You are on page 1of 2

4.

Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không và Tòa án đã giải
quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết.
Xét Bản án số 01/2006/DSST ngày 21/02/2006 Tòa án Nhân dân huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái
-Tóm tắt vụ việc:
Ông Cường và bà Bính có diện tích đất 288m2 chuyển nhượng cho anh Thăng (con riêng của bà
Bính) là một phần trong tổng diện tích mà mẹ ông Cường để lại sau khi chết không có di chúc.
Thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất trên là ngày 20/01/2004.
Tòa án căn cứ quy định của pháp luật về thừa kế để chia cho ông Cường được sử dụng 288m2
đất trên và đây được coi là tài sản riêng của ông Cường. Ngày 10/08/2005 anh Hưng là con trai
của ông Cường với bà Chế (vợ cũ ông Cường) mới đăng ký giám hộ cho ông Cường. Theo đề
nghị của anh Hưng, TAND huyện Văn Chấn đã ra Biên bản quyết định trưng cầu giám định pháp
y tâm thần với ông Cường. Tại giám định pháp y tỉnh đã kết luận: “Ông Cường bị mắc bệnh
‘loạn thần do sử dụng rượu’, thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004. Trên cơ sở giám
định như trên, ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực hành vi dân sự từ trước
01/01/2004 thì bà Bính là vợ ông Cường trong mọi giao dịch dân sự phải tham gia với tư cách là
người giám hộ để đại diện cho ông Cường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Cường. Nhưng trên thực tế trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, bà Bính đã không tham gia giao kết với tư cách là người giám hộ của ông Cường, không
đăng ký việc giám hộ mà tham gia ký kết hợp đồng như một chủ thể sở hữu tài sản với chính
con riêng của bà Bính là anh Thăng. Như vậy trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Cường không hề có người giám hộ và không có ai đăng
ký việc giám hộ cho ông Cường theo quy định của Điều 58 và 62 BLDS.
-Hướng giải quyết của Tòa án:
TAND huyện Văn Chấn cho rằng anh Thăng đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với ông Cường là người mất năng lực hành vi dân sự, và bà Bính vẫn là người không có
quyền định đoạt, xử lý tài sản là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng mà không có sự tham
gia của người đại diện cho ông Cường. Vì vậy đã phát sinh một hợp đồng với các giao dịch dân
sự vô hiệu do vi phạm quy định tại điều 133 BLDS. Vì vậy cần căn cứ vào quy định tại khoản 2
điều 137 BLDS để hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên và xử buộc anh Thăng trả lại 288m2
đất thổ cư cho ông Cường và người đại diện và anh Hưng.

5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ
việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi đưa ra
hướng xử lý.
Cơ sở pháp lý hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên (liên quan đến
giao dịch do ông Hội xác lập) là hợp lý, vì:
Giao dịch mua bán giữa bà Hương với vợ chồng ông Hùng, bà Trinh diễn ra ngày 08/02/2010
nhưng vào năm 2007 ông Hùng đã mất năng lực hành vi dân sự, đến ngày 10/08/2010 Tòa án
nhân dân thành phố Tuy Hòa mới tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự, bên cạnh đó
bà Hương không phải là người đại diện theo pháp luật của ông Hội mà là chị Ánh, nên chị Ánh
khởi kiện là hợp pháp. Theo khoản 1 Điều 125 BLDS 2015: “ Khi giao dịch dân sự do người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của
người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp
luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này.” vì vậy giao dịch phải do chị Ánh xác lập, thực hiện cho nên giao
dịch này là vô hiệu. Cần xác minh làm rõ phần diện tích 43,7m2 có đăng ký kê khai có đủ điều
kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không, vì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nên hợp đồng mua bán giữa bà Hương và ông Hùng là vô hiệu.

You might also like