You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI: GIAO DỊCH DÂN SỰ
GIẢNG VIÊN: LÊ ĐẶNG PHƯƠNG UYÊN
LỚP: HC45B1
NHÓM: 7
THÀNH VIÊN:
STT HỌ TÊN MSSV
1 LÊ HOÀNG NHI 2053801014184
2 ĐẶNG TRẦN KHÁNH NHƯ 2053801014193
3 NGUYỄN VIỆT TÂN 2053801014234
4 LÊ DUY TẠO 2053801014235
5 HỒ TRẦN ANH THƯ 2053801014255
6 NGUYỄN THỊ ANH THƯ 2053801014259

TP. HỒ CHÍ MINH THÁNG 3 NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I: NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CHỦ
THỂ..........................1
Câu 1.1: So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên...........................1
Câu 1.2: Đoạn nào của bản án cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu
nhà tại Việt Nam?.....................................................................................................2
Câu 1.3: Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch trên của ông T và bà H
với bà Đ đã bị tòa án tuyên bố vô hiệu?....................................................................3
Câu 1.4: Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ năng lực với pháp lực của
chủ thể) về căn cứ để tòa án để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô
hiệu........................3
PHẦN II: GIAO DỊCH XÁC LẬP BỞI NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG
NHẬN THỨC............................................................................................................4
Câu 2.1: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và
từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?........4
Câu 2.2: Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau
khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?................................................5
Câu 2.3: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?...............................................................5
Câu 2.4: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà
anh/chị biết.................................................................................................................5
Câu 2.5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp
lý khi đưa ra hướng xử lý..........................................................................................6
Câu 2.6: Nếu giao dịch có tranh chấp  là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao
dịch đó có bị vô hiệu không? Vì
sao?................................................................................7
PHẦN III: GIAO DỊCH XÁC LẬP DO CÓ LỪA DỐI......................................7
Câu 3.1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo
BLDS 2005 và BLDS 2015......................................................................................7
Câu 3.2 : Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thoả thuận hoán nhượng
Đã bị tuyên hiệu do lừa
dối........................................................................................8
Câu 3.3: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
tiền lệ anh chị biết......................................................................................................8
Câu 3.4: Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không?Vì
sao?.............................................................................................................................9
Câu 3 5: Trong Quyết định số 210 , theo Toà án , ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng tranh chấp vô hiệu ?...............................9
Câu 3.6 : Trong Quyết định số 210 , theo toà án , thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không ? Vì sao ?........................................9
Câu 3.7: Trong trường hợp hết thời hiệu theo yêu cầu của Toà án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối , Toà án có công nhận hợp đồng không ? Vì sao ?........10
Câu 3.8: Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương tự của BLDS năm 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số
210?..........................................................................................................................11
PHẦN IV: HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU.........................11
Câu 4.1: Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................12
Câu 4.2: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty
Phú Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối
lượng Công việc mà công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?....................12
Câu 4.3: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?...................................................13
Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán
liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định
hợp đồng vô hiệu...................................................................................................13
Câu 4.5: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không
vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu
như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?......................13
Câu 4.6: Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
xác định hợp đồng vô hiệu?...........................................................................14
Câu 4.7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu trong Quyết định trên.................................................14
Câu 4.8: Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông
Sanh sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.................................................................................................................15
Câu 4.9: Trong bản án số 133, Toà án quyết định huỷ giấy chứng nhận cấp cho
anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm
quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của giao
dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?.............................................................15
DANH MỤC THAM KHẢO...........................................................................17
PHẦN I: NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CHỦ THỂ
* Tóm tắt Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long về vụ án “Tranh chấp HĐCN Quyền sử dụng đất”:
Nguyên đơn: ông J Ph T và bà A Th Ph (L Th H)
Khởi kiện yêu cầu bà L K Đ hoàn trả cho vợ chồng nguyên đơn số tài sản mà bà L
K Đ đã nhận. Năm 2004 vợ chồng nguyên đơn có gửi tiền về mua đất và bà L K Đ
đã 05 lần nhận tiền của vợ chồng nguyên đơn và đồng ý bán cho vợ chồng nguyên
đơn 1 căn nhà cấp 4 và quyền sử dụng đất có diện tích 1.251,8 m2,và bà được nhờ
đứng tên dùm. Bao giờ nguyên đơn về Việt Nam thì bà sẽ trả lại. Khi nguyên đơn
yêu cầu bị đơn trao trả lại căn nhà và mảnh đất thì bà L K Đ từ chối trao trả và đề
nghị sẽ hoàn lại tổng số tiền mà nguyên đơn đã đưa cho bà là 13.950 USD tương
đương với số tiền là 329.220.000 đồng và phía bị đơn tình nguyện hoàn trả
350.000.000 đồng chứ không phải 550.000.000 đồng như nguyên đơn yêu cầu và
xin đề nghị miễn án phí cho bị đơn vì đã cao tuổi, khó khăn về kinh tế .Tòa án xác
định bà L K Đ có nhận tiền của nguyên đơn để mua nhà và đất. Tòa án chấp nhận
một phần yêu cầu của nguyên đơn là ông J Ph T và bà A Th Ph (L Th H).

Câu 1.1: So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
Trả lời:
Về điều kiện liên quan đến chủ thể (điều kiện chủ quan):
- BLDS năm 2005:chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân sự,nghĩa là chủ
thể tham gia chỉ có thể là cá nhân(Điểm a,khoản 1,điều 122 BLDS 2005).
- BLDS năm 2015:chủ thể tham gia có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành
vi dân sự phù hợp với giao dịch,nghĩa là chủ thể tham gia có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân(Điểm a,khoản 1,điều 117 BLDS 2015).
 Điều đó, cho thấy sự thay đổi đã mở rộng hơn về chủ thể tham gia các giao dịch
dân sự không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân,đã phù hợp với thưc tiễn cuộc
sống,vì trong thực tiễn đối với một số loại giao dịch dân sự có pháp nhân là chủ thể
tham gia những BLDS 2005 không điều chỉnh được và BLDS 2015 dẫ khắc phục
được điều này.
Về điều kiện liên quan đến giao dịch (điều kiện khách quan):
- Điều kiện về nội dung: giao dịch phải có nội dung, mục đích không vi phạm điều
cấm,không trái với đạo đức xã hội.
+ Quy định về đạo đức xã hội không có sự khác biệt về BLDS 2005 và BLDS 2015.
+ Quy định về điều cấm có sự khác biệt giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.

1
 Điều 128, BLDS năm 2005 quy định điều cấm là điều cấm của pháp luật,là
những quy định của pháp luật,tức là những quy định đó có thể tồn tại trong
văn bản luật hoặc văn bản dưới luật.
 Điều 123, BLDS năm 2015 quy định điều cấm là điều cấm của luật,là những
quy định của luật,tức là những quy định đó chỉ tồn tại trong luật,do Quốc hội
ban hành.
- Điều kiện về hình thức bắt buộc giao dịch dân sự có khác nhau:
+ Điều 124, BLDS năm 2005 bắt buộc trong trường hợp pháp luật có quy định
theo quy định của khoản 2, điều 124, BLDS năm 2005: “2.Trong trường hợp pháp
luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản,phải có công
chứng hoặc chứng thực,phải đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định
đó.”
+ Điều 119, BLDS năm 2015, bắt buộc trong trường hợp luật có quy định, theo quy
định của khoản 2, điều 119 BLDS năm 2015:“2.Trường hợp luạt quy định giao
dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký
thì phải tuân theo quy định đó.”
 Như vậy, BLDS năm 2015 đã bỏ đi hình thức xin phép. Sự giới hạn về chủ thể
quy định điều kiện về hình thức đã thay đổi từ pháp luật sang luật đã thu hẹp lại vi
phạm quy định, tránh sự tùy tiện về quy định của các văn bản dưới luật.

Câu 1.2: Đoạn nào của bản án cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu
nhà tại Việt Nam?
Trả lời: Theo Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long: Tại phần Nhận định của Tòa án, mục 2 cho biết “ ... ông Ph J T và bà L
Th H là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy định Luật
đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định cư
ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau: “
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người có
công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về
hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước,
người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời
hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn
hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất
trồng cây lâu năm tại Việt Nam...”

2
Câu 1.3: Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch trên của ông T và bà H
với bà Đ đã bị tòa án tuyên bố vô hiệu?
Trả lời: Tại phần Quyết định, Tòa án tuyên xử: “ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi
của nguyên đơn. Vô hiệu giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ
cư ngày 02/6/2004 và giấy cam kết ngày 16/3/2011 mà các bên đã xác lập do vi
phạm đều cấm của pháp luật...”

Câu 1.4: Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ năng lực với pháp lực của
chủ thể) về căn cứ để tòa án để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu.
Trả lời: Theo quy định tại điều 116 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự
là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Từ quy định tại điều luật này có thể xác định: kết quả
của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một
sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều
bên) làm phát sinh hậu quả pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định,
cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch,
với những mục đích và động cơ nhất định. Do vậy, giao dịch dân sự vô hiệu khi
không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015.Mà theo
Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Tại phần Nhận định của Tòa án, mục 2 cho biết “ ... ông Ph J T và bà L Th H là
người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy định Luật đất đai
năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau:
“ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người có
công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về
hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước,
người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời
hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn
hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất
trồng cây lâu năm tại Việt Nam...”. Do đó, họ không có năng lực pháp luật dân sự

3
trong giao dịch dân sự này. Nên Tòa tuyên bố giao dịch dân sự trên vô hiệu là hoàn
toàn hợp lí, thuyết phục và đúng với pháp luật.

PHẦN II: GIAO DỊCH XÁC LẬP BỞI NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG
NHẬN THỨC
* Tóm tắt quyết định: số 329/2013/DS-GĐT về vụ án: “Tranh chấp hợp đồng
mua bán nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất”
Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Kim Ánh
Bị đơn: Bà Phạm Thị Hương
Ông Đặng Hữu Hội và bà Phạm Thị Hương là vợ chồng có 5 người con gồm bà
Ánh, ông Bình, ông Minh, bà Thủy, ông Toàn. Tài sản của 2 ông bà tạo lập được là
1 ngôi nhà gắn liền với quyền sử dụng 167,3 m2 đất. Năm 2007, ông Hội bị tai biến
nằm một chỗ không nhận thức được.
Ngày 08/02/2010, bà Hương đã tự ý bán căn nhà và diện tích nêu trên cho ông
Hùng với giá 580 triệu đồng trong khi ông Hội bị bệnh nặng nhưng bà Hương
không bàn bạc hỏi ý kiến các con. Ngày 9/2/2010 cán bộ địa chính đến nhà làm việc
và bảo ông Hội điểm chỉ hợp đồng mua bán nhà. Ngày 07/05/2010, Tòa án nhân
dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội bị mất năng lực hành vi dân sự và ngày
29/10/2010 ông Hội chết. Nguyên đơn yêu cầu hủy giao dịch dân sự giữa ông Hội,
bà Hương và ông Hùng vì cho rằng ông Hội không nhận thức được, từ đó xảy ra
tranh chấp.
Quyết định của các cấp xét xử:
Tòa án sơ thẩm: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hội, bà
Hương với vợ chồng ông Hùng vì vô hiệu hình thức, buộc bà Hương trả lại cho vợ
chồng ông Hùng số tiền 311 triệu đồng, vợ chồng ông Hùng trả lại cho bà Hương
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tòa án phúc thẩm: Công nhận hợp đồng mua bán nhà và đất giữa ông Hội, bà
Hương và vợ chồng ông Hùng. Quyết định giám đốc thẩm: Hủy bản án dân sự sơ
thẩm và bản án dân sự phúc thẩm
Cơ sở pháp lý: Điều 22, 117, 122, 125 BLDS 2015

Câu 2.1: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và
từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
Trả lời: Năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được, từ
cuối năm 2008 hàng tháng gia đình phải lo tiền thuốc men cho ông. Nhưng đến
ngày 7/5/2010 ông Hội mới bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự.

4
Câu 2.2: Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau
khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
Trả lời: Ngày 8/2/2010 ông Hội và bà Hương lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông
Hùng và vợ là bà Trinh quyền sử dụng đất cấp cho ông Hội, Tòa tuyên ông Hội mất
năng lực hành vi dân sự từ ngày 7/5/2010. Vì vậy giao dịch của ông Hội với vợ là
bà Hương được xác lập trước khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự.

Câu 2.3: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
Trả lời: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội bị vô hiệu mặc
dù giao dịch đó (cùng với vợ là bà Hương) được xác lập trước khi ông bị Tòa tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự. Bởi lẽ, xét theo Điều 128 BLDS 2015: “Người có
năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu”. Như vậy, giao dịch giữa ông Hội, bà Hương với vợ
chồng ông Hùng bị vô hiệu một phần (phần giao dịch của ông Hội).

Câu 2.4: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà
anh/chị biết.
Trả lời:
Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc giống với hoàn cảnh của ông Hội
- Cụ thể như sau: Ngày 29/9/2003 ông Tình đến phòng công chứng ký hợp
đồng tặng cho một căn nhà cho bà Nga. Tại bản án dân sự sơ thẩm số
40/DSST ngày 17/1/2013 tòa án nhân dân quận 3 thành phố Hồ Chí Minh
tuyên bố ông tình mất năng lực hành vi dân sự. Về thời điểm thực tế bắt đầu
mất năng lực hành vi dân sự tòa án nhận định “ông Tình đã có một quá trình
dài bị bệnh tâm thần phải điều trị liên tục từ năm 2000”. Điều đó có nghĩa là
ông tình xác lập hợp đồng sau khi thực tế mất năng lực hành vi dân sự.
- Hướng giải quyết của tòa án: Trong vụ việc đó, bên mua yêu cầu cần phải lấy
thời điểm cá nhân chính thức bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: chỉ
giao dịch xác lập sau ngày này mới vô hiệu. Tuy nhiên, theo Tòa án “do ông
Tình mất năng lực hành vi dân sự nên mọi giao dịch dân sự do mình thực
hiện đều vô hiệu như quy định tại điều 140 BLDS 1995” (hiện giờ là điều
125 BLDS 2015). Như vậy, hợp đồng tặng quà giữa ông Tình và bà Nga lập
ngày 19/9/2003 tại Phòng công chứng nhà nước số 1 thành phố Hồ Chí Minh
là vô hiệu. 
5
Câu 2.5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp
lý khi đưa ra hướng xử lý.
Trả lời:
- Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao khá thuyết phục.
- Công nhận quyền khởi kiện của chị Ánh trong giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Hội, Bà Hương và hai vợ chồng ông Hùng, bà
Trinh. Ông Hội đã bị tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự từ ngày
7/5/2010 và chị Ánh là người được cử là người đại diện theo pháp luật của
ông Hội và là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Hội theo quy định tại
Điều 125 BLDS năm 2015.
- Cần xác minh làm rõ phần diện tích 43,7 m² đất (chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và không có trong hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 8/2/2010) đã đăng ký kê khai và có đủ điều kiện được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo biên bản định dạng ngày
30/6/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, thì ngoài diện tích
120m² đất của ông Hội, bà Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và còn có 43,7m² đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và trên đất có nhà diện tích 56,7m² móng đá, tường gạch, mái tôn
cao 3 m và vật kiến trúc khác nhưng không có trong hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 8/2/2010 giữa vợ chồng ông Hội, bà Hương
và vợ chồng ông Hùng, bà Trinh.
- Xin hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 35/2012/DSPT ngày 1/7/2012
của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án dân sự sơ thẩm số
98/2011/DSST ngày 22/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuy Hoà, tỉnh Phú
Yên về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất” giữa nguyên đơn là chị Ánh và bị đơn là bà Hương và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
Nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm lại theo quy định
của pháp luật.
- Tòa án đã chỉ ra được thiếu sót của các bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Câu 2.6: Nếu giao dịch có tranh chấp  là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao
dịch đó có bị vô hiệu không? Vì sao?
Trả lời:
- Cơ sở pháp lý: Khoản 2 điều 141 bộ luật Dân sự năm 2015
6
- Những giao dịch tặng cho động sản, bất động sản đều mang lại lợi ích cho
ông Hội nên người đại diện được toàn quyền quyết định thay trong ông Hội.
Nếu người đại diện (chị Ánh) đồng ý xác lập giao dịch thì giao dịch đó vẫn
có hiệu lực.

PHẦN III: GIAO DỊCH XÁC LẬP DO CÓ LỪA DỐI


*Tóm tắt bản án số 210/2013/DS-GĐT ngày 21/05/2013 của Tòa án nhân dân
tối cao về “V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”:
Nguyên đơn: Châu Thị Nhất
Bị đơn là Nguyễn Văn Dưỡng.
Nội dung: Bà Nhất khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Dưỡng với ông Tài mà mảnh đất do bà Nhất đứng tên
với ông Dưỡng bị vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng bị vô hiệu do bị
lừa dối là không đúng. Tòa án quyết định chấp nhận Kháng nghị số 27/QĐ-KNGĐT
–V5 ngày 27/03/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Bản án
dân sự phúc thẩm số 199/2012/DSPT ngày 19/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang. Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 199/2012/DSPT ngày
19/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
14/2012/DS-ST ngày 18/4/2012 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất. Giao hồ sơ
vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất xét xử sơ thẩm lại vụ án.
Câu 3.1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo
BLDS 2005 và BLDS 2015.
Trả lời:
Điều 132 BLDS năm 2005:
“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình.”
Điều 127 BLDS năm 2015:
“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép
thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

7
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người
thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của
người thân thích của mình.”
 So với Điều 132 BLDS 2005 thì Điều 127 BLDS 2015 có thêm hành vi “cưỡng
ép” là điều kiện để chủ thể có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô
hiệu.

Câu 3.2 : Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thoả thuận hoán nhượng
Đã bị tuyên hiệu do lừa dối
Trả lời: Trích bản án số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/8/2010 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao:“Anh Vinh và những người liên quan(ông Trần Bá Toàn, bà Trần
Thị Phú) không thông báo cho ông Đô bà Thu biết tình trạng nhà, đất mà hai bên
thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù( căn nhà đã có quyết
định tháo dỡ do xây nhà trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường giá trị
căn nhà; còn thửa đất đã bị thu hồi thì không đủ điều kiện để được mua nhà tái định
cư theo Quyết định 135/QB-UB ngày 21-11-2002 là có sự gian dối . Mặt khác, tại
bản thỏa thuận hoán nhượng không có chữ kí của ông Đô chồng bà Thu và là người
cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố. Do vậy,
giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp
dụng điều 132 BLDS 2015 để giải quyết.

Câu 3.3: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
tiền lệ anh chị biết
Trả lời: Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ. Vì theo nguyên tắc áp dụng án lệ thì
số bản án,quyết định của tòa án có chứa đựng án lệ, tính chất,tình tiết vụ việc tương
tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề
pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định
của Tòa án.Trong văn bản trên tất cả chỉ căn cứ vào luật để giải quyết chứ không có
bất kỳ một viện diễn nào.
Câu 3.4: Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không?Vì
sao?
Trả lời: Xét thấy anh Vinh đã giấu ông Đô bà Thu quyết định cưỡng chế nhà và
không cho vợ chồng bà biết nhà và đất đã bị giải tỏa khi kí “ Thỏa thuận hoán
8
nhượng” ngày 20/5/2004 nên ông bà đã kí. Theo điều 127 BLDS 2015 lừa dối trong
giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu
sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên
đã xác lập giao dịch đó.Thêm vào đó ở điểm b, khoản 1 điều 132 BLDS 2015 quy
định người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị
nhầm lẫn, bị lừa dối.Do đó quyết định hủy bỏ bản án dân sự so thẩm sô
15/2005/DS-ST ngày 10-14/01/2008 và bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-
PT ngày 29/7/2008 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, tp Hồ Chí Minh phù hợp với
BLDS 2015.

Câu 3 5: Trong Quyết định số 210 , theo Toà án , ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng tranh chấp vô hiệu ?
Trả lời: Trong Quyết định số 210 theo Toà án ông Tài là người được yêu cầu còn bà
Nhất là người không được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng tranh chấp vô hiệu .
Bởi lẽ theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 bà Nhất không phải là một bên tham
gia giao dịch với ông Tài , nên bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối . Trường hợp này
chỉ có ông Tài mới có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng bị vô
hiệu do lừa dối, nếu ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà
Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Cơ sở pháp lý : Căn cứ theo Điều 132 BLDS năm 2005 
"Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Lừa dối trong giao dịch là
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch
về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác
lập giao dịch đó."

Câu 3.6 : Trong Quyết định số 210 , theo toà án , thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không ? Vì sao ?
Trả lời: Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu hợp đồng do lừa dối
đã không còn vì : Bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng bà ly hôn bà mới biết ông
Dương giả mạo chữ ký của bà để bán đất cho ông Tài nhưng đến 10/12/2010 bà
Nhất mới khởi kiện. Như vậy có thế xác định thời hiệu yêu cầu vô hiệu hợp đồng
của bà đã hết theo Điều 136: Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu :

9
1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại
các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao
dịch dân sự được xác lập.
2. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Bộ
luật này thì thời hiệuyêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị
hạn chế.

Câu 3.7: Trong trường hợp hết thời hiệu theo yêu cầu của Toà án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối , Toà án có công nhận hợp đồng không ? Vì sao ?
Trả lời: Toà án không công nhận bởi vì thời hiệu của yêu cầu Toà án đã hết cộng
với việc bà Nhất không phải là một bên tham gia vào giao dịch với ông tài nó không
đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện theo Điều 168 BLDS năm 2015: Trả lại đơn khởi
kiện
1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ
trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi
mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho
mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu
do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
d) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà
người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do
chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện.

Câu 3.8: Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương tự của BLDS năm 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?
Trả lời: Các quy định của BLDS năm 2015 về các vấn đề nêu trên không có sự thay
đổi quá nhiều so với các quy định của BLDS năm 2005. Do đó, nếu áp dụng các
quy định tương ứng của BLDS năm 2015 vào tình tiết như trong Quyết định 210,

10
câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ không thay đổi.Theo cơ sở pháp lý ở khoản 1
Điều 132: Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các
Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch; b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác
lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân
thủ quy định về hình thức.

PHẦN IV: HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU


* Tóm tắt Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội: Ông Bùi Tiến Văn và bà Nguyễn Thị Tằm có một khu đất ở diện
tích 350m² giáp quốc lộ 47. Năm 2008, con trai ông Bùi Tiến Văn là Bùi Tiến Dậu
có nói với ông Văn và bà Tằm cho mượn trích lục đất để vay vốn ngân hàng làm ăn.
Lợi dụng sơ hở của ông Văn bà Tằm, anh Dậu đã lập sẵn hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đất cho mình, anh Bình, anh Sinh (3 người con trai của ông Văn bà Tằm).
Do tin tưởng con trai nên ông Văn đã ký và ký thay cho bà Tằm vào các hợp đồng
chuyển nhượng sử dụng đất. Sau khi ông Văn bà Tằm có mâu thuẫn với anh Dậu và
phát hiện ra mình đã bị con trai lừa dối nên ông bà khởi kiện ra Toà và yêu cầu huỷ
hợp đồng tặng cho, trả lại quyền sử dụng đất.

*Tóm tắt bản án Quyết định Giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GĐT:


Bị đơn: Công ty Orange (là DN được thành lập năm 2005 theo pháp luật Hàn Quốc,
có trụ sở chính tại Hàn Quốc không có cơ quan quản lý, văn phòng đại diện hay chi
nhánh tại Việt Nam)
Nguyên đơn: Công ty Phú Mỹ chỉ định làm nhà thầu cung cấp dịch vụ thiết kế công
trình xây dựng “CLB Quốc gia và Sân golf Đôi Chim Câu” theo hợp đồng dịch vụ
được kí kết ngày 15/06/2007, Trong quá trình làm việc với nhau thì hai bên đã xảy
ra tranh chấp. Trong khi Công ty Orange không có “Giấy phép thầu” do Cơ quan
thẩm quyền của Việt Nam cấp dẫn theo quy định, nên phải xem xét lại tính hợp
pháp của hợp đồng trên theo quy định của pháp luật.

11
* Tóm tắt bản án số 75/2012/DS-GĐT:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Sanh
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Dư
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Dương Thị Chúc.
Ông Nguyễn Văn Sanh trình bày: Anh Dư, chị Chúc có chuyển nhượng cho ông
100m2 đất thổ cư, đầu năm 2007 ông xây dựng nhà xưởng trên diện tích đất nhận
chuyển nhượng từ vợ chồng anh Dư và không có ý kiến phản hồi gì, nay ông đề
nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Anh Nguyễn
Văn Dư trình bày: Vợ chồng anh có mượn ông Sanh 160.000.000đ đã thế chấp giấy
chứng nhận sử dụng đất để làm tin, sau đó có mang tiền trả nhưng ông Sanh không
nhận, nay anh không chấp nhận hợp đồng chuyển nhượng nên đề nghị ông Sanh
tháo dở công trình xây dựng, vợ chồng anh trả lại cho ông Sanh tiền gốc và lãi
350.000.000đ.

Câu 4.1: Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời: Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên vì: Căn cứ theo khoản 1 Điều 137 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 131 BLDS
2015 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”. Vậy Giao dịch
dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Câu 4.2: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty
Phú Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối
lượng Công việc mà công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
Trả lời: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú
Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng
Công việc mà công ty Orange đã thực hiện. Vì:
- Căn cứ theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”
- Căn cứ theo hợp đồng, tại Điều 4 quy định Công ty Phú Mỹ có nghĩa vụ phải
thanh toán cho Công ty Orange 160.000.000 KRW trên cơ sở chấp nhận CD và bản
vẽ chi tiết do Công ty Orange thực hiện. Tại Điều 12 quy định Công ty Phú Mỹ phải
hoàn thành việc kiểm tra trong 10 ngày kể từ ngày nhận được sản phẩm dịch vụ từ
bên thiết kế và phải thông báo kết quả kiểm tra. Trường hợp không có thông báo
khác thì việc kiểm tra coi như là đã thông qua. Quá trình giải quyết vụ án, hai bên
đương sự thống nhất đã bàn giao bản vẽ. Nên nếu Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì

12
Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với
khối lượng Công việc mà công ty Orange đã thực hiện.

Câu 4.3: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
Trả lời: Hướng gải quyết của Hội động thẩm phán là Nếu xác định hợp đồng dịch
vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần
giá trị tương ứng với công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại
hợp đồng. Còn nếu hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ
phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất
do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.

Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán
liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định
hợp đồng vô hiệu.
Trả lời: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện: Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty
Orange phần giá trị tương ứng với công việc mà Công ty Orange đã thực hiện là
hợp lí.
Căn cứ theo khoàn 2 điều 131 BLDS 2015: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận . Trường
hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá bằng tiền để trả”.
Trong trường hợp này, khi áp dụng giao dịch dân sự vô hiệu, khối lượng công ty
Orange đã thực hiện không thể khôi phục lại tình trạng ban đầu được nên buộc công
ty Phú Mỹ phải hoàn trả lại giá trị được quy ra bằng tiền.

Câu 4.5: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không
vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu
như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?
Trả lời: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán là nếu xác định Hợp đồng dịch
vụ là không vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần
giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo
thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của
pháp luật. So với trường hợp hợp đồng vô hiệu, khi hợp đồng không vô hiệu, Công

13
ty Phú Mỹ phải hoàn trả tiền cùng với phần lãi suất do chậm thanh toán theo quy
định của pháp luật.
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán là thuyết phục vì nếu hợp đồng trên vô
hiệu thì Công ty Phú Mỹ đương nhiên phải thanh toán cho công ty Orange phần giá
trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện nhưng vì
Công ty Phú Mỹ thanh toán chậm trễ, không đúng hạn nên Công ty Phú Mỹ phải
thanh toán luôn cả phần tiền lãi suất. Điều này được quy định tại Điều 306, Luật
Thương Mại 2005: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng
hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm
hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá
hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian
chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Câu 4.6: Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
xác định hợp đồng vô hiệu?
Trả lời:
- Theo Quyết định số 75/2012/DS-GĐT , Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu vì: Khi ông Sanh yêu cầu hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng
theo quy định của pháp luật thì vợ chồng anh Dư, chị Chúc không thực hiện. Dẫn
đến ngày 27/8/2009 ông Sanh có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Yên
Lạc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Ngày 18/01/2010 Tòa án nhân dân huyện Yên
Lạc đã có quyết định số 01/TA gia hạn để các bên thực hiện quy định về hình thức
của hợp đồng nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc cũng không thực hiện. Vì vậy Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét thấy hợp đồng vô hiệu là do lỗi của vợ chồng
anh Dư, chị Chúc không hợp tác để hoàn thành thủ tục về hình thức.

Câu 4.7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu trong Quyết định trên.
Trả lời:
- Việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu trong quyết
định trên là phù hợp với quy định của pháp luật. Từ hồ sơ vụ án thì hai bên ông
Sanh và anh Dự, chị Chúc đã có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích
đất trên cho ông Sanh với giá thỏa thuận 193.000.000đ. Hai bên có lập một giấy
chuyển nhượng đất thổ cư và nhận tiền vào ngày 25/6/2006, được Ủy ban nhân dân
xã Trung Kiên xác nhận.
- Ngày 27/8/2009 ông Sanh có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Yên
Lạc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Ngày 18/10/2010, Tòa án huyện Yên Lạc có
14
quyết định số 01/TA gia hạn để các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp
đồng nhưng vợ chồng anh Dự, chị Chúc không thực hiện, không hợp tác để hoàn
thiện các thủ tục về hình thức của hợp đồng, đã vi phạm Điều 129, BLDS 2005
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong
trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì
giao dịch đó vô hiệu.” Nên Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao tuyên hợp đồng vô
hiệu là hợp lý và chính xác.

Câu 4.8: Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông
Sanh sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Trả lời:
- Theo Khoản 2, 3, 4 Điều 131 BLDS năm 2015 và theo quyết định số 75 của Tòa
án, ông Sanh là người được bồi thường thiệt hại, vợ chồng anh Dư, chị Chúc sẽ phải
chịu bồi thường thiệt hại cho ông Sanh tương đương với phần giá trị hợp đồng được
thanh toán. Căn cứ theo biên bản định giá tài sản thì giá trị diện tích đất chuyển
nhượng là 1.000.000.000đ, giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là 195.000.000đ,
ông Sanh đã thanh toán được 160.000.000đ, tương đương 82,05% giá trị hợp đồng.
Như vậy, vợ chồng anh Dư, chị Chúc sẽ bồi thường cho ông Sanh số tiền mà ông
Sanh đã thanh toán trước đó, tức 160.000.000đ (Theo quy định tại Khoản 2, Điều
137, BLDS 2005).

Câu 4.9: Trong bản án số 133, Toà án quyết định huỷ giấy chứng nhận cấp cho
anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm
quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của giao
dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?
Trả lời: Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng
nhận cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan
có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hệ quả của
giao dịch dân sự vô hiệu. Vì giao dịch dân sự này không đáp ứng đủ điều kiện được
quy định tại Điều 117 BLDS 2015 nên giao dịch dân sự này vô hiệu dẫn đến hệ quả:
giấy chứng nhận giấy chứng cấp cho anh Đậu bị huỷ và ghi nhận cho ông Văn, bà
Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất điều này phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 131 BLDS năm
15
2015: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ luật dân sự 2015
2. Bộ luật dân sự 2005
3. Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà
4. Theo Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận án,
Nxb.Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam
5. Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long

16
17

You might also like