You are on page 1of 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


----------------------------------

BUỔI THẢO LUẬN TUẦN THỨ BA

MÔN : NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,TÀI SẢN VÀ


THỪA KẾ

CHỦ ĐỂ: TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Họ và tên: Nguyễn Thị An Kiều


Mã số sinh viên: 2353801014091
Lớp HC48A2
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN.
Tóm tắt:
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa......................................................................................................................3
- Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ
tỉnh Vĩnh Long....................................................................................................3
- Bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh. ...............................................................................................3
- Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre;
- Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao. ............................................................................................4
1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá. .................................................................................................5
2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không? .........................................................................................5
3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu
trả lời không? Vì sao?..........................................................................................6
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài);....7
5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao? .....................................................7
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”. .... 8
7. Bitcoin là gì?........................................................................................................8
8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?..........8
9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật
Việt Nam không?..................................................................................................9
10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết. ....................................................................................9
11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?.............9
12. Quyền tài sản là
gì? ..........................................................................................................................
..10
13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?.....................................................................................................10
14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản? .....................................................................10
15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm
tài sản)? ..............................................................................................................10
VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Tóm tắt Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ................................................................................................11
1
1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án? .........................................................................12
2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án? ............................................................13
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án? ............................................................14
4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? ......................................................15
5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án? .........................................................................................16
6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?.......17
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời. ..........................................................................................................17
2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. ......................................................................................................................17
3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. .............................................................................................18

2
VẤN ĐỀ 1
KHÁI NIỆM TÀI SẢN
Tóm tắt: Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân
tỉnh Khánh Hòa
- Nguyên đơn: Ông Phan Hai.
- Bị đơn: Ông Phan Quốc Thái.
- Vấn đề tranh chấp: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Nội dung: Ông Phan Hai khởi kiện ông Phan Quốc Thái và yêu cầu ông Thái
trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lương Thị Xàm. Tuy
nhiên, Tòa án sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án vì cho rằng giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không phải là loại giấy tờ có giá, vì vậy không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án . Vì không chấp nhận được điều này nên ông Phan
Hai đã làm đơn kháng cáo.
- Quyết định của Tòa án: Tòa phúc thẩm vẫn quyết định từ chối yêu cầu kháng
cáo ngày 12/5/2017 của Viện kiểm sát huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa và
trả lại đơn kiện của ông Hai cùng các quyết định và chi phí dân sự khác.

Tóm tắt: Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long
- Nguyên đơn: 1. Ông Võ Văn B; 2. Bà Bùi Thị H.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thủy T.
- Vấn đề tranh chấp: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Nội dung: Bà T bị ông B và bà H yêu cầ trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AM 090902 thửa đất 1959 với diện tích là 489,1m2 do Nhà nước cấp cho.
Tuy nhiên, do gia đình ông B sử nhà nên dọn hết đồ ra sân và phát hiện mất
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau 10 ngày vào năm 2012. Sau đó, ông B
đã báo mất với UBND huyện Long Hồ và được UBND huyện Long Hồ chấp
nhận cấp lại, nhưng ông B lại không nhận được giấy mới vì lý do đã có người
tranh chấp.
- Quyết định của Tòa án: Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
B và bà H, buộc bà T giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B
cùng một số quy định khác.

Tóm tắt: Bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
- Người bị hại: Ông Lê Đức Nguyên.

3
- Bị cáo: Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí Hải, Trịnh Tuấn Anh,
Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Bùi Quang Trung, Phạm Văn Thành,
Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Đức.
- Vấn đề: Vụ cướp tài sản của nhóm anh Tài đối với anh Nguyên để đòi lại số
tiền đã mất.
- Nội dung: Anh Lê Đức Nguyên đã khuyên anh Hồ Ngọc Tài và anh Trần Ngọc
Hoàng để bán khoảng 1000 Bitcoin trị giá 100 tỷ đồng để mua các loại tiền điện
tử mới, nhưng không thành công. Anh Tài tin rằng anh bị lừa bởi anh Nguyên
và đã kêu gọi anh Hoàng tham gia để tìm kiếm anh Nguyên và buộc anh ta hoàn
trả số tiền đã mất.
- Quyết định của Tòa án: Tuyên bố các bị cáo về tội danh “Cướp tài sản”.

Tóm tắt Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre;
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt Cường.
- Bị đơn: 1. Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre; 2. Cục trưởng Cục
thuế tỉnh Bến Tre.
- Vấn đề: Về việc quyết định truy thu thuế.
- Nội dung: Vào ngày 15/06/2017, ông Cường đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa
án hủy Quyết định số 714QĐCCT ngày 12/05/2016 của Chi cục trưởng Chi cục
thuế thành phố Bến Tre và Quyết định số 1002QĐCT ngày 08/05/2017 của Cục
trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre về việc phải đóng thuế giá trị gia tăng và thuế thu
nhập cá nhân khi giao dịch tiền ảo là không hợp lý.
- Quyết định của Tòa án: Tòa án chấp nhận yêu cầu đơn kiện của ông Cường,
hủy các quyết định của Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre áp dụng
với ông Cường.

Tóm tắt: Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L.
- Tranh chấp: Về tài sản thừa kế.
- Nội dung: Bà H khởi kiện bà L vì tranh chấp tài sản do ông T để lại. Ông T có
3 người con với bà C là bà H, ông T1 và T2. Năm 1954, ông T tập kết ra Bắc.
Năm 1964 bà C có chồng khác. Năm 1976, ông T về chung sống với cụ C4
nhưng không đăng ký kết hôn, bà C4 có 2 người con riêng là L và H1. Cụ T
được quân đội cấp cho căn nhà số 63 đường B. Cụ T trước khi chết đã để lại
4
giấy ủy quyền về quyền lợi, nghĩa vụ với căn nhà cho bà L .Năm 1995, cụ T
chết không để lại di chúc. Năm 1998 bà L có đơn xin mua hóa giá căn nhà thì
bà H và ông T1 khiếu nại, trong đơn giải quyết khiếu nại thì cả 3 đã đồng ý cho
bà L mua hóa giá căn nhà và sau khi trừ mọi chi phí thì sẽ giải quyết theo thừa
kế. Tuy vậy bà L cho rằng việc bà H và ông T1 khiếu nại nhiều lần dẫn đến việc
không thể mua nhà hóa giá với tư cách ông T mà phải mua nhà theo dạng con
liệt sĩ nên nhà đó thuộc sỡ hữu của bà L và anh trai bà là H1 cũng đã bỏ 400
triệu đồng để sửa chữa. Vì vậy bà H khởi kiện bà L vì bà L không chia tài sản
đúng theo yêu cầu.
Quyết định tòa sơ thẩm là đồng ý với một phần khởi kiện của bà H, yêu cầu bà
L giao lại số tiền thừa kế dựa trên giá trị ngôi nhà cho những người có quyền
được hưởng thừa kế theo tỷ lệ tòa án quyết định và không chấp nhận quyền sở
hữu căn nhà với bà L. Tòa phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của bà L và
không chấp nhận đơn kháng cáo của bà H. Tòa đã quyết định công nhận quyền
sỡ hữu căn nhà với bà L và không cần chia tài sản với những người khác. Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị.
- Quyết định của Tòa án: Hủy toàn bộ Bản án và trả lại cho Tòa sơ thẩm xét xử
lại nhận thấy nhiều sai sót của Tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm trong Bản án.

1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.
- Giấy tờ có giá được hiểu như là một loại tài sản, tại khoản 1 Điều 105 BLDS
2015: “Tài sản là vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy nhiên, tại BLDS
2015 vẫn chưa có quy định cụ thể định nghĩa về giấy tờ có giá. Vì vậy, giấy tờ
có giá có thể được hiểu là một loại giấy tờ xác định quyền tài sản của một chủ
thể nhất định, trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong các GDDS.
- Bên cạnh đó, giấy tờ có giá cũng được đề cập đến trong khoản 1 Điều 1 Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP thì “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá
khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao
dịch”.
- Ví dụ về giấy tờ có giá: trái phiếu công ty, cổ phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu đòi
nợ,...

2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số
39 có cho câu trả lời không?

5
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá, chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, là văn bản chứng quyền.
- Quyết định số 06 đã đề cập đến Điều 105 BLDS 2015 quy định về vấn đề tài
sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; 2. Tài sản
bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Và Điều 115 BLDS 2015 quy
định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác” cũng như khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư
pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Bên cạnh đó, “Theo các
quy định trên đây thì các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký
xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô...) không phải là “giấy tờ có giá” quy
định tại Điều 163 của BLDS 2005”.
- Ngoài ra, trong Quyết định số 06 còn quy định rằng: “Như vậy, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng
đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy
tờ có giá”. Do đó, theo như Quyết định số 06 thì “giấy chứng nhận về quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá.
- Bên cạnh đó, Bản án số 39 cũng không nêu rõ“giấy chứng nhận về quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”là giấy tờ có giá, mà bản án đã nói rằng:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp
pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số
quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
dân sự”. Tuy nhiên, trong trường hợp này, căn cứ theo nhận định của Tòa án thì
giấy chứng nhận trong trường hợp này là giấy tờ có giá vì ông B dựa vào giấy
tờ này mà minh chứng được quyền sở hữu đất của mình và tờ giấy ấy cũng
chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất.
3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không? Vì sao?

6
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà” không phải là tài sản vì căn cứ vào điều 105 BLDS 2015 có
quy định rằng : “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Ngoài ra,
theo Khoản 6 Điều 13 Luật đất đai 2013 cũng quy định rõ ràng rằng: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
- Bên cạnh đó, trong cả Quyết định số 06 và Bản án số 39 đều nói rằng “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài
sản theo quyết định của Tòa án vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất gắn liền với đất.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật
nước ngoài);
- Hướng giải quyết trong Quyết định số 06 của Tòa án đã xác định rằng “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài
sản là sai, khi nhìn từ khái niệm về tài sản trong Điều 105 BLDS 2015 “Tài sản
là là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Mà vật là một bộ phận của thế
giới vật chất, tồn tại độc lập, khách quan và có giá trị sử dụng, con người có khả
năng chiếm đoạt, nằm giữ, sở hữu và làm chủ chúng. Do đó, “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” trong trường hợp này hoàn
toàn được coi là tài sản vì chúng là một dạng vật chất.
- Tuy nhiên, ở một số quốc gia khác lại có quy định về tài sản là tương đối khác
nhau, ví dụ như Điều 654 BLDS của bang California Hoa Kỳ định nghĩa về tài
sản như sau: “Vật mà có thể sở hữu được sẽ được coi là tài sản”. Bên cạnh đó,
Dựa vào hình mẫu của Bộ luật Dân sự Pháp 1804, Bộ luật Dân sự của Quebec
(Canada) xác định: “Tài sản, hoặc hữu hình hoặc vô hình , được chia thành, bất
động sản và động sản” (Điều 899). Ngoài ra, Bộ luật Dân sự Pháp 1900 không
đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.

5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

7
- Nếu áp dụng BLDS 2015, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản.
- Căn cứ vào Điều 105 và Điều 115, luật này quy định “1. Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản.
Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai.” và “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”. Vì: “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không phải là vật trị giá bằng tiền hay là giấy tờ có giá mà chúng
cũng không là tài sản. Giấy chứng nhận chỉ là một văn bản, một loại giấy tờ
được công chứng, chứng thư về mặt pháp lý. Vì vậy, loại giấy chứng nhận này
chỉnh là minh chứng xác nhận nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ thể đó trong
trường hợp mất “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà”.
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”.
- Hướng giải quyết của Tòa án trong bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà” là hoàn toàn thỏa
đáng khi chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B và bà H, buộc bà T giao trả lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B, vì quyết định này sẽ bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của bên nguyên đơn (cụ thể là ông B và bà H)
và “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”là
một loại giấy tờ quan trọng trong việc thể hiện sự công nhận của Nhà nước đối
với chủ thể sử dụng đất hợp pháp, đây cũng là một trong những căn cứ để xác
định thẩm quyền của các cơ quan có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp
về quyền sử dụng đất.

7. Bitcoin là gì?
Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi một cá nhân hoặc tổ chức
vô danh dùng tên Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm
2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà
không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.

8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?
- Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản” thì Bitcoin không phải là tài sản qua
chi tiết: “ Xét kháng cáo của các bị cáo yêu cầu xác định các bị cáo chỉ phạm tội
“Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm
8
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo và
các bị báo và các luật sư bào chữa cho các bị cáo cho rằng các bị cáo chiếm
đoạt tiền điện tử (tiền ảo), nhưng hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về
tiền điện tử (tiền ảo) và đây không phải là tài sản theo quy định tại Điều 105 Bộ
luật dân sự”.

9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật
Việt Nam không?’
- Tại Bản án 22/2017/HC-ST ngày 21/09/2017 của TAND tỉnh Bến Tre, quan
điểm Tòa đưa ra là: “Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản
quy phạm pháp luật nào quy định tiền kỹ thuật số là hàng hoá, dịch vụ sử dụng
cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam”.
- Bên cạnh đó, căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản.” (Điều 163 BLDS 2005) và tại Điều 3 luật thương mại
2005 cũng có quy định “Hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả
động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”.
 Vì thế, theo quy định của Tòa án, Tòa cho rằng Bitcoin (tiền kỹ thuật số) không
phải là một loại tài sản theo pháp luật Việt Nam.

10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.
- Tùy vào từng khu vực, lãnh thổ mà mỗi quốc gia sẽ có một quan điểm về
Bitcoin khác nhau. Có những quốc gia xem Bitcoin như là tài sản hợp pháp (Ví
dụ: Pháp, Nhật, Canada,...), tuy nhiên lại có một số quốc gia không coi Bitcoin
như tài sản hợp pháp (Ví dụ: Ecuador, Nepal, Pakistan,...)

11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?
Theo em, không nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam, vì:
- Bitcoin không phải là phương tiện được phép thanh toán trên thị trường. Và ở
thời điểm hiện tại, việc sử dụng đồng tiền ảo Bitcoin để thanh toán ở Việt Nam
là không hợp pháp.
- Pháp luật nước ta coi Bitcoin như một loại tiền ảo, loại tiền ảo này không phải
là tài sản và bất cứ hành vi sử dụng Bitcoin để thanh toán sẽ được xem như
hành vi sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp và có thể bị xử lý theo
pháp luật Việt Nam.

9
12. Quyền tài sản là gì?
- Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác”.
- Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, không đòi hỏi phải có sự chuyển
giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng của giao dịch
dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển
giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản bao gồm quyền đòi
nợ, quyền sử dụng tài sản thuê, quyền trị giá bằng tiền, quyền thực hiện hợp
đồng, quyền sở hữu trí tuệ. Những quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì
không được chuyển giao như quyền thừa kế, quyền cấp dưỡng, quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại về sức khỏe.

13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?
- Trong hệ thống pháp luật hiện hành, vẫn chưa có quy định nào khẳng định
quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản, mà quyền thuê, quyền mua tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền khi việc cho thuê và mua lại tài sản xảy ra
khi hai chủ thể trong giao dịch chấp nhận thỏa thuận với nhau về tiền, quyền và
nghĩa vụ đối với tài sản đó, theo Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?

- Quyết định số 05 cho thấy TANDTC theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài
sản qua đoạn: “Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân
khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội.
Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối
với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự
năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được
bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông
T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, quyền mua hóa giá của cụ T.”
15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?
- Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong quyết định số 05 về quyền
thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với tài sản) là chưa thuyết phục, vì quyền
10
sở hữu, mua hoặc thuê giá nhà của ông T là quyền tài sản và được chuyển giao
cho các thừa kế. Xét về lịch sử của ông T, ông đã có đóng góp trong cách mạng
nên sau ngày giải phóng, Quân khu 7 đã cấp nhà theo tiêu chuẩn sĩ quan quân
đội để đảm bảo điều kiện ăn ở cho gia đình cán bộ, đồng thời ổn định lâu dài và
cấp nhà cho các gia đình cán bộ không có nơi ở. Do đó, quyền thuê, mua hoặc
sở hữu giá nhà này chỉ áp dụng cho ông T và không thể chuyển nhượng cho
thừa kế. Ngoài ra, theo định nghĩa về tài sản trong Điều 115 BLDS 2015, quyền
này không thể định giá bằng tiền. Về giấy ủy quyền mà ông T đã lập cho bà L
khi còn sống hoặc sau khi qua đời, đó chỉ để giải quyết các vấn đề liên quan đến
căn nhà theo quy trình, không phải để chuyển quyền sở hữu toàn bộ căn nhà
cho bà L như quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.

VẤN ĐỀ 2
CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU

Tóm tắt: Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn: Cụ Dư Thị Hảo.
- Bị đơn: Chị Nhữ Thị Vân.
- Vấn đề tranh chấp: Quyền sở hữu căn nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm,
thủ đô Hà Nội.
- Nội dung: Vào năm 1954, cụ Hảo có giao tài sản của mình (cụ thể là nhà ở) cho
vợ chồng ông Chính và bà Châu (con trai và con dâu của cụ Hảo) quản lý, căn
nhà có địa chỉ là số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đến năm
1968, căn nhà được ông Hải thuê dưới sự đồng ý của vợ chồng ông Chính bà
Châu (tuy nhiên bị đơn Vân khai ông Hải thuê nhà cụ Hảo từ năm 1954). Sau
khi ông Hải qua đời, chị Vân vẫn tiếp tục sử dụng ngôi nhà đó cho đến ngày
nay mà không trả tiền thuê cho ông Chính, mặc dù gia đình cụ Hảo đã đòi lại tài
sản nhiều lần kể từ năm 1975. Vào năm 2001, chị Vân đã bán căn nhà đó cho
vợ chồng chị Lan và anh Sơn, nhưng giao dịch không được xác nhận bởi cơ
quan có thẩm quyền. Năm 2004, theo di chúc của cụ Hảo, quyền sở hữu bất
động sản số 2 Hàng Bút đã được chuyển giao cho bà Châu hoàn toàn. Vào
tháng 01/2007, ông Chính đã ủy quyền cho bà Châu khởi kiện để đòi lại ngôi
nhà số 2 Hàng Bút.
- Quyết định của Tòa Án: Huỷ hoàn toàn Quyết định phúc thẩm số
902011DSPT ngày 30/05/2011 của Tòa án phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội liên
quan đến vụ án Đòi nhà giữa bà Dư Thị Hảo và các bên liên quan, Tòa quyết
11
định chuyển hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xem xét lại ở cấp sơ
thẩm.

1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định của Giám đốc thẩm số 111/2013/ DS-GĐT, đoạn mà Tòa án
khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là:
- Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gòn buôn bán, giao nhà số 2 Hàng Bút cho vợ
chồng con trai là ông Nguyễn Đắc Chính và bà Nguyễn Thị Châu quản lý. Năm
1968, vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác tại tỉnh Thái Nguyên nên cho
ông Nhữ Duy Hải thuê, khi cho thuê có lập giấy tờ nhưng sau này đã bị mất.
Sau khi ông Hải chết thì cháu ông Hải là chị Nhữ Thị Vân vẫn sử dụng đến nay.
- Từ sau năm 1975, gia đình cụ Hảo đã nhiều lần có đơn đòi nhà cho thuê số 2
Hàng Bút gửi Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ giải quyết. Năm 1999, vợ
chồng chị Châu gặp bà Vân để đòi nhà. Chị Vân yêu cầu tìm nhà khác cho chị,
nhưng khi tìm được nhà thì chị Vân lại không đồng ý nên hai bên không thỏa
thuận được.
- Trong khi đó, chị Vân đã mở gia đình tại số 2 Hàng Bút từ năm 1954. Ban đầu,
là ông nội của chị Vân, sau đó là bố chị và chị tiếp tục ở đó. Mặc dù phía
nguyên đơn đã yêu cầu trả nhà cho gia đình chị Vân từ năm 1975, nhưng không
có tài liệu chứng minh, chỉ có biên bản giải quyết tại UBND phường Hàng Bồ
vào năm 2001. Đến năm 2004, cụ Hảo mới đưa ra đơn kiện ra Tòa án yêu cầu
chị Vân trả nhà, nhưng không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở
hữu của căn nhà đó. Gia đình chị Vân đã ở tại đây suốt hơn 30 năm, chiếm hữu
ngay từ đầu, liên tục và công khai. Vậy nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 247
BLDS 2015 “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với
động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản
đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này.”
Khẳng định nêu trên của Tòa án là hoàn toàn thỏa đáng, vì: Tòa án khẳng định
gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là hoàn toàn
hợp lý. Vì dù không xác định được chính xác thời điểm mà gia đình chị Vân
thuê nhà là năm 1954 (60 năm tính đến thời điểm đơn khởi kiện đầu tiên năm
2004) hay 1968 (36 năm tính đến thời điểm đơn khởi kiện đầu tiên năm 2004)
thì ngay thời điểm năm 2004 khi cụ Hảo kiện ra Toà thì chị Vân cũng đã ở quá
12
30 năm. Theo Điều 236 BLDS 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Thì việc chưa xác minh
được căn nhà số 2 Hàng Bút có phải là nhà vắng chủ, nhà phố cổ được giữ lại
bảo tồn, ... cùng với việc gia đình chị Vân đã sinh sống ở đây quá 30 năm, Tòa
án khẳng định chị Vân đã chiếm hữu căn nhà trên 30 năm là thỏa đáng.

2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn mà Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là:
- Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gòn buôn bán, giao nhà số 2 Hàng Bút cho vợ
chồng con trai là ông Nguyễn Đắc Chính và bà Nguyễn Thị Châu quản lý. Năm
1968, vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác tại tỉnh Thái Nguyên nên cho
ông Nhữ Duy Hải thuê, khi cho thuê có lập giấy tờ nhưng sau này đã bị mất.
Sau khi ông Hải chết thì cháu ông Hải là chị Nhữ Thị Vân vẫn sử dụng đến nay.
- Từ sau năm 1975, gia đình cụ Hảo đã nhiều lần có đơn đòi nhà cho thuê số 2
Hàng Bút gửi Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ giải quyết. Năm 1999, vợ
chồng chị Châu gặp bà Vân để đòi nhà. Chị Vân yêu cầu tìm nhà khác cho chị,
nhưng khi tìm được nhà thì chị Vân lại không đồng ý nên hai bên không thỏa
thuận được.
- Trong khi đó, chị Vân đã mở gia đình tại số 2 Hàng Bút từ năm 1954. Ban đầu,
là ông nội của chị Vân, sau đó là bố chị và chị tiếp tục ở đó. Mặc dù phía
nguyên đơn đã yêu cầu trả nhà cho gia đình chị Vân từ năm 1975, nhưng không
có tài liệu chứng minh, chỉ có biên bản giải quyết tại UBND phường Hàng Bồ
vào năm 2001. Đến năm 2004, cụ Hảo mới đưa ra đơn kiện ra Tòa án yêu cầu
chị Vân trả nhà, nhưng không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở
hữu của căn nhà đó. Gia đình chị Vân đã ở tại đây suốt hơn 30 năm, chiếm hữu
ngay từ đầu, liên tục và công khai. Vậy nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 247
BLDS 2015 “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với
động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản
đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này.”
13
- Khẳng định trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý, vì theo Điều 180 BLDS 2015
“Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin
rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.” Mà bị đơn Nhữ Thị Vân
bị xác định là người không trực tiếp tham gia vào việc thuê nhà đất và theo lời
khai của chị, chị chỉ nghe ông nội nói về việc thuê nhà từ cụ Hảo mà không biết
rõ có căn cứ pháp lý hay không. Do đó, chị không hiểu rõ giao dịch này và có
thể không biết rằng việc chiếm đoạt tài sản đó không tuân thủ Điều 189 BLDS
2005. Điều này cho thấy chị Vân đã chiếm đoạt tài sản mà không có căn cứ
pháp lý, nhưng trong tình huống cụ thể.

3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Quyết định cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục
nhà đất có tranh chấp trên 30 nằm ở đoạn:
- Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân
có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho
ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954,
ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính
quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2
Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị
Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị
Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa
giải tại UBND phường Hàng Bồ năm 2001); Đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn
khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ
Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn
nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định
tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người
chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ theo pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba
mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định theo khoản 2 điều này...”.
- Khẳng định này của Tòa án là hợp lý và có sức thuyết phục, vì: theo Điều 190
BLDS 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời
gian mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài
sản được giao cho người khác chiếm hữu”. Dựa vào lời khai, gia đình chị Vân
14
đã sinh sống tại địa điểm này suốt nhiều thế hệ liên tục, không bị gián đoạn.
Ban đầu là ông nội của chị Vân, sau đó là cha mẹ chị và chính chị Vân. Mặc dù
bên đơn phương đã đưa ra tuyên bố sau năm 1975 về việc yêu cầu trả lại căn
nhà của gia đình chị Vân, nhưng không có bằng chứng đủ để chứng minh điều
này.
 Do đó, dù chị Vân đã bán tầng 1 của căn nhà cho anh Sơn và chị Lan, tình
huống của chị vẫn tuân thủ theo các điều kiện được quy định trong BLDS 2005.

4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Quyết định cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công
khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là đoạn:
- Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm
1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.
Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm
1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại UBND
phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra
Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều
247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản không có căn cứ theo pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất
động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu,
trừ trường hợp quy định theo khoản 2 điều này...”.
- Khẳng định trên của Tòa án là việc làm có tính thuyết phục, vì: theo quy định
tại Điều 191 BLDS 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công
khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm
hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo
quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”. Theo như tường thuật của chị Vân,
chị cùng gia đình đã sinh sống ở đây được một khoảng thời gian dài một cách
công khai, minh bạch. Bên cạnh đó, trong quá trình chị Vân ở trong nhà, chị
vẫn hoàn thành trách nhiệm trả tiền thuê nhà cho ông Chính cho đến năm1995.
Tuy nhiên, sau khi ông Hải qua đời, gia đình chị không còn thanh toán tiền thuê
nhà nữa, mãi cho đến khi bố chị mất vào năm 1997, gia đình chị cũng không hề
thanh toán bất kỳ khoản tiền nhà nào. Nhưng trong khoảng thời gian ở đây, bố
15
chị đã nâng cấp nhà cửa, thay đổi cửa sổ. Do đó, gia đình chị đã tuân thủ đầy đủ
các điều kiện được quy định về việc sở hữu công khai.

5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất có tranh chấp là đoạn:
- Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm
1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Uỷ ban
nhân dânphường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi
kiện ra Tòa án yêu cầu chịVân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo đã
không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này
hơn 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khaitheo quy định tại khoản
1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Khichủ sở
hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không
bao gồmviệc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện
việc chiếm hữu tài sản đóphù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch
- Khẳng định trên của Tòa án là chưa hợp lý, vì: năm 2004, ông Hảo đã viết di
chúc để chuyển quyền sở hữu bất động sản tại số 2 Hàng Bút cho bà Nguyễn
Thị Châu. Di chúc này đã được xác nhận là hợp pháp bởi Ủy ban nhân dân xã
Kim Chung và UBND xã theo quy định của Điều 655 BLDS 1995. Trong di
chúc, không có nội dung hoặc hình thức nào vi phạm pháp luật. Khi lập di chúc
vào năm 2004 tại UBND xã, ông Hảo đã phải chứng minh quyền sở hữu của
mình đối với căn nhà số 2 Hàng Bút thông qua các tài liệu như bằng khoán điền
thổ và giấy đăng ký trước bạ. Việc chị Vân chuyển nhượng căn nhà số 2 trên
đường Hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn và chị Lan không tuân thủ theo luật
pháp hiện hành vào thời điểm này. Cụ thể, Điều 443 BLDS 1995 có quy định:
“Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có chứng nhận của
Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm
quyền”. Văn bản mua bán nhà giữa chị Vân và vợ chồng anh Sơn không được
xác nhận bởi cơ quan có thẩm quyền nên không có hiệu lực pháp lý.

6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh
chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền của BLDS 2005 vì những lý
16
do sau: xét cho cùng thì gia đình chị Vân đã sống trong căn nhà này qua nhiều
thế hệ và cũng chiếm hữu căn nhà này hơn 30 năm, dựa theo quy định tại Điều
190 của Bộ luật Dân sự năm 2005, việc chiếm đoạt căn nhà số 2 trên phố Hàng
Bút của gia đình chị Vân không tuân thủ theo pháp luật. Chị Vân có thể nhận
biết rằng hành động này là bất hợp pháp vì không có hợp đồng thuê nhà, do đó
không thể coi là hợp lệ theo luật pháp, nhưng lại phù hợp với quy định tại Điều
189 của Bộ luật Dân sự năm 2005. So sánh với quy định của Luật Dân sự năm
2015, việc chiếm đoạt này không phải là chiếm hữu ngay tình. Căn cứ vào điều
180 BLDS 2015 “Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người
chiếm hữu biết hoặc có thể biết rằng mình không có quyền đối với tài sản”. Bên
cạnh đó, Chị Vân nhận ra rằng căn nhà số 2 trên phố Hàng Bút thực tế là do ông
nội chị thuê từ ông Chính, đã đóng tiền thuê đầy đủ suốt một thời gian dài. Do
đó, chị cần hiểu rõ rằng không có quyền sở hữu tài sản đó. Có thể nói rằng luật
pháp đã được điều chỉnh để phản ánh thực tế hơn, linh hoạt và công bằng hơn
so với quy định tại thời điểm Tòa án ra quyết định.

VẤN ĐỀ 3
CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
- Tình huống trên cho thấy bà Dung là người chịu rủi ro đối với tài sản theo quy
định của BLDS, cụ thể là theo Khoản 1 Điều 441 BLDS 2015: “Bên mua chịu
rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác”. Tức là bà Dung chịu rủi ro đối với ghe xoài
kể từ thời điểm nhận được, trừ trường hợp bà Dung với bà Thủy có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác.

2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xoài vì theo Khoản 1 Điều
161 BLDS 2015: “Trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa
thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời
điểm tài sản được chuyển giao”.

3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

17
Dựa vào hoàn cảnh đó, bà Dung đã nhận được tài sản từ bà Thủy trước khi vụ
cháy chợ xảy ra, do đó bà Dung phải thực hiện việc trả tiền mua ghe xoài theo
quy định của Điều 440 trong Bộ luật Dân sự năm 2015 “1. Bên mua có nghĩa
vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp
đồng. 2. Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời
hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản.
Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh
toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm giao tài sản.”

18

You might also like