You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA: LUẬT THƯƠNG MẠI

BÀI TẬP THẢO LUẬN 3:


Tài sản và Quyền đối với tài sản
Môn học: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Họ và tên MSSV
Trịnh Cao Vân Quyên 2153801011176

1
Vấn đề 1: Khái niệm tài sản...................................................................................... 4
1.Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về giấy tờ có
giá. ............................................................................................................................................... 4

2.Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sử dụng nhà”
có phải là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? 4

3.Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao? ...... 5

4.Suy nghĩ của anh/ chị trong hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu
có điều kiện, đối chiếu thêm pháp luật nước ngoài)? ................................................................. 6

5.Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
có là tài sản không? Vì sao? ....................................................................................................... 6

6.Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”...................................................................... 7

7.Bitcoin là gì? ............................................................................................................................ 7

8.Theo tòa án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?................................ 7

9.Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh
chị biết? ....................................................................................................................................... 7

10.Suy nghĩ của anh chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản ở Việt Nam. ............................................................................................................. 8

11.Quyền tài sản là gì? ............................................................................................................... 8

12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không?
..................................................................................................................................................... 9

13.Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê,
quyền mua là tài sản?.................................................................................................................. 9

14.Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số
05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? ................................. 9

Vấn đề 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu ................................................................ 10

2
1.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của Tòa án. .. 10

2.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của
Tòa án........................................................................................................................................ 10

3.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của Tòa
án. .............................................................................................................................................. 11

4.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của Tòa án. .. 11

5.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của Tòa án........................................ 12

6.Theo anh chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao? ................................................ 13

Vấn đề 3: Chuyển đổi rủi ro đối với tài sản ........................................................... 13


1.Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 13

2.Tại thời điểm cháy chợ, ai là sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................... 14

3.Bà Dung có phải thanh toán tiền ghe xoài không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ... 14

Tài liệu tham khảo .................................................................................................. 14

3
Vấn đề 1: Khái niệm tài sản

1.Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá là giấy tờ chứng nhận một quyền tài sản, có giá trị trao đổi, thực hiện việc
thanh toán trực tiếp hoặc có thể xuất trình để thực hiện quyền tài sản ghi nhận trên đó. Giấy
tờ có giá phát hành bởi Nhà nước, ngân hàng, tổ chức có chức năng kinh doanh tiền tệ có
liên quan đến người được cấp giấy tờ đó hoặc các doanh nghiệp có cơ sở sản xuất đang có
nhu cầu huy động vốn.

Cơ sở pháp lý: BLDS 2015 không có quy định trực tiếp về giấy tờ có giá. Theo quy định
tại điểm 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, giấy tờ có giá là “bằng chứng
xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Theo Khoản 1
Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP) quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ
phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định
của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch.”

Ví dụ: Trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu, cổ phiếu, ..

2.Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sử dụng nhà” có phải là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trả lời không?
Căn cứ Khoản 1 Điều 105: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản…..”; Điều
115: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” Như vậy, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sử dụng nhà không được xem là giấy tờ
có giá mà chỉ là chứng thư pháp lý thể hiện quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản
gắn liền với đất (Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013).

Quyết định số 06 cho rằng:

4
“Theo Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai”; Điều 115 Bộ Luật dân sự 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác”. Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp
lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với
đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản
khác gắn liền với đất. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa
đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và
không xem được loại giấy tờ có giá.

Bản án số 39 không đề cập cụ thể là có công nhận “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” là giấy tờ có giá.

3.Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả
lời không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không được xem là tài sản.Theo Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản
như sau: “1. Tài sản là vật,, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai”; Điều 115 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Do đó, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” chỉ là văn bản chính quyền của các cơ quan có thẩm quyền ban
hành nhằm bảo vệ quyền tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy chứng
nhận thì có thể yêu cầu cấp lại do không làm ảnh hưởng gì đến quyền của chủ sở hữu.
Quyết định số 06 thể hiện điều đó qua kết luận rằng: “Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không xem được loại giấy tờ có giá”.
Bản án số 39 có đoạn trích tuy nhiên đoạn trích này không đề cập tới “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là tài sản.
5
4.Suy nghĩ của anh/ chị trong hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm pháp luật nước ngoài)?
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa tại Quyết định số 06 là
không thuyết phục. Tòa xác định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là
tài sản, là giấy tờ có giá, tức không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án; từ đó, tòa quyết
định không chấp nhận kháng nghị từ Viện Kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh cũng như
kháng cáo của nguyên đơn Phan Hai. Tuy nhiên, căn cứ Khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015: tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật
để áp dụng; Khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử nên xác định yêu
cầu của nguyên đơn Phan Hai về việc yêu cầu ông Phan Quốc Thái thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án. Theo điều 105 BLDS 2015: “1.Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản…”. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất, gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, vậy tuy
không xem là giấy tờ có giá nhưng có thể xem đó là một vật . Yêu cầu đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử đụng đất của nguyên đơn là yêu cầu đòi lại quyền tài sản đối với phần đất
hợp pháp của mình. Mà theo BLDS 2015, quyền tài sản cũng được xác định là một loại tài
sản đặc thù, là loại quyền dân sự có nội dung kinh tế, có thể trị giá bằng tiền, do chủ thể có
quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất hoặc tinh thần của người có quyền.

5.Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
tuy không được xem là tài sản. Theo Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về tài
sản như sau: “1. Tài sản là vật,, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai”; Điều 115 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Do đó, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” chỉ là văn bản chính quyền của các cơ quan có thẩm quyền ban

6
hành nhằm bảo vệ quyền tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy chứng
nhận thì có thể yêu cầu cấp lại do không làm ảnh hưởng gì đến quyền của chủ sở hữu.
6.Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
Theo em, hướng giải quyết của tòa ở bản án số 39 là thuyết phục. Cụ thể, Tòa chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H, buộc bà Nguyễn Thị Thủy T giao
trả lại giất chứng nhận quyền sử dụng đất số AM090902, tọa tại ấp Thanh Hưng, xã Thanh
Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long do UBND huyện Long Hồ cấp. Bởi, khi xem xét toàn
bộ lời trình bày, tài liệu chứng cứ do các bên cung cấp thể hiện: ông B đã làm đơn cớ mất
được UBND xã Thanh Đức về việc ông làm thất lạc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Sau đó, bà T tranh chấp và đưa ra giấy chứng nhận sử dụng đất AM090902 cho thấy giấy
này không bị mất. Việc bà T chiếm giữ giấy chứng nhận sử dụng đất này là trái pháp luật,
bà T phải có nghĩa vụ giao trả lại cho hộ ông Võ Văn B.

7.Bitcoin là gì?
Bitcoin (BTC) là một loại tiền tệ kỹ thuật số được phát hành dưới dạng phần mềm mã nguồn
mở và phát minh bởi Satoshi Nakamoto, đây cũng chính là đồng tiền điện tử đầu tiên trên
thế giới, đặt nền móng cho sự phát triển của thị trường trao đổi tiền kỹ thuật số toàn cầu.

8.Theo tòa án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Tại Bản án 22/2017/HC-ST ngày 21/09/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, quan điểm
tòa đưa ra là: “Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật
nào quy định tiền kỹ thuật số là hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng ở Việt Nam.” Căn cứ điều 163 BLDS 2005 quy định về tài sản: “Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”; hay điều 3 Luật Thương mại 2005: ““Hàng hóa bao
gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền
với đất đai”; tòa cho rằng, Bitcoin (tiền kỹ thuật số) không phải là một loại tài sản.

9.Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh chị biết?
Trên thế giới chia ra nhiều quan điểm về số phận pháp lý của Bitcoin, về việc có coi đây là
một loại tài sản, được pháp luật bảo hộ và chấp nhận thanh toán như tiền pháp định hay
7
không. Tại Hoa Kỳ, tiền kỹ thuật số được xem là hợp pháp, Năm 2013, Bộ Tài chính Hoa
Kỳ phân loại bitcoin như là một loại tiền ảo phi tập trung có thể chuyển đổi. Ủy ban Giao
dịch Hàng hóa Tương lai, CFTC, đã phân loại bitcoin là một loại hàng hóa vào tháng 9 năm
2015. Theo IRS, bitcoin bị đánh thuế như một tài sản. Tương tự với Việt Nam, Indonesia
xét tiền kỹ thuật số hợp pháp để giao dịch và nắm giữ nhưng lại là bất hợp pháp để làm
công cụ thanh toán. Tại hầu hết các nước Châu Âu, Bitcoin được xem là tài sản hợp pháp,
cụ thể như Vương quốc Anh, Tính đến năm 2017, chính phủ Vương quốc Anh đã tuyên bố
rằng bitcoin không bị kiểm soát và nó được coi là 'ngoại tệ' cho hầu hết các mục đích.

10.Suy nghĩ của anh chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan
hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam
khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là hợp lý. Căn cứ theo Điều 163
Bộ Luật dân sự 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản.” Bitcoin không thuộc loại nào được nêu ở trên trong Bộ Luật dân sự 2005. Ngoài ra,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh
toán hợp pháp. Với cơ chế hoạt động không có sự kiểm soát, Bitcoin nằm ngoài thẩm quyền
quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Vì thế những giao dịch ngầm chúng ta khó kiểm soát
được cho những hoạt động của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, thanh
toán, tài trợ chủ quyền quốc gia về phát hành tiền tệ sẽ bị xâm phạm, ảnh hưởng đến hiệu
quả điều hành chính sách tiền tệ, pháp luật nước ta đã thực hiện những chính sách quản lý
riêng. Nhìn nhận từ thực tế hiện nay, khi chiến sự Nga-Ukraina diễn biến căng thẳng đã đẩy
mức độ lạm phát của các loại tiền pháp định lên cao thì thị trường tiền kỹ thuật số dần trở
thành một lựa chọn tích trữ cũng như trao đổi tiền của nhiều người. Nên trong thời gian tới,
với sự hội nhập toàn cầu cũng như mở rộng khả năng hợp tác thì pháp luật Việt Nam sẽ có
những quy định cụ thể, rõ ràng về loại tiền kỹ thuật số này.
11.Quyền tài sản là gì?
Quyền tài sản là một dạng tài sản đặc thù, không tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình, là một
loại quyền dân sự có nội dung kinh tế, có thể trị giá được bằng tiền, do chủ thể có quyền tự
mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc
tinh thần của người có quyền. Tại điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”.

8
12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?
Không có quy định nào khẳng định quyền thuê, quyền mua là quyền tài sản. Theo điều 115
BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”.

13.Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
“... Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63
đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995,
cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều
188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà cùa cụ T là quyền
tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H
và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, quyền mua hóa giá của cụ T.”.

14.Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong quyết định số 05 là chưa
thuyết phục vì cho rằng quyền được thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản và
chuyển giao cho các thừa kế các quyền này. Xét về lý lịch của cụ T, cụ T có công với cách
mạng nên sau ngày giải phóng, Quân khu 7 có cấp nhà theo tiêu chuẩn sĩ quan quân đội,
“để tạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh
gia đình cán bộ không có nhà ở ”. Tức, quyền thuê, mua hóa giá này phát sinh với đối tượng
cụ thể là cụ T, không thể chuyển nhượng cho các thừa kế. Hơn nữa, với khái niệm tài sản
ở Điều 115 BLDS 2015 thì quyền này không trị giá được bằng tiền. Còn về giấy ủy quyền
do cụ T lập cho bà L khi cụ còn sống cũng như qua đời chỉ để giải quyết những việc liên
quan đến căn nhà (về thủ tục) chứ không phải ủy quyền cho bà L sở hữu toàn bộ căn nhà
như nhận định từ tòa cấp phúc thẩm.

9
Vấn đề 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu
1.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về
khẳng định của Tòa án.
Trích dẫn bản án: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy
chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho
ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính
không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong khi
đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội
chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.”, “nguyên đơn khai có đòi nhà đối với
gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh”, “đến năm 2004 cụ
Hảo mới kiện ra toà”. Như vậy, Tòa án đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm.
Dù không xác định được chính xác thời điểm mà gia đình chị Vân thuê nhà là năm 1954
hay 1968 thì cả 2 thời điểm đó cho đến thời điểm cụ Hảo lập đơn kiện cũng đều quá 30 năm
gia đình chị Vân sinh sống trên ngôi nhà số 2 Hàng Bút. Và ta cũng được biết rằng Tòa
chưa xác minh được việc căn nhà số 2 Hàng Bút có phải là nhà vắng chủ, nhà phố cổ được
giữ lại bảo tồn,…mà lại có tranh chấp giữa 2 bên thì có thể khẳng định :“gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm”.
2.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh chị về khẳng định của Tòa án.
Trích dẫn bản án: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động
sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.””
Theo em, quyết định trên của Tòa án không thỏa đáng khi kết luận rằng gia đình chị Vân
chiếm hữu ngay tình căn nhà số 2 Hàng Bút. Tuy rằng, theo lời khai của chị Vân thì gia
đình chị đã sống ở đây từ trước 1975 (không biết cụ thể là năm 1954 hay 1968), nhưng gia
đình chị Vân vẫn duy trì thỏa thuận thuê nhà đến khi ông nội chị là ông Hải mất (1995).
Vậy nên, nếu xem xét thời hiệu chiếm hữu ngay tình thì của gia đình chị Vân đối với nhà
số 2 Hàng Bút, theo khoản 1 Điều 247 BLDS 2005, Điều 236 BLDS 2015, thì tới thời điểm
khởi kiện vẫn chưa đủ 30 năm.
10
3.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh chị về khẳng định của Tòa án.
Trích dẫn bản án: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động
sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.””
Căn cứ Điều 190 BLDS 2005, Điều 182 BLDS 2015 về chiếm hữu liên tục: “Chiếm hữu
liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh
chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng
một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.”
Theo em quyết định của Tòa là thuyết phục, bởi xét từ thời điểm 1954 hay 1968 thì gia
đình chị Vân không hề có tranh chấp về căn nhà số 2 Hàng Bút, mãi đến năm 2004 cụ
Hảo mới đứng ra khởi kiện yêu cầu trả nhà thì như vậy, gia đình chị Vân đã chiếm hữu
liên tục nhà có tranh chấp trên 30 năm.

4.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh chị về
khẳng định của Tòa án.
Trích dẫn bản án: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động
sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.””
Căn cứ Điều 191 BLDS 2005, khoản 1 Điều 183 BLDS 2015: “"Việc chiếm hữu tài sản
được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài
sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu
bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình."
Kết luận của tòa án là thỏa đáng, bởi theo lời khai từ chị Vân, gia đình chị đã sinh sống
công khai, minh bạch, đồng thời sử dụng đúng tính năng, công dụng (để ở) và bảo quản,
giữ gìn tài sản (thực hiện sửa chữa, cải thiện nhà ở).

11
5.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất và cho biết suy nghĩ của anh chị về khẳng định của Tòa án.
“Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 168 và điểm i khoản 1 Điều 192 Bộ luật
tố tụng dân sự đình chỉ vụ án do cụ Hảo không có quyền khởi kiện vì: Gia đình chị Nhữ
Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình
chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo
vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ
Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân
ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở sau này bố chị Vân và
chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn có đơn đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ
1975 nhưng không có tìa liệu chứng minh; đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra
Tòa yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sỡ hữu
nhà đất nêu trên.”

Theo em, quyết định của Tòa án là chưa thuyết phục khi kết luận cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu. Xét thấy:

- Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng khoán điền thổ số 25, tập 2, tờ số
55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946. Đây là chứng thực pháp lý, xác nhận quyền
sở hữu nhà của cụ Hảo đối với căn nhà.

- Theo lời khai của chị Vân thì gia đình chị đã sống ở đây từ đời ông nội chị (không biết cụ
thể là năm 1954 hay 1968), nhưng gia đình chị Vân vẫn duy trì thỏa thuận thuê nhà đến khi
ông nội chị là ông Hải mất (1995). Vậy nên, nếu xem xét thời hiệu chiếm hữu ngay tình thì
của gia đình chị Vân đối với nhà số 2 Hàng Bút, theo khoản 1 Điều 247 BLDS 2005, Điều
236 BLDS 2015, thì tới thời điểm khởi kiện vẫn chưa đủ 30 năm.

- Cũng cần xem xét hợp đồng mua bán nhà giữa chị Vân và chị Dương Thị Ngọc Lan và
anh Nguyễn Hồng Sơn: “Việc mua bán nhà có làm giấy viết tay có chữ ký của 3 anh em
chị Vân, anh Lâm, anh Lân; giấy mua bán nhà không có xác nhận của cơ quan có thẩm
quyền.”. Căn cứ khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 về việc công chứng, chứng thực hợp

12
đồng, văn bản thực hiện các quyền sử dụng đất, thì như vậy, hợp đồng mua bán nhà trên
không có giá trị về mặt pháp lý. Người có thể xác lập hợp đồng này là bà Châu (có di chúc
giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút toàn quyền sở hữu do cụ Hảo lập), tức người sở
hữu hợp pháp của căn nhà.

6.Theo anh chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất trên. Ghi nhận từ lời
khai, chị Vân biết căn nhà số 2 Hàng Bút là được thuê từ cụ Hảo vào năm 1954 và hàng
năm gia đình chị đều đóng tiền thuê nhà cho ông Chính (đã kết thúc việc đóng tiền thuê nhà
từ năm 1995). Căn cứ khoản 2 Điều 179 BLDS 2015: “.. .Việc chiếm hữu của người không
phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu."; Điều 181 BLDS 2015 quy
định: “Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải
biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.". Như vậy gia đình chị Vân
không được xem là chiếm hữu ngay tình đối với căn nhà số 2 Hàng Bút, từ đó không thể
dựa vào Điều 236 BLDS 2015 về thời hiệu hưởng quyền.

Vấn đề 3: Chuyển đổi rủi ro đối với tài sản

1.Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Căn cứ Điều 162 BLDS 2015:

1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền
của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.

Căn cứ điều 441 BLDS 2015:

1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua
chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác.

13
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền
sở hữu thì bên bán chịu rủi ro đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro
kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2.Tại thời điểm cháy chợ, ai là sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ khoản 2 Điều 221 BLDS 2015: “Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong
trường hợp sau đây 2. Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết
định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác”.

Như vậy, tại thời điểm cháy chợ, bà Thủy đã chuyển quyền sở hữu cho bà Dung khi hai bên
xác lập thỏa thuận mua bán ghe xoài. Do đó, chủ sở hữu số xoài là bà Dung (bên mua).

3.Bà Dung có phải thanh toán tiền ghe xoài không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Để truy cứu và kết luận rằng bà Dung có phải thanh toán tiền ghe xoài không, ta cần xác
định hoàn cảnh cụ thể. Theo tình huống, sau khi bà Dung và bà Thủy có thỏa thuận mua
bán thì xảy ra cháy chợ. Căn cứ Điều 156 BLDS 2015 quy định về thời gian, không gian
không tính vời thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết yêu cầu dân
sự: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép. Xét thấy tình huống cháy chợ là một dạng sự kiện bất khả kháng. Tiếp tục căn cứ
điểm b Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách
nhiệm khi xảy ra sự kiện bất khả kháng.

Do đó, với tình huống cháy chợ, bà Dung có thể vi phạm hợp đồng (không trả tiền mua ghe
xoài như đã thỏa thuận) và được miễn trách nhiệm đối với giao dịch trên.

Tài liệu tham khảo

- Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015;


- Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
14
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa, Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long;
- Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre;
- Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018.

15

You might also like