You are on page 1of 13

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,


TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

Buổi thảo luận thứ ba : Tài sản và quyền đối với tài sản
Lớp: Hành Chính 47.1
Tên : Trần Hà Trọng Nhân
MSSV : 2153801014177
MỤC LỤC
1 Khái niệm tài sản........................................................................................................4
1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.......................................................................................................4
1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?...................................................................................................4
1.3 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không? Vì sao?.............................................................................................5
1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản;...........................................................................................................5
1.5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?.................................................6
1.6 Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”................................6
1.7 Bitcoin là gì?........................................................................................................7
1.8 Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?.............7
1.9 Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết..............................................................................................7
1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam...................................................................8
1.11 Quyền tài sản là gì?.............................................................................................8
1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?.....................................................................................................8
1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?...................................................................9
1.14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?..................................................................................................................9
2 Căn cứ xác lập quyền sở hữu.....................................................................................9

1
2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.......................................................................9
2.2 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.....................................................10
2.3 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?..............................................................10
2.4 Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh chị về khẳng định này của Toà án?..............................................................11
2.5 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh chị về
khẳng định này của Tòa án?.......................................................................................11
2.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?12
3 Chuyển rủi ro đối với tài sản....................................................................................12
3.1 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời..................................................................................................................12
3.2 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. 12
3.3 Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời....................................................................................................13

2
1 KHÁI NIỆM TÀI SẢN
1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá.
- Giấy tờ có giá được xác định là một loại giấy tờ có giá trị như chứng cứ, bằng
chứng. để xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá (thường
là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng…) với người sở hữu giấy tờ có giá
(người mua trái phiếu, tín phiếu…) trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi
và những điều kiện khác trong giao dịch ghi nợ này.
- CSPL: Theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định "Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản". Như vậy, giấy tờ có giá là một loại tài sản theo
luật dân sự. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010,
Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư
01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả
nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một
thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”
Tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số
163/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) có quy định: “Giấy
tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi,
séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành
tiền và được phép giao dịch”.
- Ví dụ: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, Quyền mua cổ phần, chứng quyền,
quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc
chỉ số chứng khoán,…
1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không được coi là giấy tờ có giá. Theo Công văn số 141/TANDTC-
KHXX ban hành ngày 21/9/2011, các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản như
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy
đăng kí xe ô tô,... không phải là giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 163 của Bộ
luật Dân sự năm 2005.
- Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời là:
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động
sản. Bất động sản và Động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai”; Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”. Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà

3
ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn
bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 không cho câu trả lời.
1.3 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu
trả lời không? Vì sao?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không được coi là tài sản.
- CSPL:
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và là tài sản hình thành trong tương lai.”
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác.”
- Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời là:
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất
động sản và Động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”;
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác”. Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất,
là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 không cho câu trả lời.
1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản;
Theo em,hướng giải quyết trong quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 liên quan
đến “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản là chưa hoàn toàn hợp lý.Vì:
Tòa án nhân dân tối cao xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở
hữu nhà không phải là tài sản là chưa phù hợp. Căn cứ vào Điều 163 Bộ luật Dân sự
2005, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá, tuy nhiên
có thể coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà là vật. Bởi

4
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà tồn tại dưới một vật
nhất định, có hình dạng nhất định, là tờ giấy; nằm trong khả năng chiếm hữu của con
người, có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất; có giá trị sử dụng, được dùng để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp
của chủ sở hữu. Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà
không thể tham gia vào giao dịch trao đổi, mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của
giấy.
-Tòa án nhân dân tối cao coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở
hữu nhà không phải là tài sản sẽ dẫn tới nhiệu hệ quả khó giải thích được về mặt lý luận
và thực tế, đồng thời nhận thức làm làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử
dụng đất. Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội
dung riêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt chỉ có
thể thực hiện đượctrên các đối tượng là tài sản, việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không phải là tài sảnđã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử
dụng đối với loại giấy tờ này. Từ đó sẽ dẫn tới việc Tòa án không có cơ sở để thừa nhận
việc bảo hộ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp đối với Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà một khi có vấn đề xảy ra như tranh chấp. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng. Thực tiễn xét xử
hiện nay không coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một tài sản, tuy nhiên quan
này tỏ ra thiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn.
1.5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
CSPL:
- Căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 quy định:
“1. Tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.”
-Căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đất và quyền
tài sản khác”
Căn cứ vào các điều trên, nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không là tài sản.
1.6 Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
Theo em, hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là hợp lí. Vì:
Căn cứ vào Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của
luật này.
3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử
dụng đất được thực hiện như sau:

5
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường
hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b của khoản này.”
Nên Hội đồng xét xử yêu cầu ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H buộc bà Nguyễn Thị Thủy
T có nghĩa vụ giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM090902 số vào sổ
H55802 do Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ cấp ngày 29/02/2008 cho hộ ông Võ Văn B
là hoàn toàn đúng,do Căn cứ quy định tại Điều 137 của BLDS năm 2005: “Khi giao dịch
dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường
hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường" mà con ông B thế chấp giấy tờ cho bà T để vay
tiền có ông B, bà H biết nhưng phía bà T chưa chứng minh được việc này là có thật thì
cũng được xem là giao dịch dân sự vô hiệu.Nên việc con ông B mang thế chấp giấy tờ
chứng nhận sử dụng đất không có giá trị pháp lý về mặt hình thức, nhưng việc vay tiền
của con ông B và bà T vẫn tồn tại và hai bên có nghĩa vụ với nhau.
1.7 Bitcoin là gì?
Bitcoin là một loại tiền tệ kỹ thuật số được phát hành dưới dạng phần mềm mã
nguồn mở và phát minh bởi Satoshi Nakamoto. Đây cũng chính là đồng tiền điện tử đầu
tiên trên thế giới, đặt nền móng cho sự phát triển của thị trường crypto. Bitcoin sử dụng
mạng ngang hàng (peer-to-peer), giúp người gửi giao dịch trực tiếp với người nhận mà
không cần thông qua bên trung gian nào. Từ đó, loại bỏ đi các khoản phí không cần thiết
và giúp mỗi giao dịch có phí rẻ hơn nhiều so với dịch vụ chuyển tiền quốc tế.
1.8 Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đất và
quyền tài sản khác”.Bitcoin tồn tại dưới dạng tiền ảo nên không thể coi là quyền tài sản.
1.9 Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.
- Hiện nay ở một số quốc gia đã coi Bitcoin là tài sản
- Ví dụ:
Mỹ: Năm 2013, Bộ Tài chính Hoa Kỳ phân loại bitcoin như là một loại tiền ảo phi tập
trung có thể chuyển đổi. Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai, CFTC, đã phân loại
bitcoin là một loại hàng hóa vào tháng 9 năm 2015. Theo IRS, bitcoin bị đánh thuế như
một tài sản. Vào tháng 9 năm 2016, một thẩm phán liên bang đã ra phán quyết rằng
"Bitcoin là tiền theo nghĩa đơn giản của thuật ngữ đó".
Đức: Ngày 19 tháng 8 năm 2013, Bộ Tài chính Đức đã thông báo rằng bitcoin hiện
nay về cơ bản là một đơn vị và có thể được sử dụng cho mục đích thuế và giao dịch trong
nước. Các giao dịch qua bitcoin phải trả thuế VAT như các giao dịch bằng đồng euro.
Israel: Kể từ năm 2017, Cơ quan Thuế Israel đã đưa ra một tuyên bố nói rằng bitcoin
và các loại tiền điện tử khác sẽ không thuộc định nghĩa pháp lý về tiền tệ và không phải
là an ninh tài chính mà là tài sản chịu thuế. Mỗi lần bán bitcoin, người bán sẽ phải trả

6
25% thuế lợi tức vốn. Những người khai thác, buôn bán bitcoin sẽ được coi là doanh
nghiệp và sẽ phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như tính thuế VAT 17%.
1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan
hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Theo em, quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản
ở Việt Nam là:
- Căn cứ theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bảo gồm bất động sản và động sản. Bất
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương
lai”.Nên tiền ảo không được coi là tài sản vì nó không thuộc bất kỳ loại nào nêu
trên. Vì vậy, việc sở hữu, sử dụng, mua bán, giao dịch tiền ảo như một loại tài sản
sẽ mang lại rủi ro rất lớn cho người sở hữu, người tham gia giao dịch tiền ảo và
không được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, vì chưa có quy định pháp luật rõ ràng về
tiền ảo nên gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan có thẩm quyền
trong việc giải quyết các tranh chấp về tiền ảo. Các tranh chấp thường phát sinh
liên quan đến tiền ảo gồm quyền sở hữu tiền ảo, mua bán tiền ảo, vay mượn tiền
ảo, thừa kế tiền ảo và bồi thường thiệt hại trong giao dịch tiền ảo.
- Pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng, đầy đủ điều chỉnh đối với tiền ảo;
còn nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến tiền ảo được đặt ra vẫn chưa thể giải quyết.
Tiền ảo đang nằm trong “khoảng trống pháp lý” khi không bị pháp luật cấm nhưng
cũng không được pháp luật thừa nhận.
- Tiền ảo là lĩnh vực rất mới và phức tạp nên việc đánh giá đầy đủ và xây dựng
khung pháp lý hoàn chỉnh đối với tiền ảo là thách thức không chỉ với Việt Nam mà
còn với nhiều nước khác trên thế giới. Hiện tại, tiền ảo đã bắt đầu xâm nhập vào
các hoạt động đầu tư, quan hệ dân sự, tác động đến đời sống kinh tế - xã hội của
người dân nên đòi hỏi nước ta phải nhanh chóng ban hành các quy định pháp luật
và có những biện pháp quản lý phù hợp để điều chỉnh các quan hệ pháp sinh liên
quan đến tiền ảo, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của nhà đầu tư, người dân và hạn chế các tội phạm liên quan đến tiền ảo. Chúng ta
không xa lạ gì với những vụ việc lừa đảo từ những sàn giao dịch tiền ảo và hệ lụy
to lớn gây ra cho nhà “đầu tư”. Để góp phần hạn chế những hệ lụy về tiền ảo thì
nhà nước nên có những quy định rõ ràng,đầy đủ điều chỉnh đối với tiền ảo.
1.11 Quyền tài sản là gì?
Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015, quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác.
1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, không đòi hỏi phải có sự chuyển giao
trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự phải đáp
ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao cho người khác

7
trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản bao gồm quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê,
quyền trị giá bằng tiền, quyền thực hiện hợp đồng, quyền sở hữu trí tuệ.
1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
“… Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số
63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm
1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại
Điều 188 và Điều 634 Bộluật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là
quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do
đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.”
1.14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm
tài sản)?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền
thuê và quyền mua đó là vẫn còn bất cập trong việc có xem quyền thuê và quyền mua có
phải là tài sản hay quyền tài sản hay không? Có lúc lại xem quyền thuê và quyền mua là
quyền tài sản như ở đoạn: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 364 của Bộ luật Dân sự
năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà là quyền tài sản (trị giá bằng tiền) và được
chuyển giao cho các thừa kế”. Còn có lúc lại xem quyền thuê và quyền mua là tài sản ở
trong đoạn: “Đến ngày 02/10/2001, Cục Quân khu 7 ký hợp đồng cho bà L thuê căn nhà
trên. Sau đó Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủ tục bán căn nhà trên cho bà L theo
Nghị định số 61/CP. Ngày 09/02/2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm
2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như
vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do sự thống nhất giữa bà H,
ông T1 và bà L ngày 05/07/2001 thì Quân khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên
mua hóa giá nhà. Do đó có căn cứ xác định số nhà 63 đường B là tài sản chung của bà H,
ông T1 và bà L”. Việc này tạo ra những sự mâu thuẫn không giải thích được bắt nguồn từ
khái niệm tài sản và khái niệm về quyền tài sản vẫn còn nhiều thiếu sót, chưa hoàn thiện,
chỉ liệt kê mà không chỉ mà một cách cụ thể. Trong mối quan hệ với khái niệm tài sản thì
quyền thuê và quyền mua nó là quyền tài sản chứ không phải tài sản vì chủ thể tự mình
xác lập thực hiện để thỏa mãn lợi ích của mình

2 CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU


2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?
Theo quyết định của toà án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại số nhà 2 Hàng Bút đã nhiều thế
hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hào và nộp tiền thuê
nhà cho ông Chính ( con cụ Hảo ), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống năm 1954,
ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo uỷ quyền cho ông Chính quản lý
căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại số nha 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc
đầu ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở”.

8
Quyết định trên của Toà án là hợp lý, bởi vì: Theo khoản 1 điều 186 BLDS năm 2005:
“ Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung
không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc
chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch”. Mặc dù không xác
định được rõ chị Vân đã thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 hay của ông Chính vào năm
1968 nhưng đến năm 2004 khi cụ Hảo gửi đơn khởi kiện đòi lại nhà thì chị Vân đã ở tại
căn nhà số 2 Hàng Bút trên 30 năm.

2.2 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Theo quyết định của toà án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay
tình nhà đất trên 30 năm: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại số nhà 2 Hàng Bút đã nhiều
thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền
thuê nhà cho ông Chính ( con cụ Hảo ), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống năm
1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo uỷ quyền cho ông Chính
quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại số nha 2 Hàng Bút từ năm
1954, lúc đầu ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía
nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng khong có tài
liệu chứng minh (chỉ có biên bản hoà giải tại UBND phường Hàng Bồ năm 2001); đến
năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra toà án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn
cứ, vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại
căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình”.
Quyết định trên của toà án là hợp lí. Vì theo cơ sở pháp lý được quy định tại khoản
1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều này”. Và mặc dù không xác định được rõ chị Vân đã thuê nhà của cụ
Hào từ năm 1954 hay của ông Chính vào năm 1968 nhưng đến năm 2004 khi cụ Hảo gửi
đơn khởi kiện đòi lại nhà thì chị Vân đã ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút trên 30 năm.
2.3 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Theo quyết định của toà án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất trên 30 năm: “ “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại số nhà 2 Hàng Bút đã nhiều
thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền
thuê nhà cho ông Chính ( con cụ Hảo ), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống năm
1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hào uỷ quyền cho ông Chính
quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại số nha 2 Hàng Bút từ năm
1954, lúc đầu ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía
nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng khong có tài
liệu chứng minh (chỉ có biên bản hoà giải tại UBND phường Hàng Bồ năm 2001); đến

9
năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra toà án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn
cứ, vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại
căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai”.
Quyết định của toà án là hợp lý, vì theo Điều 182 BLDS 2015: “Chiếm hữu liên tục
là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về
quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác,
kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu”. Và mặc dù không xác định được
rõ chị Vân đã thuê nhà của cụ Hào từ năm 1954 hay của ông Chính vào năm 1968 nhưng
đến năm 2004 khi cụ Hào gửi đơn khởi kiện đòi lại nhà thì chị Vân đã ở tại căn nhà số 2
Hàng Bút trên 30 năm. Bên cạnh đó, cụ Hảo cũng không có tài liệu chứng minh khi đòi
lại nhà vào năm 1975 mà chỉ có biên bản hoà giải tại UBND phường Hàng Bồ năm 2001
=> không có biên bản nào giải quyết vụ tranh chấp tài sản.
2.4 Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh chị về khẳng định này của Toà án?
Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công
khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: Trong phần xét thấy
“… Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục,
công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này…”.”
Căn cứ theo khoản 1 Điều 183 BLDS 2015: “Chiếm hữu công khai là việc chiếm
hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được
sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài
sản của chính mình.”
Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà tranh chấp với mục đích chủ đạo là nơi sinh
sống và sinh hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà trong quá trình sinh
sống. Ngôi nhà số 2 Hàng Bút đã được sử dụng theo đúng tính năng, công dụng và được
người chiếm hữu là gia đình chị Vân bảo quản và giữ gìn như tài sản của mình.
 Như vậy, khẳng định của Tòa án là hợp lý và có căn cứ.
2.5 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng
định này của Tòa án?
Theo Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, có đoạn: “…Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với
gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản
hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có
đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.”

10
- Việc Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp dựa vào
lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa thuyết phục, vì những lý do sau:
+ Thứ nhất, nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội có bằng khoán
điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946, là tài
sản riêng của cụ Dư Thị Hảo. Dù cụ Hảo có vào Sài Gòn sinh sống nhưng vẫn chưa
từ bỏ quyền sở hữu đối với căn nhà đó, không có chứng minh nào cho thấy cụ
không còn là chủ sở hữu căn nhà.
+ Thứ hai, năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút cho
bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân
xã Kim Chung).
+ Thứ ba, việc chị Vân bán căn nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn chị Lan là
không đúng bởi vì chị Vân không được coi là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà nên
chị Vân không có quyền bán hay định đoạt đối với căn nhà số 2 Hàng Bút. Giấy
mua bán nhà giữa chị Vân và vợ chồng anh Sơn, chị Lan không hề có xác nhận của
cơ quan có thẩm quyền nên không có giá trị về mặt pháp lý.
2.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo Điều 236 BLDS 2015: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Chị
Vân và gia đình sử dụng nhà đất tranh chấp trong vòng 30 năm, chiếm hữu liên tục, công
khai nhưng không ngay tình. Chị Vân biết người đứng tên sở hữu là tài sản của cụ Hảo
(theo bằng khoán điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng kí trước bạ tại Hà Nội ngày
4/11/1946) và căn nhà cũng chỉ được thuê từ ông Chính, đã biết rõ như vậy nhưng lại cố
tình chiếm hữu. Vì vậy gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở có quy định về thời hiệu hưởng quyền

3 CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN


3.1 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Bà Dung phải chịu rủi ro đối với tài sản vì Bà Dung đã mua 01 ghe xoài của Bà
Thủy trị giá 16.476.250 đồng và ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận
hàng
Theo cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 162 BLDS 2015:" Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về
tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật
khác có liên quan quy định khác". Và khoản 1 Điều 441 BLDS 2015:" Bên bán chịu rủi
ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài
sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác".
3.2 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tại thời điểm cháy chợ. Bà Dung chính là chủ sở hữu số Xoài vì Bà Dung đã mua
01 ghe xoài của Bà Thùy trị giá 16.476.250 đồng và ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ

11
sau khi bà Dung nhận hàng. Còn bà Thủy đã chuyển giao quyền sở hữu cho bà Dung
thông qua mua bán nên quyền sờ nữa của bà Thủy với số xoài đã chấm dứt.
Cơ sở pháp lý: tại Điều 166 BLDS 2005 :"Chủ sở hữu phải chịu rủi ro khi tài sản bị
tiêu hủy hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác". Và Điều 248 BLDS 2005:"Khi chủ sở hữu chuyển giao
quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho,
cho vay hoặc thông qua việc để thừa kế thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó
chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao".
3.3 Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp này thì bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài cho bà Thuỷ.
Vì bà Dung nhận ghe xoài trước khi xảy ra sự cố cháy chợ. Việc chuyển giao đã diễn ra
hoàn tất, bà Dung là chủ sở hữu của ghe xoài vào thời điểm xảy ra sự cố. Bà Dung phải
chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, cụ thể là thanh toán tiền ghe xoài
16.476.250 đồng cho bà Thủy, là người đã hoàn thành nghĩa vụ giao chiếc ghe nguyên
vẹn cho bà Dung.
CSPL: Theo Điều 162 và Điều 223 BLDS năm 2015

12

You might also like