You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ TÀI SẢN VÀ


THỪA KẾ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA: TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

GIẢNG VIÊN: LÊ DẶNG PHƯƠNG UYÊN

LỚP: HC45B1

HỌ VÀ TÊN: LÊ HOÀNG NHI

MSSV: 2053801014184

TP.HỒ CHÍ MINH THÁNG 4 NĂM 2021


PHẦN I: KHÁI NIỆM TÀI SẢN

*Tóm tắt bản án số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/07/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa:

Nguyên đơn: Ông Phan Hai.


Bị đơn: Ông Phan Quốc Thái.

Nội dung: Ông Phan Hai khởi kiện “Đòi lại tài sản” yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả
lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành 0926009, số vào sổ
01868QSDĐ/DS-DK cấp ngày 23/7/1999 của UBND huyện Diên Khánh mang tên
Lương Thị Xàm. Nhưng tòa án lại cho rằng ông Hai không cung cấp được Giấy ủy
quyền của ông Phan Trọng Nguyên và không cung cấp giấy tờ chứng minh về quyền
sở hữu tài sản đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không thỏa đáng.Nên
không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án, nên không chấp nhận kháng nghị
01/QĐKN/VKS-DS ngày 12/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh,
tỉnh Khánh Hòa, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hai.Đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự, trả lại đơn kiện và các tài liệu kèm theo vê việc ‘Đòi lại tài
sản” của ông Phan Hai. Ông Hai đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

*Tóm tắt bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ- tỉnh Vĩnh Long:

Nguyên đơn: Ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thủy T

Nội dung: Năm 2012 ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H sửa nhà, sau hơn 10 ngày dọn vào
nhà thì phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất nên xin cấp lại giấy.
Nhưng khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không được nhận do bà Nguyễn
Thị Thủy T tranh chấp. Bà T chỉ đồng ý trao giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng
đât khi ông B và bà H trả số tiền 12000000 đồng, bà T không chứng minh việc này là
có thật. Căn cứ vào lẽ công bằng, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông B và bà
H buộc bà T có nghĩa vụ trao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 090902 số
vào sổ H55802 do Ủy ban nhân dânn huyện Long hồ cấp ngày 29/02/2008 cho hộ ông
Võ Văn B.

Câu 1.1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.

Trả lời:
- Theo khoản 1 Điều 105 BLDS năm 2015 quy định: "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản".

- Giấy tờ có giá là một loại tài sản trong giao dịch dân sự. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010; khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và
Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng
chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở
hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện
khác".

Ngoài ra, các quy định khác của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao gồm:

- Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy
định tại Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

- Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c,
khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;

- Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ
trả nợ được quy định tại điểm 16, Điều 3 Luật Quản lý nợ công 2009;

- Các loại chứng khoán (Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng
khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại chứng khoán khác
do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại điểm 3 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Chứng khoán năm 2010;

- Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số
90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

-Một số ví dụ về giấy tờ có giá:

+Séc: là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân
hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người
thụ hưởng;

+Tín phiếu: là giấy tờ có giá ngắn hạn, trong đó xác nhận món nợ phải thanh toán giữa
chủ thể phát hành tín phiếu với người sở hữu tín phiếu vào ngày đáo hạn

+Chứng chỉ quỹ: là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư

đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng...
Câu 1.2: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?

Trả lời:

- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không là giấy tờ có giá.

- Trong quyết định phúc thẩm số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 , vụ việc “ Đòi
lại tài sản là giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất” có đoạn: “Theo Điều 105 Bộ luật
dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản
có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”; Điều 115 Bộ luật dân
sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước
xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn quyền sở hữu tài
sản khác gắn liền với đất.” Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là
tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”

- Trong Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/08/2018 vụ việc “ Đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất” có đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư
pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khácgắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng cho đất, cho thấy nội dung này hàm
chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự”.

=>Như vậy, cả hai văn bản trên đều ghi nhận “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” chỉ là văn bằng chứng quyền, chứa đựng thông tin về
Quyền sở hữu... Tuy nhiên Quyết định số 06 thì ghi rất rõ “ không thể xem là loại giấy
tờ có giá” còn Bản án số 39 tuy ghi nhận chỉ “là chứng thư pháp lý để nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất” nhưng lại không trả lời cho câu hỏi “đây có phải là
loại giấy tờ có giá hay không”.

Câu 1.3: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không? Vì sao?
Trả lời:

- Trong thực tiễn xét xử “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không là tài sản. Theo tòa án, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy
tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản khác không phải là tài sản:

- Trong Quyết định số 06 cho rằng “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là
tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”. Do đó, việc ông Hai khởi kiện yêu cầu
ông Thái đòi trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, chiếu theo Điều 105, 115 BLDS 2015 và khoản 6 Điều 3 Luật đất
đai. Bởi vì, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những căn cứ cho phép
xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc giải quyết các
tranh chấp về quyền sử dụng đất, chứ hoàn toàn không phải là tài sản.
- Trong Bản án số 39 thì lại không chỉ ra rằng đây có phải là tài sản hay không mà
tòa lập luận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “hàm chứa một số quyền về tài
sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.”
Câu 1.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài);
Trả lời:
- Trong Quyết định số 06, tòa án dựa trên cơ sở phân tích các quy định của một sốvăn
bản pháp luật, thấy giấy chứng nhận quyền sở hữu đất không nằm trong danh mục
được liệt kê là loại giấy tờ có giá thì đáng ra kết luận phải là “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá”. Nhưng tòa án lại vội vàng đưa ra kết luận
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản và không phải là giấy tờ có
giá”. Kết luận này là thiếu logic và đã dẫn đến một điều đó là đồng nhất hai khái niệm
“tài sản” và “giấy tờ có giá”. Cụ thể trong Quyết định số 06/2017/QĐ-PT về vụ án “đòi
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” tòa án lập luận : “Theo khoản 1điều 105 BLDS
năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản”...giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là
loại giấy tờ có giá”. Từ việc đưa ra các lập luận để cho rằng đây không phải là loại
giấy tờ có giá, cũng như không phải là “quyền tài sản khác” theo điều 115 BLDS năm
2015 mà tòa trích dẫn thì tòa đã khẳng định ngay đây không phải là tài sản. Trong khi
đó, tại điều 105 mà tòa đã trích dẫn, tuy không thể hiện bằng ngôn ngữ nhưng tòa án
đang tiếp cận ở góc độ phủ nhận các dạng tồn tại khác của giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (chẳng hạn như là vật). Và cũng ở quyết định trên, không có một đoạn nào lập
luận rằng đây không phải là vật. Trong bài viết “Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, tác giả Đỗ Thành
Công đã coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là tài
sản. Theo đó, tác giả viết :” Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ
có giá, tuy nhiên hoàn toàn có thể xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật.
Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào giao dịch trao đổi
mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó…”

- Đây là một việc hết sức tai hại, bởi lẽ nếu không đòi lại được giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất từ người khác, người chiếm hữu có thể tạo ra những điều kiện bất
lợi cho chủ sử dụng đất, gây ra những hậu quả tranh chấp không đáng có sau này, thậm
chí là chuyển nhượng nhà đất của người khác.

Câu 1.5: Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

Trả lời:
- Theo Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản. Vì đây không phải là tiền, không nằm trong danh mục các loại giấy tờ cógiá,
không phải là quyền tài sản thì ta vẫn có thể xem nó là vật. Điều này là hợp lý bởi lẽ
giấy chứng nhận quyền sở hữu đất tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm
chí có hình dạng cụ thể (là tờ giấy). Nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có
thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất).

- Tuy nhiên, trong thực tế như Bản án số 39, nếu bị mất các loại giấy tờ liên quan về
quyền sở hữu thì phải làm đơn trình báo lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm
các thủ tục cấp lại. Nếu xem đây là tài sản và với các thủ tục như trên đã có thể cấp lại
tài sản bị mất thì hoàn toàn vô lý.

=>Như vậy, nếu áp dụng Bộ luật dân sự 2015 thì khó có thể khẳng định ngay giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản hay không mà
còn phải căn cứ vào góc độ thực tiễn đời sống với từng trường hợp cụ thể để đưa ra
những phán quyết đúng đắn trong xét xử, phù hợp với bản chất từng sự việc.

Câu 1.6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

Trả lời:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng, là thểhiện
sự công nhận của nhà nước đối với người sử dụng đất hợp pháp. Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cũng là một trong những căn cứ cho phép xác định thẩm quyền của
các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng
đất.

- Trong Bản án số 39, tuy rằng Tòa án đã không xác định rõ rằng giấy chứng nhận
sở hữu nhà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là giấy tờ có giá hay là tài sản
không. Tòa án nhận định :”Bộ luật tố tụng dân sự không quy định rõ thẩm quyền giải
quyết tranh chấp “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng”. Tuy nhiên về nguyên tắc
Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lí do chưa có điều luật áp dụng.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền
với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Căn cứ Khoản 2 Điều 4;
Khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định yêu cầu đòi trả
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B và bà H thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án”.
=>Qua hướng giải quyết trên, Tòa án đã bảo vệ được một phần quyền lợi của chủ
sở hữu đất, sở hữu nhà ở. Vì vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà là văn bản chứa đựng quyền sử dụng đất chứ không phải là tài sản.
Câu 1.7: Bitcoin là gì?
Trả lời:
- Bitcoin hay BTC là đồng tiền điện tử đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi
Satoshi Nakamoto vào năm 2009. Cách thức hoạt động của bitcoin khác hoàn toàn so
với các loại tiền tệ bình thường, sử dụng giao thức ngang hàng (peer-to-peer) cho tất cả
các giao dịch và chính điều đó đã làm cho Bitcoin loại bỏ bước trung gian trong quá
trình thực hiện giao dịch.

- Điều này có nghĩa là giao dịch sẽ được thực hiện trực tiếp từ người gửi đến người
nhận với phí giao dịch cực kỳ thấp (gần như bằng 0) mà không phải qua bất cứ tổ chức
hay cá nhân trung gian nào. Không có bất cứ cá nhân, tổ chức nào quản lý các giao
dịch BTC.

Câu 1.8: Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Trả lời:

-Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam:

+Theo Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản.”

+Theo Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm: tất cả
các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với
đất đai”.
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương
tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014
của Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành,
cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại
tiền ảo tương tự.
-Bên cạnh đó, theo Điều 4, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
(được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016) đã có quy
định rất rõ các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó không có loại
phương tiện tương tự như Bitcoin, cụ thể: "Phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao
gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương
tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Đồng thời, các quy
định của Nghị định 101/2012/NĐ-CP cũng cấm sử dụng các phương tiện thanh toán
không hợp pháp tại Việt Nam. Như thế, ở khía cạnh này nếu xem Bitcoin là một
phương tiện thanh toán thì nó chưa được pháp luật Việt Nam cho phép thực hiện để
thực hiện các hoạt động thanh toán. Từ đó có thể thấy rằng, ở Việt Nam cho tới thời
điểm hiện nay Bitcoin chưa được xem là một loại tài sản, và không được nhà nước
công nhận.
Câu 1.9: Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết?

Trả lời:

-Hiện tại, có 99 quốc gia trong tổng số 246 quốc gia (chiếm khoảng 40%) là ủng hộ
và không hạn chế đáng kể về pháp luật với Bitcoin và coi nó như một loại tài sản. Tại
nơi ra đời của Bitcoin - Nhật Bản - bắt đầu từ ngày 1/4/2017, Bitcoin được coi là tài
sản và là một phương thức thanh toán hợp pháp, được quản lý bởi Cơ quan Dịch vụ Tài
Chính Nhật Bản (JFSA). Một số tổ chức lớn tại đây đã công nhận Bitcoin như một loại
tiền tệ. Các luật trong việc giao dịch tại ngân hàng vẫn chưa thay đổi, nhưng
chúngcũng đang được xem xét để làm cho Bitcoin thậm chí còn có thể sử dụng được
trong đời sống hằng ngày.

Câu 1.10: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.

Trả lời:

- Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở
Việt Nam khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là hợp lý. Do sự
phát triển quá nhanh và khó kiểm soát của tiền ảo, pháp luật chưa có quy định cụ thể
nào về việc sử dụng đồng tiền Bitcoin, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không
chấp nhận loại tiền ảo như một đồng tiền sử dụng.

- Với cơ chế hoạt động không có sự kiểm soát, Bitcoin nằm ngoài thẩm quyền quản
lý của Ngân hàng Nhà nướckhi bạn mở một tài khoản Bitcoin, bạn không cần phải khai
báo bạn là ai, đến từ đâu, làm gì và thu nhập bao nhiêu hàng tháng. Chỉ cần một vài cú
click chuột để tạo một địa chỉ ví trên hệ thống (wallet address), địa chỉ đó thường là
một dãy ký tự xếp ngẫu nhiên tương tự  như số tài khoản ngân hàng của bạn, và bạn có
thể gửi nó cho bất kỳ ai để bảo họ chuyển tiền vào đó cho bạn.

     - Vì thế những giao dịch ngầm chúng ta khó kiểm soát được cho những hoạt động
của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, thanh toán, tài trợ chủ
quyền quốc gia về phát hành tiền tệ sẽ bị xâm phạm, ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ, pháp luận nước ta đã thực hiện những chính sách quản lý riêng. Tuy
nhiên, mức độ phủ song của Bitcoin hiện tại vẫn còn những vấn đề Nhà nước chưa
kiểm soát được. Hy vọng trong thời gian sớm nhất chúng ta sẽ có một cái nhìn cụ thể
về loại hình này.
*Tóm tắt Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10/4/2018 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao:
Cụ Nguyễn Thanh T chung sống với cụ Nguyễn Thị C có 3 người con chung gồm:
Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn T1 và Nguyễn Văn T2. Năm 1975, cụ T trở về miền Nam
chung sống với cụ Lê Thị T4 không có con chung. Cụ T4 có hai con riêng là bà
Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1. Khoảng đầu năm 1976, cụ T được Quân
đội cấp căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X nay là nhà số 63 đường B, phường
H, quận 1, TP. Hồ Chí Minh.

You might also like