You are on page 1of 17

Mục Lục

VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN......................................................................1


Câu 1.1.Thế nào là giấy tờ có giá ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví
dụ minh họa về giấy tờ có giá.....................................................................................1
Câu 1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không ? Quyết định số 06 và
Bản án số 39 có cho câu trả lời không ?.....................................................................1
Câu 1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không ? Quyết định số 06 và Bản án
số 39 có cho câu trảlời không ? Vì sao ?....................................................................3
Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06
liên quan đến“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” nhìn từ khái niệm tài sản...................................................................................3
Câu 1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không ? Vì sao ?.............................4
Câu 1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên
quan đến“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà”...............................................................................................................................4
Câu 1.7. Bitcoin là gì ?......................................................................................5
Câu 1.8.Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản
không? Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp
luật Việt Nam không ?.................................................................................................5
Câu 1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu
hệ thống pháp luật mà anh/chị biết............................................................................6
Câu 1.10.Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì
sao?................................................................................................................................7
Câu 1.11. Quyền tài sản là gì?.........................................................................7
Câu 1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua
tài sản là quyền tài sản không ?..................................................................................8
Câu 1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối
cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản ?.................................................8
Câu 1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân
tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với
khái niệm tài sản) ?......................................................................................................8
VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU............................................9

1
Câu 2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án ?....................................................9
Câu 2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?......................................9
Câu 2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án ?...................................10
Câu 2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?....................................10
Câu 2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ
Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án....................................................................11
Câu 2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối
với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không?
Vì sao ?........................................................................................................................12
VẤN ĐỀ 03: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN........................................12
Câu 3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................................................12
Câu 3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài ? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không ? Vì
sao ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................................................13

2
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN
Câu 1.1.Thế nào là giấy tờ có giá ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví
dụ minh họa về giấy tờ có giá.
- Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 không định nghĩa giấy tờ có giá
là gì mà chỉ ghi nhận giấy tờ có giá là một loại tài sản. Giấy tờ có giá có thế hiểu là
giấy tờ xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định, trị giá được băng tiền và
chuyển giao được trong các giao dịch dân sự.
+ Theo điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:”Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản”.
+ Theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:"Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản".
- Như vậy, giấy tờ có giá là một loại tài sản theo luật dân sự.
+ Theo khoản 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN, giấy tờ có giá được hiểu là:
- “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều
kiện trả lãi và những điều kiện khác.
 Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể từ khi phát
hành đến khi đến hạn thanh toán.
 Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm kể từ khi phát
hành đến khi đến hạn thanh ttoán”
Ví dụ minh họa về giấy tờ có giá:
Các loại giấy tờ có giá được quy định tại Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày
21/9/2011 thì giấy tờ có giá bao gồm:
- Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác;
- Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu;
- Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa
vụ trả nợ.
- Các loại chứng khoán:
+ Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
+ Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán;
+ Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác.
- Trái phiếu doanh nghiệp.
Câu 1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không ? Quyết định số 06 và Bản án
số 39 có cho câu trả lời không ?
1
Trong thực tiền xét xử, "giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà" không được xem là giấy tờ có giá. Điều này được thể hiện rõ qua khoản 2
công văn 141/TANDTC-HĐXX: "Theo các quy định trên đây thì các giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là
“giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005; do đó, nếu có
yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án
không thụ lý giải quyết.”.
Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông
tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không
được xem là loại giấy tờ có giá.
Theo quyết định số 06/2017/QĐ-PT có cho ta câu trả lời:
- Đoạn “Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: "Giấy chứng nhận
quyền sử dụng dất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư
pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở
hữu tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là
văn bản chứa dụng thông tin vê Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá. Do đó, việc ông Phan Hai khởi
kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là
loại giấy tờ có giá. Do đó, việc ông hai khởi kiện yêu cầu ông thái đòi trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bởi vì,
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những căn cứ cho phép xác dịnh thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sử dụng đất, chứ hoàn toàn không phải là tài sản.
- Trong bản án số 39/2018/DSST ngày 28 tháng 8 năm 2018 vụ việc "Đòi lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" có đoạn: "Giấy chứng nhận quyền sử dụng là
chứng thự pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng cho đất, cho thấy nội
dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự”.
Như vậy, cả hai văn bản trên đều ghi nhận "giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà" chi là văn bản chứng quyền, chứa đựng thông tin về
quyền sở hữu... Tuy nhiên Quyết định số 06 thì ghi rất rõ "không thể xem là loại giấy
tờ có giá" còn Bản án số 39 tuy ghi nhận chỉ "là chứng thư pháp lý để nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất" nhưng lại không trả lời cho câu hỏi "đây có phải là
loại giấy tờ có giá hay không".

2
Câu 1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không ? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trảlời không ? Vì sao ?
- Trong thực tiễn xét xử "giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà" không là tài sản.
+ Căn cứ Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về tài sản như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
+ Bên cạnh đó tại Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền tài sản như
sau:”Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
+ Theo khoản 16 điều 3 Luật đất đai năm 2013:”Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để
Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với
đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài
sản khác gắn liền với đất”.
Như vậy, quyền sử dụng đất là quyền tài sản (nằm trong khái niệm tài sản), còn
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là tài sản mà chỉ là chứng thư
pháp lý để Nhà nước xác định quyền sử dụng đất. Hay nói cách khác là văn bản chứa
đựng quyền sử dụng đất (quyền tài sản).
- Trong Quyết định số 06 cho rằng "giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là
văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
khôngphải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá". Như vậy, tại quyết định
này cho câu trả lời rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà không phải là tài sản.
- Trong Bản án số 39 thì lại không chỉ ra rằng đây có phải là tài sản hay không
mà tòa lập luận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất "hàm chứa một số quyền về
tài sản gắn liên với đât nên thuộc phạm vi điêu chỉnh của pháp luật dân sự”.

Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06
liên quan đến“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
nhìn từ khái niệm tài sản.
Theo em, hướng giải quyết của thực tiễn xét xử liên quan đến "giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà" chưa thỏa đáng nếu nhìn từ khái niệm
tài sản do:
- Thứ nhất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tờ giấy, là một vật mà người
khác có thể chiếm đoạt, giữ, quản lí, có giá trị sử dụng (dùng đề chứng minh quyền sử
dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất). Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
3
không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản
của nó.
- Thứ hai, việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản làm
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thế, theo quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ của quyền sở
hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt chỉ có thế thực hiện trên
các đối tượng là tài sản. Việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài
sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với
loại giấy tờ này.

Câu 1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không ? Vì sao ?
Nếu áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản. Vì nó không là vật, tiền, giấy tờ có
giá đồng thời cũng không phải là quyền tài sản mà nó chỉ là tờ công chứng của các cơ
quan có thấm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ
thế bị mất giấy chứng nhận thì có thể yêu cầu cấp lại. Nó không làm ảnh hưởng gì đến
quyền lợi của chủ sở hữu.

Câu 1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên
quan đến“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà”.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng, là thế
hiện sự công nhận của nhà nước đối với người sử dụng đất hợp pháp. Giấy chứng nhận
quyên sử dụng đất cũng là một trong những căn cứ cho phép xác định thấm quyền của
các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng
đất.
Trong Bản án số 39, tuy rằng Tòa án đã không xác định rõ rằng giấy chứng nhận
sở hữu nhà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là giấy tờ có giá hay là tài sản
không. Tòa án nhận định trong bản án: "Bộ luật tố tụng dân sự không quy định rõ thẩm
quyền giải quyết tranh chấp "Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng". Tuy nhiên về
nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lí do chưa có điều
luật áp dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài
sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật đân sự. Căn cứ Khoản
2 Điều 4; Khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố tụng đân sự, Hội đồng xét xử xác định yêu cầu
đòi trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B và bà H thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án".
Qua hướng giải quyết này, Tòa án đã bảo vệ được một phần quyền lợi của chủ
sở hữu đất, sở hữu nhà ở.
4
Câu 1.7. Bitcoin là gì ?
- Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT, ) là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi
một cá nhân hoặc tổ chức vô danh dùng tên Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm
mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối
Internet mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.
- Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ thông thường:
Không có một ngân hàng trung ương nào quản lý nó và hệ thống hoạt động dựa trên
một giao dịch mạng. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được phân chia theo lịch
trình định sẵn dựa trên các thuật toán. Bitcoin được cấp tới các máy tính "đào" Bitcoin
để trả công cho việc xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào cuốn sổ cái được
phân tán trong mạng ngang hàng, thông qua công nghệ blockchain. Cuốn sổ cái này sử
dụng Bitcoin là đơn vị kế toán. Mỗi bitcoin có thể được chia nhỏ tới 100 triệu đơn vị
nhỏ hơn gọi là Satoshi. (theo Wikipedia)

Câu 1.8.Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản
không? Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp
luật Việt Nam không ?
- Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin không phải là tài sản
+ Thể hiện ở đoạn:” Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo và các luật sư bào chữa
cho các bị cáo cho rằng các bị cáo chiếm đoạt tiền điện tử (tiền ảo), nhưng hiện nay
pháp luật chưa có quy định cụ thể về tiền điện tử (tiền ảo) và đây không phải là tài sản
theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự nên Bản án sơ thẩm xác định các bị cáo
chiếm đoạt 18.880.000.000 đồng (quy đổi từ 86,91 Bitcoin). Từ đó, đề nghị Hội đồng
xét xử xác định các bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 168 Bộ luật tố tụng hình sự.”
- Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án không xác định Bitcoin là tài sản theo pháp
luật Việt Nam.
+ Căn cứ Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Vì những đặc thù của Bitcoin chắc chắn nó không phải là vật.
+ Căn cứ điểm a, điểm đ khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010:
“a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền
chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại
tệ);

5
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp
chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán
quốc tế.”
+ Căn cứ Điều 16 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 về đơn vị tiền:
“Đơn vị tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là "Đồng", ký hiệu
quốc gia là "đ", ký hiệu quốc tế là "VND", một đồng bằng mười hào, một hào bằng
mười xu.”
Theo đó chúng ta có thể thấy: Bitcoin không được xem là ngoại tệ, đồng thời
không phải là ngoại hối vì bitcoin không được pháp luật Việt Nam công nhận. Vì thế,
Bitcoin không được xem là tiền.
+ Căn cứ khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện
trả lãi và các điều kiện khác.”
Theo đó ta có thể thấy được ở thời điểm hiện tại pháp luật Việt Nam không coi
Bitcoin là một loại giấy tờ có giá.
+ Căn cứ Điều 115 Bộ luật dân sự 2015 quy định vể quyền tài sản:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Từ thuở ban đầu Bitcoin đã được thể hiện dưới dạng tiền ảo, đơn giản nó không
phải là một loại quyền của bất kì chủ thể nào, do đó Bitcoin cũng không phải là quyền
tài sản.
Như vậy, căn cứ theo những quy định pháp luật đã được nêu ở trên, chúng ta
hoàn toàn có thể khẳng định dù Bitcoin là gì, nhưng chắc chắn rằng Bitcoin không phải
là một loại tài sản.

Câu 1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu
hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Hiện tại, có 99 quốc gia trong tổng số 246 quốc gia (chiếm khoảng 40%) là
ủng hộ và không hạn chế đáng chể về pháp luật với Bitcoin và coi nó như một loại tài
sản.
- Tháng 9 năm 2015, Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai Hoa Kỳ (CFTC) công
bố, Bitcoin đã chính thức được đưa vào danh sách hàng hóa được phép giao dịch tại
Hoa Kỳ. Phần lớn các cơ quan trong chính phủ Hoa Kỳ đều tán thành việc sử dụng
Bitcoin. Theo phán quyết của Tòa án tối cao Châu Âu vào tháng 10 năm 2015, Bitcoin
sẽ được phép giao dịch như các đơn vị tiền tệ thông thường mà không bị đánh thuế tại
Châu Âu.

6
- Tại nơi ra đời của Bitcoin - Nhật Bản - bắt đầu từ ngày 1/4/2017. Bitcoin được
coi là tài sản và là một phương thức thanh toán hợp pháp, được quản lý bởi Cơ quan
Dịch vụ Tài Chính Nhật Bản (JFSA). Một số tổ chức lớn tại đây đã công nhận Bitcoin
như một loại tiền tệ. Các luật trong việc giao dịch tại ngân hàng vẫn chưa thay đổi,
nhưng chúng cũng đang được xem xét để làm cho Bitcoin thậm chí còn có thể sử dụng
được trong đời sống hằng ngày.

Câu 1.10.Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì
sao?
Theo em, chúng ta nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam.
Vì trong các vụ án liên quan đến Bitcoin thì khi bên bị cáo và luật sư cho rằng
các bị cáo chiếm đoạt bitcoin - tiền điện tử, chưa được pháp luật Việt Nam bảo hộ - nên
các bị cáo chỉ phạm tội "Cướp tài sản", mặc dù thiệt hại của bên bị hại là rất lớn. Với
cách giải quyết trên là chưa thỏa đáng và ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị hại.
Đó là kẽ hở của pháp luật, cần sớm có các chính sách, khung pháp luật để một
mặt khuyến khích phát triển nền kinh tế số mới, mặt khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân sở hữu tài sản số, trong thời đại có nhiều vụ án lừa đảo Bitcoin do
một số người đã lợi dụng kẽ hở này để huy động tiền trái phép, thậm chí lừa đảo mà
không/chưa bị xử lý.

Câu 1.11. Quyền tài sản là gì?


- Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự 2005:” Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu
trí tuệ.”
Như vậy, ta nhận thấy quyền tài sản phải có giá trị kinh tế – trị giá được bằng
tiền; hai là, quyền tài sản có thể được chuyển giao trong giao dịch dân sự (có thể là đối
tượng của hợp đồng mua bán, tặng cho hoặc để thừa kế…). Việc quy định như vậy đã
dẫn đến có nhiều quan điểm trái chiều xung quanh vấn đề một số quyền đem lại lợi ích
kinh tế cho con người nhưng không được pháp luật cho phép chuyển giao trong các
giao dịch dân sự có được coi là quyền tài sản không? Ví dụ như quyền yêu cầu cấp
dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
nhân phẩm bị xâm phạm…
Khắc phục những hạn chế của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm
2015 ghi nhận:
- Theo điều 115 Bộ luật dân sự 2015:” Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác.”
Từ quy định này có thể thấy, quyền tài sản chỉ còn mang một đặc điểm duy nhất
“có thể trị giá được bằng tiền”, tức là bất kỳ quyền nào đem lại giá trị kinh tế cho con
người sẽ được coi là quyền tài sản, việc có được chuyển giao hay không được chuyển
7
giao trong giao dịch dân sự chỉ nhằm mục đích xác định những quyền tài sản nào sẽ là
đối tượng của các giao dịch dân sự chứ đó không còn là đặc điểm của quyền tài sản.
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn liệt kê các loại quyền tài sản bao gồm: Quyền
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và quyền tài sản khác.

Câu 1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài
sản là quyền tài sản không ?
Có quy định cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài
sản.
- Theo điều 115 Bộ luật dân sự 2015:” Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác.”
Quyền tài sản là quyền trị giá được tính bằng tiền, không đòi hỏi có sự chuyển
giao trong giao dịch dân sự. Quyền thuê, mua tài sản là quyền trị giá được bằng tiền
khi việc cho thuê và mua lại tài sản chỉ xảy ra khi hai chủ thể trong giao dịch chấp
nhận thỏa thuận với hau về tiền, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó. Và Điều 115 Bộ
luật Dân sự 2015 đã khẳng định quyền trị giá được bằng tiền là quyền tài sản.

Câu 1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao
theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản ?
- Tại đoạn nhận định của Tòa án:”... Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa
làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại điều 188 và
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài
sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H
và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.” của Quyết định
số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản.

Câu 1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân
tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với
khái niệm tài sản) ?
Theo em hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05
về quyền thuê, quyền mua là hợp lí.
- Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

8
Và điều 155 Bộ luật dân sự 2015 quy định:”Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Cùng với nhận định của Tòa án:”... Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa
làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại điều 188 và
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài
sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H
và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.”
Theo đó, Tòa án đã xác định được những người được hưởng thừa kế quyền thuê,
mua hóa giá nhà của cụ T là bà H, ông T1. Sau khi giữa bà H, ông T1 và bà L có sự
hỏa thuận thống nhất để bà L đứng tên mua nhà thì căn nhà đó là tài sản chung của ba
người. Khi đó cả ba người có quyền hưởng căn nhà theo phần giá trị của mình.

VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU


Câu 2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án ?
Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là:
"Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân
có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông
Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính
không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong
khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là
ông nội chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở."
Quyết định của Tòa án là hợp lí vì cho dù không xác định được thời điểm mà
gia đình chị Vân thuê nhà là năm 1954 hay 1968, đến thời điểm năm 2004 khi cụ Hảo
kiện ra Toà thì cũng đã quá 30 năm. Vậy việc chiếm hữu trên 30 năm của chị Vân đối
với ngôi nhà là thỏa đáng theo Khoản 1 Điều 186 Bộ luật Dân sự 2005: " Khi chủ sở
hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không bao
gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc chiếm
hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch”.

Câu 2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy
chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà
cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông
Chính không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà.
9
Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc
đầu là ông nội chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.” và “Nguyên đơn
khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu
chứng minh”, “Đến năm 2004 cụ Hảo mới kiện ra toà” cho thấy Tòa án đã khẳng định
gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.
Dù không xác định được chính xác thời điểm mà gia đình chị Vân thuê nhà là
năm 1954 (60 năm tính đến thời điểm đơn khởi kiện đầu tiên năm 2004) hay 1968 (36
năm tính đến thời điểm đơn khởi kiện đầu tiên năm 2004) thì ngay thời điểm năm 2004
khi cụ Hảo kiện ra Toà thì chị Vân cũng đã ở quá 30 năm. Và theo Điều 236 Bộ luật
dân sự 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản,
30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Thì
việc chưa xác minh được căn nhà số 2 Hàng Bút có phải là nhà vắng chủ, nhà phố cổ
được giữ lại bảo tồn,… cùng với việc gia đình chị Vân đã sinh sống ở đây quá 30 năm,
Tòa án khẳng định chị Vân đã chiếm hữu căn nhà trên 30 năm là thỏa đáng.

Câu 2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết
suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án ?
Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm qua đoạn: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm
hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự
2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn
mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở
hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này.” và ”Gia đình chị Vân đã định cư ở nhà số 2 Hàng Bút có thể là từ năm
1954 hoặc1968 nhưng đã hơn 30 năm và không có gì để chứng minh rằng trong 30
năm tại căn nhà số 2 Hàng Bút có xuất hiện tranh chấp. Điều 190 Bộ luật dân sự 2005
có quy định về chiếm hữu liên tục như sau: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện
trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên
tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.”

Câu 2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
đình chị vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm qua đoạn: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là
chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật
dân sự...” Điều 191 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Việc chiếm hữu tài sản được coi
là chiếm hữucông khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản
10
đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu
bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.”. Theo đó, gia đình chị Vân vẫn sử
dụng căn nhà để sống và sinh hoạt từ khi ông Hải mất. Trong quá trình ở, bố chị có
nâng cao nền nhà, thay cửa. Như vậy, tài sản đang chiếm hữu được sử dụng đúng tính
năng, công dụng và được gia đình chị bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình.

Câu 2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án.
Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sỡ hữu nhà đất có tranh chấp trên
tại đoạn: "Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm
1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân
dân phường Hàng Bồ năm 2001), đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn kiện ra Tòa án yêu
cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà
đất nêu trên".
Việc Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp
dựa vào lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa chính xác:
- Thứ nhất, nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng khoán điền
thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946. Nghĩa là bà Hảo
đã xác lập quyền sở hữu đối với căn nhà từ năm 1946. Dù cụ Hảo có vào Nam sinh
sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở hữu đối với căn nhà đó, không có chứng minh
nào cho thấy cụ không còn là chủ sở hữu căn nhà.
- Thứ hai, năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút
cho bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã
Kim Chung). Di chúc có xác nhận của UNND xã là di chúc hợp pháp theo quy định của
Điều 655 Bộ luật Dân sự 1995. Tại điểm b khoản 1 Điều 655 có quy định:
“ 1- Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ
hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật.
2- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
4- Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660
của Bộ luật này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại
khoản 1 Điều này.”

11
- Tại thời điểm năm 2004, khi cụ Hảo lập di chúc tại UBND xã chắc chấn có
yêu cầu chứng minh việc cụ Hảo có quyền đối với di sản căn nhà số 2 Hàng Bút thông
qua bằng khoán điền thổ, giấy đăng ký trước bạ,...
- Thứ ba, việc chị Vân bán căn nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn chị
Lan là không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm này. Cụ thế,
Điều 443 Bộ luật Dân sự 1995 có quy định: " Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập
thành văn bản, có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền. ". Giấy mua bán nhà giữa chị Vân và vợ chồng anh Sơn,
chị Lan không hề có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nên không có giá trị về mặt
pháp lý.

Câu 2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối
với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không?
Vì sao ?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự 2005 về xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu: "Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba
mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này.".
Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh
chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền, bởi vì gia đình chị vân đã được xác
định là đã ở tại căn nhà có tranh chấp trên 30 năm, là chiếm hữu, liên tục, công khai
nhưng không ngay tình.
Bởi vì chị Vân biết rõ căn nhà được thuê từ ông Chính, đồng thời người đứng
tên sở hữu là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo (có bằng khoán điền thổ số 25, tập 2, tờ
số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946). Và việc chiếm hữu tài sản của chị
Vân không phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, tức là trường hợp người chiếm
hữu không phải là chủ sở hữu tài sản; không phải là người được chủ sở hữu ủy quyền
quản lý tài sản, không phải là người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua
giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu và cũng không phải là người phát
hiện ra tài sản vô chủ hoặc bị đánh rơi, bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với
các điều kiện do pháp luật quy định, thì đó là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

VẤN ĐỀ 03: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN


Tình huống: Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng.
Tuy nhiên ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hang và bà Dung
từ chối thanh toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

Câu 3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
12
Theo Điều 162 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm
vi quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Theo đó, người phải chịu rủi ro đối với tài sản bao gồm: Người sở hữu tài sản
của chính mình và chủ thể có quyền khác đối với tài sản thuộc sở hữu của người khác
trong phạm vi quyền của mình.

Câu 3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài ? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không ? Vì sao ?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 223 BLDS 2015:“Người được giao tài sản thông qua
hợpđồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu
kháctheo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”.
Và khoản 1 Điều 161 BLDS 2015 quy định:
“1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo
quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định
thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên
không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là
thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại
diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.
2. Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì
hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.”
Theo đó, bà Dung đã thỏa thuận mua ghe xoài của bà Thủy và đã nhận được ghe
xoài trước khi cháy chợ. Vậy bà Dung đã xác lập quyền sở hữu của mình đối với ghe
xoài trước khi cháy chợ.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương I.
2. Bộ luật Dân sự 2005.
3. Bộ luật Dân sự 2015.
4. Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011.
5. Luật đất đai năm 2013.
6. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
7. Bộ luật Dân sự 1995.
8. Án lệ số 31/2020/AL.
9. Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa.
10. Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long
11. Bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh.

14
12. Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre.
13. Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
14. Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.

15

You might also like