội bị tuyên mất năng lực
hành vi dân sự vào ngày 10/8/2010.

CÂU 3. Theo Toà án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?

- Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội chưa thể xác định là
có vô hiệu hay không.
- Vì theo phần xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 329/2013/DS-GĐT
ngày 25/7/2013, Toà án nhân dân tối cao cho rằng vì trong lúc giao dịch diễn ra
thì ông Hội chưa chết và bà Ánh hoàn toàn không có quyền khởi kiện, nhận
thấy trong cách giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao thì chưa thể hiện rõ
được kết quả mà đã hủy bỏ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, cuối
cùng giao bản án lại cho Tòa án nhân dân Thành Phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên
xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
- Cơ sở quy định: Điều 192 Bộ Luật Tố Tụng Dân sự 2015

CÂU 4. Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Toà án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà
anh/chị biết.

- Xét Bản án số 01/2006/DS-ST ngày 21/02/2006 Toà án Nhân dân huyện Văn
Chấn tỉnh Yên Bái
- Tóm tắt vụ việc: Ông Cường và bà Bính có diện tích đất 288m 2 chuyển nhượng
cho anh Thăng (con riêng của bà Bính) là một phần trong tổng diện tích mà mẹ
ông Cường để lại sau khi chết không có di chúc. Thời điểm chuyển dịch quyền
sử dụng đất trên là ngày 20/01/2004. Toà án căn cứ quy định của pháp luật về
thừa kế để chia cho ông Cường được sử dụng 288m2 đất trên và đây được coi là
tài sản riêng của ông Cường. Ngày 10/08/2005 anh Hưng là con trai của ông
Cường với bà Chế (vợ cũ ông Cường) mới đăng ký giám hộ cho ông Cường.
Theo đề nghị của anh Hưng, TAND huyện Văn Chấn đã ra Biên bản quyết định
trưng cầu giám định pháp y tâm thần với ông Cường. Tại giám định pháp y tỉnh
đã kết luận: "Ông Cường bị mắc bệnh 'loạn thần do sử dụng rượu', thời điểm
mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004. Trên cơ sở giám định như trên, ông Cường
được coi là người mất hoàn toàn năng lực hành vi dân sự từ trước 01/01/2004
thì bà Bính là vợ ông Cường trong mọi giao dịch dân sự phải tham gia với tư
cách là người giám hộ để đại diện cho ông Cường nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ông Cường. Nhưng trên thực tế trong quá trình giao kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Bính đã không tham gia giao kết
với tư cách là người giám hộ của ông Cường, không đăng ký việc giám hộ mà
tham gia ký kết hợp đồng như một chủ thể sở hữu tài sản với chính con riêng
của bà Bính là anh Thăng. Như vậy trong quá trình giao kết và thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Cường không hề có người giám
hộ và không có ai đăng ký việc giám hộ cho ông Cường theo quy định của
Điều 58 và 62 BLDS.
- Hướng giải quyết của Toà án: TAND huyện Văn Chấn cho rằng anh Thăng đã
ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Cường là người
mất năng lực hành vi dân sự, và bà Bính vẫn là người không có quyền định
đoạt, xử lý tài sản là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng mà không có sự
tham gia của người đại diện cho ông Cường. Vì vậy đã phát sinh một hợp
đồng với các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định tại Điều 133
BLDS. Vì vậy cần căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 137 BLDS để hủy
hợp đồng chuyển nhượng nêu trên và xử buộc anh Thăng trả lại 288m 2 đất thổ
cư cho ông Cường và người đại diện và anh Hưng.

CÂU 5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao
trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp
lý khi đưa ra hướng để xử lí ?

- Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong vụ việc trên khá là hợp lý
- Vì thực chất khi giao dịch dân sự được xác lập vào ngày 8/02/2010 thì ông Hội
Đã không nhận thức làm chủ được hành vi của mình, không tự nguyện xác lập
giao dịch, vậy nên giao dịch dân sự đó bị vô hiệu.
- Cơ sở pháp lý: theo Điều 122 và Điểm b Khoản 1 Điều 117 BLDS 2015

CÂU 6. Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch
đó có bị vô hiệu không? Vì sao?

- Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó
không bị vô hiệu.
- Bởi lẽ, khi diễn ra giao dịch tặng cho không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích
tương đương của ông Hội.
- Cơ sở pháp lý: Điểm b Khoản 2 Điều 125 BLDS 2015: "Giao dịch dân sự chỉ
làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập,
thực hiện giao dịch với họ."

BÀI TẬP 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối


CÂU 1. Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo BLDS
2005 và BLDS 2015

- Theo Điều 132 BLDS 2005 (nay là Điều 127 BLDS 2015), điều kiện để tuyên
bố một giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối:
 Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu
 Định nghĩa về lừa dối: Lừa dối trong giao dịch là hành vi có ý của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch chủ thể, tính chất
của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó
CÂU 2. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý một bên cố tình
không cung cấp thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch

- Trung Quốc: BLDS Trung Quốc


 Theo Điều 52 BLDS của Trung quốc quy định các trường hợp hợp đồng bị vô
hiệu:
 Khoản 1: các bên đã đạt được việc giao kết hợp đồng bằng gian lận, cưỡng ép
và vì thế làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà nước
 Khoản 2: các bên đã không trung thực, và do đó làm hại đến quyền lợi của nhà
nước của tập thể hoặc của bất kỳ người thứ ba nào
 Quyền huỷ hợp đồng tại Điều 55 BLDS Trung Quốc, quyền huỷ hợp đồng của
một bên sẽ bị huỷ khi:
 Bên đó đã không thực hiện quyền huỷ hợp đồng trong vòng 1 năm, bắt đầu tính
từ ngày bên đó biết về căn cứ của việc huỷ
 Khước từ quyền huỷ hợp đồng bằng tuyên bố hoặc hành vi rõ ràng.

- Pháp: BLDS Pháp 2018


 Điều 1128: Các điều kiện cần thiết để hợp đồng có hiệu lực gồm:
 Sự thỏa thuận của các bên;
 Năng lực giao kết hợp đồng của các bên;
 Nội dung hợp đồng hợp pháp và chắc chắn.
 Điều 1137: Lừa dối là việc một bên ký kết có được sự chấp thuận của bên kia
bằng thủ đoạn hoặc nói dối. Cũng bị coi là lừa dối việc một bên cố tình che
giấu một thông tin mà họ biết thông tin đó có tính quyết định đối với bên kia.
 Điều 1138: Cũng bị coi là lừa dối nếu lừa dối xuất phát từ người đại diện,
người thực hiện công việc không có ủy quyền, người phụ thuộc hoặc người
cam kết thay cho người khác của một bên ký kết. Cũng bị coi là lừa dối nếu lừa
dối xuất phát từ một bên thứ ba thông đồng.
 Điều 1144: Thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu chỉ được tính kể từ
ngày phát hiện có nhầm lẫn hoặc lừa dối, hoặc ngày chấm dứt bạo lực.
 Điều 1178 Hợp đồng không đáp ứng các điều kiện cần thiết để có hiệu lực thì
bị vô hiệu.
 Hợp đồng vô hiệu phải do Toà án tuyên bố, trừ trường hợp các bên cùng thỏa
thuận xác nhận hợp đồng vô hiệu.
 Hợp đồng bị hủy bỏ thì được coi như chưa từng tồn tại.
 Các nghĩa vụ đã được thực hiện thì sẽ phải hoàn trả theo quy định tại các điều
từ điều 1352 đến điều 1359.
 Không phụ thuộc vào việc hủy bỏ hợp đồng, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại theo quy định chung về trách nhiệm ngoài hợp đồng.

CÂU 3. Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị
tuyên vô hiệu do có lừa dối?

- Theo Quyết định, đoạn cho thấy thoả thuận hoán nhượng đã bị tuyên vô hiệu
do lừa dối: "Việc anh Vinh và người liên quan không thông báo cho ông Đô,
bà Thu biết tình trạng về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết
định thu hồi, giải toả, đền bù là có sự gian dối... Do vậy, giao dịch "Thỏa thuận
hoán nhượng" giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132
BLDS để giải quyết."

CÂU 4. Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền
lệ anh/chị biết.
- Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ, đó là bản án số 08/2017/DS-PT ngày
20/02/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên Toà phúc
thẩm xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 67/2016/TLPT-DS ngày
18/1/2016 về việc "Tranh chấp hợp đồng đặt cọc", do bản án dân sự sơ thẩm
số 39/2016/DS-ST ngày 11/10/2016 của Toà án nhân dân quận N, TP Đà Nẵng
bị kháng cáo. Tóm tắt bản án: ông Huỳnh X và bà Phạm Thị D có một lô đất
sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên ông T đã liên hệ với vợ
chồng ông X, bà D để lập một giấy cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng
đất. Tuy nhiên sau khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tiền đặt cọc
của ông T, ông X và bà D không thực hiện như cam kết trước đó. Ở bản án sơ
thẩm, Toà sơ thẩm đã tuyên cam kết chuyển quyền sử dụng đất giữa 2 bên là
vô hiệu và buộc ông X, bà D trả lại tiền cọc. Ở bản án phúc thẩm, Toà phúc
thẩm đã tuyên sửa bản án sơ thẩm, buộc ông X, bà D bồi thường tiền vi phạm
hợp đồng.

CÂU 5. Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì
sao?

- Hướng giải quyết trên vẫn phù hợp với BLDS năm 2015. Vì khi xét việc anh
Vinh đã giấu ông Đô, bà Thu về quyết định cưỡng chế nhà và không cho vợ
chồng bà biết nhà và đất đã bị giải toả khi hai bên ký kết “Thỏa thuận hoán
nhượng” ngày 20/05/2004 dẫn đến việc ông Đô, bà Thu đã ký thỏa thuận, căn
cứ Điều 127 và Điểm b Khoản 1 Điều 132 BLDS 2015, vẫn đủ điều kiện khẳng
định “Thỏa thuận hoán nhượng” là một giao dịch vô hiệu do có lừa dối.

CÂU 6. Trong Quyết định số 210, theo Toà án, ai được yêu cầu và ai không được
yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?

- Trong Quyết định số 210, theo Toà án: Ông Tài có quyền khởi kiện yêu cầu
Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, nếu ông Tài không biết việc
ông Dương giả mạo chữ ký của bà Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Bà Nhất không được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu.
Vì theo quy định của BLDS 1995 và BLTTDS 2004, bà Nhất không phải là
một bên tham gia giao dịch với ông Tài nên bà Nhất không có quyền.

CÂU 7. Trong Quyết định số 210, theo Toà án, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
- Trong Quyết định số 210, theo Toà án, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối là không còn.
- Vì theo Khoản 1 Điều 136 BLDS 2005 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu
tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu do bị lừa dối
là 2 năm kể từ ngày thực hiện giao dịch, Điều 159 BLTTDS 2004 quy định
trong trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời
hiệu khởi kiện dân sự là 2 năm. Bà Nhất biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ ký
để lập hợp đồng với ông Tài là năm 2007, còn thời gian bà Nhất khởi kiện là
năm 2010, vượt quá thời hiệu của BLDS 2005 và BLTTDS 2004 quy định.

CÂU 8. Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối, Toà án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?

- Thời điểm bà Nhất khởi kiện là 13/12/2010 như vậy áp dụng theo BLDS 2005.
BLDS 2005 chỉ đề cập đến việc còn hay mất quyền khởi kiện mà không quy
định rõ khi đã hết thời hiệu khởi kiện thì giao dịch sẽ thế nào. Đối với trường
hợp hết thời hiệu yêu cầu Toà án hay Trọng tài tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu do lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn thì Toà án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn
theo hướng giao dịch dân sự có hiệu lực tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày 10/08/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Như vậy,
căn cứ vào hướng dẫn của Toà tối cao thì trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Toà
án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Toà án có công nhận hợp đồng.

CÂU 9. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định
tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?

- Với câu 6, câu trả lời không thay đổi. Vì Điều 132 BLDS 2005 và Điều 127
BLDS 2015 có nội dung giống nhau.
- Với câu 7, câu trả lời không thay đổi. Mặc dù theo Điểm b Khoản 1 Điều 132
BLDS 2015, thời hiệu tuyên bố hợp đồng vô hiệu được tính từ ngày bà Nhất
biết chuyện, khác với Điều 136 BLDS 2005 thời hiệu được tính từ ngày xác lập
giao dịch, nhưng đến khi bà Nhất đi kiện thì cũng đã vượt qua thời hiệu là hai
năm. (Từ 8/2007 đến 10/12/2010)
- Với câu 8, câu trả lời không thay đổi. Căn cứ Khoản 2 Điều 132 BLDS: "Hết
thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực."

BÀI TẬP 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu


CÂU 1. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Theo Khoản 1 Điều 131: "Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch
được xác lập."
- Vậy nên giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa
các bên.

CÂU 2. Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty
Phú Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối
lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?

- Khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ phải thanh toán
cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện.
- Theo Khoản 2 điều 131: "Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không
thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả."

CÂU 3. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?

- Hội đồng thẩm phán chưa thể xác định được khối lượng công việc mà Công ty
Orange đã thực hiện vì chưa đủ căn cứ từ hai bên đương sự nên Hội đồng thẩm
phán phải đưa ra yêu cầu các bên cung cấp tài liệu, chứng cứ để làm rõ một số
vấn đề như:
- Công ty Orange đã bàn giao sản phẩm thiết kế vào ngày nào?
- Khối lượng công việc và sản phẩm thiết kế được bàn giao bao gồm các nội
dung được Công ty Orange thực hiện có đúng với thỏa thuận giữa hai bên
không?
- Trong vòng 10 ngày sau khi bàn giao, Công ty Phú Mỹ có ý kiến phản hồi về
sản phẩm không (nếu có phản hồi thì phản hồi bằng gì hình thức nào, nếu
không có phản hồi thì sau khi bàn giao sản phẩm hai bên có thỏa thuận gì khác
không)?
- Có việc Công ty Orange tiếp tục bàn giao các bản thiết kế sau khi hoàn chỉnh
theo yêu cầu của Công ty Phú Mỹ vào tháng 11/2007 và tháng 01/2008 như
trình bày của công ty Phú Mỹ hay không (nếu có việc bàn giao này thì bàn giao
trên cơ sở thỏa thuận nào giữa hai bên)?
- Công ty Phú Mỹ đã sử dụng một phần hay toàn bộ thiết kế của Công ty Orange
và Công ty Phú Mỹ đã phải thuê Công ty khác hoàn thiện thiết kế như thế nào...
- Sau đó mới tiếp tục giải quyết theo hai hướng là:
 Hướng thứ nhất: Xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú
Mỹ thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận của hợp đồng.
 Hướng thứ hai: Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ
phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng
công việc mà Công ty Orange đã làm theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi
suất do thanh toán chậm.
CÂU 4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán
liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định
hợp đồng vô hiệu.

- Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối lượng công
việc mà Công ty Orange thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu là hợp lý.
- Do BLDS không nêu rõ việc "không hoàn trả được bằng hiện vật" và "hoàn trả
bằng tiền" vào khi nào, "trị giá thành tiền để hoàn trả" là bao nhiêu nên trên cơ
sở của các quy định này, vì vậy Toà án có thể lý giải hướng giải quyết bằng
những gì đã xảy ra trong các trường hợp trên trước khi bị hợp đồng tuyên bố vô
hiệu (được xem là không hoàn trả được bằng hiện vật) nên phải hoàn trả bằng
tiền và khoản tiền phải trả là bằng chính khoản tiền đã được các bên thỏa thuận
trước đó.
- Việc hoàn trả lẫn nhau những gì đã làm là một hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Công ty Phú Mỹ đã hưởng lợi từ hợp đồng với Công ty Orange qua việc sử
dụng (một phần) bộ bản vẽ chi tiết của Công ty Orange để xin Giấy phép xây
dựng và tiến hành xây dựng trên thực tế nên việc khôi phục lại tình trạng ban
đầu bằng hoàn trả hiện vật là không thể.
- Nếu sau khi làm rõ các vấn đề Hội đồng thẩm phán đưa ra mà Công ty Orange
chứng minh được đã thực hiện theo đúng Điều 4 Hợp đồng dịch vụ được ký kết
giữa hai bên thì việc Công ty Phú Mỹ phải trả cho Công ty Orange một khoản
tiền đúng với công việc mà Công ty Orange đã thực hiện.

CÂU 5. Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không
vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu
như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?

- Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với lượng công việc mà Công ty
Orange đã thực hiện nếu xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu là:
 Khi Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán
cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do thanh
toán chậm theo quy định của pháp luật.
- Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu ở hai
chỗ:
 Đề cập đến tiền lãi suất do thanh toán chậm.
 Đã nêu được cụ thể hơn số tiền mà Công ty Phú Mỹ phải trả đó là theo thỏa
thuận tại hợp đồng.
- Theo quan điểm của nhóm thì chủ đề thanh toán khối lượng công việc và lãi
suất trong trường hợp hợp đồng vô hiệu chưa được rõ ràng, minh bạch hoàn
toàn. Vì từ những hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán ta thấy được các Toà
án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu và chưa
làm rõ các vấn đề về tính hợp pháp của hợp đồng mà đã xác định hợp đồng hợp
pháp là chưa thỏa mãn => Sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác để
làm rõ hơn các vấn đề nêu trên.
CÂU 6. Trong Quyết định số 75, vì sao Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu?

- Trong Quyết định số 75, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp đồng
vô hiệu vì:
 Ngày 26/6/2006, khi ông Sanh yêu cầu phải hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng
theo quy định của pháp luật thì vợ chồng anh Dư, chị Chúc không thực hiện.
 Ngày 18/10/2010, TAND huyện Yên Lạc đã có Quyết định số 01/TA gia hạn
để các bên thực hiện quy định về mặt hình thức nhưng vợ chồng anh Dư, chị
Chúc cũng không thực hiện.
 Theo quy định tại Điều 134 BLDS 2005: "Trong trường hợp pháp luật quy định
hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên
không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình
thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì
giao dịch vô hiệu."
- Vì vậy, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu.

CÂU 7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu trong Quyết định trên.

- Theo quan điểm của nhóm thì việc Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng chuyển nhượng chỉ vi phạm về hình thức vô hiệu trong Quyết
định trên là có phần chưa hợp lý.
- Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng trên vi phạm về mặt hình thức nhưng ông
Sanh đã thực hiện 82,051% giá trị hợp đồng nên Toà án hoàn toàn có thể công
nhận hiệu lực cả giao dịch dân sự này theo yêu cầu của ông Sanh căn cứ theo
Khoản 1 điều 129 BLDS 2015: "Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện
có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: 1. Giao dịch dân
sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không
đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần
ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Toà án
ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó."

CÂU 8. Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh
sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Các cơ sở pháp lý:


 Khoản 2 điều 131 BLDS 2015: "Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận." Thực tế, ông
Sanh đã đưa cho vợ chồng anh Dư, chị Chúc số tiền chuyển nhượng là
160.000.000 đồng nên ông sẽ nhận lại số tiền như ban đầu này.
 Khoản 4 điều 131 BLDS 2015 quy định: "Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi
thường" => Anh Dư, chị Chúc phải bồi thường cho ông Sanh thiệt hại do lỗi
gây ra là 330.255.000 đồng và thanh toán cả giá trị công trình xây dựng trên đất
là 81.500.000 đồng.
- Tổng số tiền mà ông Sanh sẽ được bồi thường là: 571.755.000 đồng.

CÂU 9. Trong Bản án số 133, Toà án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng
nhận cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ
quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ
quả của giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?

- Trong bản án số 133, Toà án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng nhận
cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan
có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là hệ
quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
- Vì:
 Từ đầu giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất của khu đất đó mang tên ông
Văn và bà Tằm, sau khi hợp đồng chuyển nhượng thành công thì anh Dậu tách
giấy chứng nhận thành 3 và mang tên 3 anh em.
 Nhưng hợp đồng chuyển nhượng đất từ ông Văn, bà Tằm sang anh Dậu có yếu
tố lừa dối, ông Văn không biết hợp đồng mình kí với anh Dậu là hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất do tin lời con trai nói rằng đó là hợp đồng
vay ngân hàng. Căn cứ theo Điều 127 BLDS 2015 thì hợp đồng chuyển nhượng
bị vô hiệu.
 Căn cứ theo Khoản 2 điều 131 BLDS 2015 về Hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu: "Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu."

You might also like