You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO


--------***--------

BUỔI THẢO LUẬN DÂN SỰ 3:


TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Giảng viên hướng dẫn: THS NGUYỄN NHẬT THANH
Môn học: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản

TGDĐ Game/AppHọ và tên


MSSV
và thừa kế
Đinh Mạnh
2353801014102

1
Vấn đề 1: Khái niệm tài sản......................................................................................3
1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về giấy tờ có
giá. 3
2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sử dụng nhà”
có phải là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không?....3
3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao?..........5
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản........................5
5. Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
có là tài sản không? Vì sao?...........................................................................................................7
6. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.................................................................7
7. Bitcoin là gì?...........................................................................................................................7
8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?.............................8
9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam
không?............................................................................................................................................8
10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà
anh chị biết?...................................................................................................................................8
11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?............................9
12. Quyền tài sản là gì?.............................................................................................................9
13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản
không?............................................................................................................................................9
14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê,
quyền mua là tài sản?...................................................................................................................10
15. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định
số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?.............................10
Vấn đề 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu.................................................................10
1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của Tòa án.10
2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án....................................................................................................................................11
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án?..................................................................................................................................11
4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án?...............................................................................................................................12
5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?............12
6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?...................................................13
Vấn đề 3: Chuyển đổi rủi ro đối với tài sản...........................................................13
1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.13
2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................14
3. Bà Dung có phải thanh toán tiền ghe xoài không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.. .14

Vấn đề 1: Khái niệm tài sản


1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.
- Theo BLDS 2015 và các BLDS trước đây, giấy tờ có giá không được định nghĩa cụ thể là gì
mà chỉ nếu giấy tờ có giá là một loại tài sản (Điều 105 BLDS 2015). Tuy nhiên, giấy tờ có
giá có thể hiểu là:
“Giấy tờ chứng nhận một quyền tài sản có giá trị trao đổi, thực hiện việc thanh toán trực
tiếp hoặc có thể xuất trình để thực hiện quyền tài sản ghi nhận trên đó. Giấy tờ có giá có
thể được phát hành bởi Nhà nước, ngân hàng, tổ chức có chức năng kinh doanh tiền tệ có
liên quan tới người được cấp giấy tờ đó hoặc các doanh nghiệp có cơ sở sản xuất nhưng có
nhu cầu huy động vốn.”
Hoặc, còn được hiểu đơn giản là: “Giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được
trong giao dịch dân sự”.
- Ví dụ về giấy tờ có giá: hối phiếu, séc, cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu,…

2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sử dụng nhà” có phải là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án
số 39 có cho câu trả lời không?
-Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không phải là giấy tờ có giá. Vì khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định: “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất là chứng thư
pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất.”
-Trong Quyết định số 06, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa căn cứ vào Điều 105, 115
BLDS 2015; khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 và cho rằng: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”
-Bản án số 39 không nêu ra câu trả lời rõ, cụ thể ở đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này
hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự”. Căn cứ theo nhận định của Tòa án trong trường hợp này thì giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là tài sản và là loại giấy tờ có giá vì ông B nhờ vào giấy tờ này mà minh
chứng được quyền sở hữu của mìn tờ này có hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với
đất

3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không? Vì sao?
-Trong thực tiễn xét xử, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” không phải là tài sản. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” và khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy
định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất”.
-Trong Quyết định số 06 có kết luận rằng: “ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài
sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”. Và trong bản án số 39 có nhận định: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất”.
-Như vậy, cả hai Quyết định số 06 và bản án số 39 đều cho rằng “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản

Theo em, trong Quyết định số 06, hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liênquan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” làkhông hợp lí mà
Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nên chấp nhận kháng nghị01/QĐKN/VKS-DS của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn ông Phan Hai không đình chỉ giải quyết vụ án. Vì:

+ Lý do thứ nhất việc Tòa án nhân dân tối cao xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản là chưa phù hợp.Vì tài sản bao gồm vật,
tiền,giấy tờ có giá và các quyền tài sản. “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,quyền chứng
nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá, tuy nhiên có thể coi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà là vật.Bởi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền chứng nhận sở hữu nhà tồn tại dưới một vật nhất định, có hình dạng nhất định, là tờ
giấy; nằm trong khả năng chiếm hữu của con người, có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm
giữ,quản lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; có giá trị sử dụng,được dùng để
chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của chủ sở hữu.Việc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà không thể tham gia vào giao dịch trao đổi, mua bán
không làm mất đi bản chất tài sản của giấy.

+ Lý do thứ hai là việc Tòa án nhân dân tối cao coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản sẽ dẫn tới nhiều hệ quả khó giải thích
được về mặt lý luận và thực tế, đồng thời nhận thức làm làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
lợi của người sử dụng đất. Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu
và từng nội dungriêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định
đoạtchỉ có thể thực hiện được trên các đối tượng là tài sản, việc coi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất không phải là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của
người sử dụng đối với loại giấy tờ này. Từ đó sẽ dẫn tới việc Tòa án không có cơ sở để thừa
nhận việc bảo hộ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp đối với Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất,quyền chứng nhận sở hữu nhà một khi có vấn đề xảy ra như tranh chấp.
5. Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
-Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà không được xem là tài sản. Vì:
-Căn cứ theo:
+ Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
+ Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài
sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
-Do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử
dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có
giá. Vì vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là tài sản.

6. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
Theo em, hướng giải quyết của tòa ở bản án số 39 là thuyết phục. Cụ thể, Tòa chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H, buộc bà Nguyễn Thị Thủy T giao trả
lại giất chứng nhận quyền sử dụng đất số AM090902, tọa tại ấp Thanh Hưng, xã Thanh
Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long do UBND huyện Long Hồ cấp. Bởi, khi xem xét toàn
bộ lời trình bày, tài liệu chứng cứ do các bên cung cấp thể hiện: ông B đã làm đơn cớ mất
được UBND xã Thanh Đức về việc ông làm thất lạc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Sau đó, bà T tranh chấp và đưa ra giấy chứng nhận sử dụng đất AM090902 cho thấy giấy
này không bị mất. Việc bà T chiếm giữ giấy chứng nhận sử dụng đất này là trái pháp luật,
bà T phải có nghĩa vụ giao trả lại cho hộ ông Võ Văn B.

7. Bitcoin là gì?
Bitcoin (ký hiệu: BTC) là loại tiền kỹ thuật số được phát hành dưới dạng phần mềm mã
nguồn mở và phát minh bởi Satoshi Nakamoto, đây cũng chính là đồng tiền điện tử đầu tiên
trên thế giới, đặt nền móng cho sự phát triển của thị trường trao đổi tiền kỹ thuật số toàn
cầu. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần thông
qua tổ chức tài chính trung gian nào. Các doanh nghiệp có xu hướng muốn thanh toán bằng
Bitcoin để giảm thiểu chi phí. Đến tháng 7 năm 2018, lượng tiền cơ sở Bitcoin được định

6
giá hơn 109 tỷ đô la Mỹ là loại tiền mã hóa có giá trị thị trường lớn nhất. Những biến động
lớn trong giá trị của mỗi Bitcoin đã tạo nên những tranh cãi về tính phù hợp kinh tế của
Bitcoin như một loại tiền tệ.

8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?
Theo các bị cáo cho rằng, bitcoin không phải là tài sản do pháp luật chưa có quy định cụ
thể về tiền điện tử (tiền ảo) căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt
Nam không?

Tòa án có xác định Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Vì:

+ Theo Khoản 6,7 Điều 1 Nghị định 80/2016/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một số điều của
NĐ101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt về thanh toán không dùng tiền
mặt, Bitcoin và các loại tiền ảo khác sẽ không được coi là phương tiện thanh toán, việc
cung ứng, phát hành và sử dụng các đồng tiền ảo là không hợp pháp.

+ Quy định tại Khoản 6, Điều 26 Nghị định 88/2019/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thì các hành vi phát hành, cung ứng,sử dụng các
phương tiện thanh toán không hợp pháp (bao gồm cả Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự
khác) sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính mức từ 50 - 100 triệu đồng

10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh chị biết?
Hiện nay trên thế giới chia ra là 3 xu hướng:
1. Công nhận Bitcoin là tài sản để điều chỉnh và quản lý.
2. Không cấm cũng không thừa nhận Bitcoin.
3. Hạn chế/cấm mua bán, sử dụng Bitcoin.
Mỗi quốc gia có quy định về quản lý tiền ảo khác nhau. Hơn 110 quốc gia trên thế giới đã
chính thức công nhận việc sử dụng Bitcoin như: Mỹ, Canada, Nga, Nhật Bản, Úc... Trong
khi đó, Trung Quốc, Ả Rập, Zambia, Indonesia, Ecuador,… đưa ra luật cấm tất cả các hoạt
động liên quan đến tiền ảo. Và các quốc gia còn lại trên thế giới chưa có thông tin chính thức
về sử dụng Bitcoin như một loại thanh toán hợp pháp hoặc giữ thái độ trung lập.
El Salvador là quốc gia đầu tiên hợp thức hoá Bitcoin và sử dụng tiền ảo này như một
phương tiện thanh toán chính thức. Nối gót El Salvador, cũng có một số nước bắt đầu chấp
nhận Bitcoin làm tiền tệ hợp pháp như Cộng hòa Trung Phi, Ukraine
7
11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?
Theo em, với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về Bitcoin thì
không nên coi Bitcoin là một loại tài sản. Bởi vì theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, nếu coi Bitcoin là một loại tài sản thì sẽ chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn và các
vụ việc liên quan đến Bitcoin sẽ không được pháp luật bảo vệ do chưa có căn cứ để xác
định quyền lợi cho người dùng.

12. Quyền tài sản là gì?


- Theo Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”.
“Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công nhận một số quyền tài sản là tài sản như quyền
sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối
với tái sản bị xâm phạm, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối
với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trọng doanh nghiệp, quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng”.10
- Theo đó, quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng đất, quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí
tuệ và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản có thể chia thành quyền đối vật và quyền đối
nhân. Quyền đối vật là quyền của chủ thể trực tiếp thực hiện trên các vật cụ thể và xác định
để thỏa mãn các lợi ích của mình. Quyền đối nhân là các quyền tương ứng với nghĩa vụ tài
sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền.
13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?
Theo Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”. Quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền trị giá được bằng tiền khi việc
cho thuê và mua lại tài sản xảy ra khi hai chủ thể trong giao dịch chấp nhận thỏa
thuận với nhau về tiền, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó. Tuy nhiên, trong hệ
thống pháp luật hiện hành, chưa có quy định nào khẳng định quyền thuê, quyền mua
là quyền tài sản.

8
14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Quyết định số 05 cho thấy TANDTC theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản qua
đoạn:
Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63
đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995,
cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188
và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài
sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và
ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, quyền mua hóa giá của cụ T

15. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong quyết định số 05 là chưa
thuyết phục vì cho rằng quyền được thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản và
chuyển giao cho các thừa kế các quyền này. Xét về lý lịch của cụ T, cụ T có công với cách
mạng nên sau ngày giải phóng, Quân khu 7 có cấp nhà theo tiêu chuẩn sĩ quan quân đội,
“để tạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh
gia đình cán bộ không có nhà ở ”. Tức, quyền thuê, mua hóa giá này phát sinh với đối
tượng cụ thể là cụ T, không thể chuyển nhượng cho các thừa kế. Hơn nữa, với khái niệm tài
sản ở Điều 115 BLDS 2015 thì quyền này không trị giá được bằng tiền. Còn về giấy ủy
quyền do cụ T lập cho bà L khi cụ còn sống cũng như qua đời chỉ để giải quyết những việc
liên quan đến căn nhà (về thủ tục) chứ không phải ủy quyền cho bà L sở hữu toàn bộ căn
nhà như nhận định từ tòa cấp phúc thẩm.

9
Vấn đề 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu
1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh chị về khẳng định của Tòa án.
Trích dẫn bản án: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy
chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho
ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính
không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong khi
đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội
chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.”, “nguyên đơn khai có đòi nhà đối với
gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh”, “đến năm 2004 cụ
Hảo mới kiện ra toà”. Như vậy, Tòa án đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm.
Khẳng định này của Tòa án là có căn cứ vì dù ông Hải thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954
hay thuê từ ông Chính năm 1968 thì thời hạn mà gia đình chị Vân chiếm hữu nhà đất có
tranh chấp đều trên 30 năm.

2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án
Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm qua đoạn: “… Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2
Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này là bố chị Vân và chị
Vân tiếp tục ở…Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục và công khai
- Khẳng định này của Tòa án về việc gia đình chị Vân chiếm hữu ngay tình là có căn
cứ. Bởi vì theo như lời khai của chị Vân thì chị biết chuyện thuê nhà của ông nội vào

10
năm 1954: “Hàng năm gia đình chị đóng tiền thuê nhà cho ông Chính, sau khi ông
nội mất thì gia đình chị không đóng tiền thuê nhà cho ông Chính nữa” nhưng chị Vân
không phải là người trực tiếp giao dịch nên không nắm rõ việc giao dịch cho thuê giữ
ông Hải với ông Chính. Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản
đó là không có căn cứ pháp luật. vì vậy việc chị Vân chiếm hữu ngay tình là có căn
cứ
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn: “Trong khi đó gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm1954, lúc đầu là ông nội chị
Vân, sau đó là bố chị Vân và chị Vân vẫn tiếp tục sống.Mặc dù ở bên phía nguyên đơn có khai là
đã đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có
biên bản hòa giải của UBND phường Hàng Bồ năm 2001)”.Cho thấy căn nhà vẫn không có tranh
chấp trên thực tế. Theo Tòa án, thời gian mà gia đình chị Vân vào ở là vào năm 1968 tính đến 2004
xảy ra vụ kiện là 36 năm theo phía nguyên đơn đã có khai là đòi nhà, cụ thể là sau 1975, nhưng
không có tài liệu xác minh điều này. Theo vụ án, thì căn nhà gia đình chị Vân trong một khoảng
thời gian dài mà không có tranh chấp (chỉ có biên bản hòa giải của UBND phường Hàng Bồ năm
2001). Từ đó có thể thấy căn cứ Điều 182 Bộ luật Dân sự năm 2015 gia đình chị Vân chiếm hữu
nhà liên tục sau hơn 30 năm là hợp lý.

4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn: “Trong khi đó gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm1954, lúc đầu là ông nội chị
Vân, sau đó là bố chị Vân và chị Vân vẫn tiếp tục sống.Sau khi ông nội chết năm 1995 thì gia đình
chị không còn đóng tiền thuê nhà cho ông Chính nữa. Sau đó bố chị ông Nhữ Duy Lân và chị tiếp
tục quản lý. Năm 1997,bố chị chết thì chị tiếp tục ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút (tầng 1), chị không trả
tiền thuê nhà cho ai, quá trình ở thì bố chị có nâng cao nền nhà, thay cửa, còn chị không sửa gì
thêm”
Gia đình chị Vân sử dụng căn nhà tranh chấp số 2 Hàng Bút là để sinh sống và sinh hoạt. Đồng thời
đã có sửa chữa cho căn nhà. Căn nhà số 2 Hàng Bút đã được sử dụng đúng với tính năng và công

11
dụng và được bảo quản giữ gìn. Căn cứ theo Điều 183 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tòa khẳng định
gia đình chị Vân chiếm hữu căn nhà công khai là hợp lý và có căn cứ.

5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có
tranh chấp là đoạn: “Mặc dù phái nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ từ
sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Uỷ ban
nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khỏi kiện ra Tòa
án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất nêu trên.”
Theo em, quyết định của Tòa án là không hợp lí. Vì Nhà số 2, Hàng Bút, quận hoàn Kiếm,
Hà Nội có bằng điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạn Hà Nội ngày 4/1/1946.
Dù cụ Hảo vào Nam sinh sống nhưng chưa từ bỏ quyền sỡ hữu đối với căn nhà nên không
có minh chứng nào cho thấy cụ không còn là chủ sỡ hữu căn nhà. Bên cạnh đó, năm 2004
cụ Hào có di chúc giao quyền bất động sản số 2Hàng Bút cho bà Châu toàn quyền sở hữu
(di chúc đã được xác nhận từ Uỷ ban nhân dân xã Kim Chung); nên vào năm 2007 khi cụ
Hảo mất di chúc ấy mới có hiệu lực.
6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo em, gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền. Vì cụ Hảo là chủ sỡ hữu căn nhà, khi cụ chết
thì căn nhà thuộc về người thừa kế là bà Châu theo di chúc đã được xác nhận bởi Uỷ ban
nhân dân xã Kim Chung. Bên cạnh đó, gia đình chị Vân cũng không thỏa mãn khoản 1
Điều 247 BLDS năm 2015: “Người chiếm hữu,người được lợi về tài sản không có căn cứ
12
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu của tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”; vì gia đình
chị Vân chiếm hữu liên tục, công khai nhưng không ngay tình nên không thể áp dụng quy
định về thời hiệu hưởng quyền.

Vấn đề 3: Chuyển đổi rủi ro đối với tài sản

1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ sở hữu tài sản và chủ thể có quyền đối
với tài sản phải chịu rủi ro đối với tài sản. Theo Điều 162 BLDS 2015 quy định: “1.
Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 2. Chủ thể có
quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền của mình,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật này, luật khác
có liên quan quy định khác”.

2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xoài. Căn cứ theo khoản 1Điều 161
BLDS năm 2015: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên
mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Và trong tình huống nêu trên không có việc thỏa
thuận giữa bà Dung và bà Thủy về thời điểm xác lập quyền sở hữu khi thực hiện giao dịch
mua bán, nên thời điểm xác lập quyền sở hữu về số xoài đó được tính từ khi bà Thủy
chuyển giao sổ xoài cho bà Dung (bà Dung nhận được số xoài) mà việc chuyển giao đó xảy
ra trước khi cháy chợ; vì vậy tại thời điểm chạy chợ thì bà Dung đã sở hữu sổ xoài.
3. Bà Dung có phải thanh toán tiền ghe xoài không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
13
Bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài. Vì theo Căn cứ theo khoản 1 Điều441 BLDS
năm 2015: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua,
bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản,trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Vì ghe xoài bị cháy sau khi bà Dung nhận hàng
nên bà dung là chủ sở hữu của số xoài.

14
15

You might also like