You are on page 1of 21

0

KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

LỚP CLC K45C

BÀI THẢO LUẬN THỨ BA


TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Giảng viên: Th.S Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Bộ môn: Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự, Tài Sản và Thừa kế

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 5 năm 2021


Nhóm 4:

STT Thành viên nhóm MSSV


1 Đặng Quang Huy 2053801013057
2 Trần Thị Thùy Linh 2053801012143
3 Lê Võ Khánh Mai 2053801014140
4 Trần Lê Bích 2053801011028
5 Trần Phúc Ngọc Châu Long 2053801015054
6 Nguyễn Thị Diệu Anh 2053801011016
7 Trần Thị Thúy An 2053801012005
8 Nguyễn Kiều Phương Uyên 2053801011317
9 Đặng Thị Ngọc Ánh 2053801015011
10 Đặng Duy Ngọc 2053801013099

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN...............................................................1
1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời và nêu ví dụ minh
hoạ......................................................................................................................... 2
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trả lời không?.......................................................................................2
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?..................................................................................................3
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản ( và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài)
............................................................................................................................... 4
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có phải là tài sản không? Vì sao?.....................................4
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.....................5
1.7 Bitcoin là gì?....................................................................................................5
1.8 Theo Toà án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?........5
1.9. Theo pháp luật nước ngoài, Bitcoin có được xem là một loại tài sản không?
Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.....................................................6
1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Toà án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.............................................................8
1.11 Quyền tài sản là gì?........................................................................................9
1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?..............................................................................................9
1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Toà án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là quyền tài sản?....................................................9
1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản).........................................................................................................10
VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU..................................11
2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...............................................................11
2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.................................................11
2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.........................................................12
2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định của Tòa án?................................................................13
2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?...........................................................................................13
2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?..........14
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN.................................15
3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.........................................................................................................15
3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời......................................................................................................................... 15
3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời............................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

- BLDS: Bộ luật dân sự


- UBND: Ủy ban nhân dân
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN

Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của TAND Tỉnh Khánh Hoà.
Ông Hai kiện ông Thái để yêu cầu ông Thái trả lại “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất’’. Tòa sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án vì cho rằng “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất” không phải là tài sản, không thể xem đây là loại giấy tờ có giá
nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa nhưng ông Hai kháng cáo. Tòa phúc
thẩm tiếp tục đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho ông Hai.
Tóm tắt Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của TAND huyện Long Hồ
tỉnh Vĩnh Long.
Xét xử vụ án “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng” giữa nguyên đơn ông
B, bà H và bị đơn bà T ngày 28/8/2018. Năm 2012, sau khi sửa nhà xong thì 10
ngày sau ông B, bà H phát hiện mất giấy CNQSD đất. Sau khi làm đơn, UBND
huyện Long Hồ cấp lại giấy CNQSD đất cho ông B, bà H, nhưng sau khi có giấy
CNQSD đất thì không được nhận do Uỷ ban nói có người tranh chấp. Hiện nay, nà
T giữ giấy CNQSD đất của ông T và bà H và chỉ chấp nhận trả lại khi nhận đủ số
tiền 120.000.000 đồng. Quyết định chấp nhận yêu cầu khỏi kiện của ông B và bà H
buộc bà T giao trả cho ông B và bà H giấy CNQSD.
Tóm tắt Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của TAND tỉnh Bến Tre.
Ông Cường kiện Chi cục trưởng chi cục thuế Bến Tre vì đã truy thu tiền thuế
về việc ông Cường mua bán tiền ảo. Tòa án cho rằng: Khung pháp lý về tiền kỹ
thuật số đang hoàn thiện và chưa có văn bản nào quy định về điều này.Quyết định:
chấp nhận việc khởi kiện của ông Cường và việc truy thu thuế của chi cục thuế Bến
Tre là sai. Quan điểm của Tòa án là không xem tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là hàng
hóa và mua bán tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho
phép và phải chịu thuế.
Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10/4/2018 của HĐTP TAND TC.
Tại đơn khởi kiện ngày 5/7/2007, nguyên đơn bà H, bị đơn bà L. Cụ T chết
không để lại di chúc. Bà L là con riêng của cụ T4 đã đứng tên làm hợp đồng thuê
căn nhà và xin mua hoá giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP, thanh tra quốc
phòng của Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã họp giải quyết với nội dung: nếu gia đình bà
không còn khiếu nại thì nhà số 63 đường B sẽ được giải quyết cho bà L mua hoá
giá, giá trị còn lại của ngôi nhà sẽ do nội bộ chị em trong gia đình thoả thuận chia,
sau khi mua hoá giá, bà L đã chiếm đoạt luôn căn nhà. Sau khi xét xử sơ thẩm bà H
và ông T1 có đơn kháng cáo. Giao hồ sơ vụ án cho TAND Thành phố Hồ Chí Minh
xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời và nêu ví dụ minh
hoạ.
- Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì giấy tờ có giá là “bằng chứng xác
nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ
có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. 
- Ví dụ : “Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền
mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai,
nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại
chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của
Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010)”.
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trả lời không?
- Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 16/2011/DS-GDT ngày 21/4/2011, Hội
đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao đã nhận định “pháp luật cũng không xác
định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà là
loại giấy tờ có giá...”
- Trong Quyết định số 06 có cho câu trả lời cho câu hỏi này:
Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý
để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền
với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở
hữu tài sản khác gắn liền với đất.”. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Trong Bản án số 39 cũng có câu trả lời:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lí để nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
người có quyền sử dụng đất …
Rõ ràng, trong Bản án này, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà cũng chỉ là chứng thư pháp lí, là văn bản chứng quyền,
không được xem là loại giấy tờ có giá theo quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?
- Tại Bản án số 47/2018/DS-PT ngày 12/3/2018 của TAND tỉnh Đắk Lắk, Toà
án nhận định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) không được coi là tài sản
hay quyền tài sản…”.
- Trong Quyết định số 06 có cho câu trả lời cho câu hỏi này:
Căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý
để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền
với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở
hữu tài sản khác gắn liền với đất.”. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Trong Bản án số 39 cũng có câu trả lời:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lí để nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
người có quyền sử dụng đất …
Rõ ràng, trong bản án này, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà cũng chỉ là chứng thư pháp lí, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản.
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn
từ khái niệm tài sản ( và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước
ngoài)
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS năm 2015: “Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
- Hướng giải quyết của Toà án trong Quyết định số 06 liên quan đến việc
không công nhận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” là tài sản, là hợp lí và thuyết phục. Toà đã viện dẫn quy định tại khoản 16 Điều
3 Luật đất đai năm 2013 để làm căn cứ chứng minh rằng các loại giấy tờ chứng
nhận quyền sở hữu này chỉ là văn bản chứng quyền, không được xem là loại giấy tờ
có giá và do đó nó không phải là tài sản theo định nghĩa của pháp luật dân sự ở
nước ta.
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có phải là tài sản không? Vì sao?
- Nếu áp dụng BLDS năm 2015 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
sở hữu nhà vẫn không phải là tài sản.
- Bởi vì định nghĩa tài sản không có sự thay đổi giữa BLDS năm 2005 và
BLDS năm 2015 và BLDS hiện hành cũng không bổ sung thêm hay thay đổi bất cứ
quy định nào về việc xác định loại giấy tờ có giá trong tài sản hay quy định liên
quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà. Do đó,
những loại giấy tờ này vẫn chỉ là vật chứng quyền, không được công nhận là tài sản.
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
- Hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là hoàn toàn hợp lí.
- Sau khi xác định được đây là chứng thư pháp lí nhưng lại có hàm chứa một
số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân
sự, Toà đã tiến hành giải quyết Bản án này căn cứ theo lẽ công bằng, buộc bà T phải
trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông B mà bà T đang chiếm giữ
trái pháp luật. Mặc dù giấy chứng nhận quyền sử dụng không phải là tài sản nhưng
việc chiếm giữ một đồ vật mà biết chắc nó thuộc về người khác là trái với quy định
của pháp luật, bà T còn có hành vi đòi số tiền 120.000.000 đồng sau đó mới giao trả
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là hành vi sai trái, đi ngược lại với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Do đó, Quyết định buộc bà T phải giao trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B là thuyết phục.
1.7 Bitcoin là gì?
- “Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số, được tạo ra và nắm giữ dưới dạng điện
tử. Không giống như các loại tiền tệ vật chất truyền thống, như đô la hoặc euro,
Bitcoin không được in ra. Thay vào đó, Bitcoin được sản xuất bởi những người sử
dụng máy tính trên khắp thế giới, sử dụng phần mềm để giải quyết các vấn đề toán
học.”1
1.8 Theo Toà án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
- Bitcoin không được coi là tài sản vì:
+ Bitcoin không phải là tiền.
Theo Điều 16,17 Luật Ngân hàng nhà nước 2010 quy định về đơn vị tiền,
bitcoin không được xem là đơn vị tiền của nhà nước Việt Nam.
Điểm a khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước quy định về ngoại tệ,
bitcoin không được xem là ngoại tệ và cũng không phải là đối tượng của ngoại hối
vì bitcoin không phải đồng tiền của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới hiện nay.
Bitcoin không phải là đơn vị tiền của Việt Nam, cũng không phải là ngoại tệ.
+  Bitcoin không phải là vật
Vật được xem là một bộ phận của thế giới vật chất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng,
khí và con người có thể chiếm hữu, kiểm soát được; ví dụ như nhà, xe, bàn ghế…
Bitcoin không tồn tại dưới dạng này.
+ Bitcoin không phải là giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá phải do các chủ thể được phép phát hành. Giấy tờ có giá bao
gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công
ty, kỳ phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, công trái.
+ Bitcoin không phải là quyền tài sản, bởi lẽ:
Theo Điều 115 Bộ Luật Dân sự năm 2015, quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác. Bitcoin tồn tại dưới dạng đồng tiền ảo nên
không thể coi là quyền tài sản được.

1
Tìm hiểu về Bitcoin và tiền điện tử (tiền ảo), https://www.xtb.com/vn/learn-to-trade/tim-hieu-ve-bitcoin-va-
tien-dien-tu-tien-ao ,truy cập ngày 14/4/2021.
- Hiện nay, khung pháp lý về bitcoin chưa được ban hành, vì thế bitcoin không
thể được coi là tài sản bởi vì chưa có quy định cụ thể cũng như các quy định khác
liên quan để giải thích rõ. Vì vậy, Toà án sẽ không thụ lý những tranh chấp liên
quan đến bitcoin mà người khởi kiện yêu cầu giải quyết dưới hình thức tranh chấp
tài sản. 2

1.9. Theo pháp luật nước ngoài, Bitcoin có được xem là một loại tài sản không?
Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.

- “Nước đầu tiên hoàn toàn chấp nhận Bitcoin đó là Nhật Bản. Từ ngày
1/4/2017, Bitcoin được coi là tài sản và là một phương thức thanh toán hợp pháp,
được quản lý bởi Cơ quan Dịch vụ Tài Chính Nhật Bản (JFSA). Một số tổ chức lớn
tại đây đã công nhận Bitcoin như một loại tiền tệ.” 3 Nước đầu tiên hoàn toàn chấp
nhận Bitcoin đó là Nhật Bản. Bắt đầu từ ngày 1/4/2017, Bitcoin được coi là tài sản
và là một phương thức thanh toán hợp pháp, được quản lý bởi Cơ quan Dịch vụ Tài
Chính Nhật Bản (JFSA). Một số tổ chức lớn tại đây đã công nhận Bitcoin như một
loại tiền tệ. Các luật trong việc giao dịch tại ngân hàng vẫn chưa thay đổi, nhưng
chúng cũng đang được xem xét để làm cho Bitcoin thậm chí còn có thể sử dụng
được trong đời sống hằng ngày.

Nhật Bản chính thức thừa nhận bitcoin và các đồng tiền số như là tài sản,
phương tiện thanh toán nhưng không phải là “đồng tiền luật định" (xem Điều 2-5
của Đạo luật Dịch vụ Thanh toán của Nhật Bản (PSA) ngày 25 tháng 5 năm 2016).
Vào ngày 7 tháng 3 năm 2014, nội các chính phủ Nhật Bản đã đưa ra phán quyết về
việc xử lý hợp pháp các bitcoin. Phán quyết này không coi bitcoin là tiền tệ và trái
phiếu theo Luật ngân hàng hiện hành và các Luật công cụ tài chính và giao dịch,
cấm các ngân hàng và công ty chứng khoán kinh doanh bitcoins. Phán quyết cũng
thừa nhận rằng không có điều luật nào ngăn cấm các cá nhân hoặc pháp nhân không

2
Tranh chấp về bitcoin giải quyết như thế nào?, https://luatvietnam.vn/doanh-nghiep/tranh-chap-ve-bitcoin-
561-29802-article.html, truy cập ngày 14/4/2021.

3
Tìm hiểu pháp lí Bitcoin tại Việt Nam và trên thế giới, https://tiendientu.org/phap-ly-bxitcoin-tai-viet-nam-
va-tren-the-gioi , truy cập ngày 14/4/2021
được nhận các bitcoins để đổi lấy hàng hoá hoặc dịch vụ. Việc đánh thuế có thể
được áp dụng cho bitcoins. Theo tờ Nikkei Asian Review, vào tháng 2 năm 2016,
"các nhà quản lý tài chính Nhật Bản đã đề nghị xử lý các loại tiền ảo như là các
phương thức thanh toán tương đương với các loại tiền tệ thông thường". Thành phố
Hirosaki chính thức chấp nhận các khoản đóng góp bitcoin với mục đích thu hút
khách du lịch quốc tế và tài trợ cho các dự án địa phương 4. Trong khi hầu hết các
nước phương Tây, vốn đi tiên phong trong các trào lưu mới, khoanh vùng cấm đối
với Bitcoin, thì Nhật Bản đã thực hiện một cách tiếp cận hoàn toàn trái ngược. Từ
ngày 1/4/2017, Luật Dịch vụ Thanh toán (Điều luật về tiền ảo, một phần của Luật
Ngân hàng) chính thức công nhận Bitcoin là một phương tiện thanh toán. Tiếp đó
vào tháng 9/2017, Chính phủ Nhật Bản (FSA) cấp giấy phép hoạt động cho 11 sàn
giao dịch Bitcoin tại quốc gia này, và 17 đồng tiền số cũng được phép giao dịch trên
11 sàn giao dịch này5. Việc luật hóa chính thức công nhận bitcoin của chính phủ
Nhật Bản song song với các chính sách hạn chế ở các nước láng giềng như Trung
Quốc, Hàn Quốc… (Tính từ năm 2014 đến tháng 1/2017, thị trường Trung Quốc
chiếm khoảng 90% lượng giao dịch bitcoin toàn cầu) đã đẩy giá Bitcoin lên tới
7.000 USD. Ngoài ra, ở một số thời điểm doanh thu của đồng tiền kỹ thuật số có
nguồn gốc từ Nhật có thể chiếm tới 60% lượng Bitcoin toàn cầu trong một số ngày
đỉnh điểm6.

Vào tháng 10 năm 2015, Toà án Tư pháp của Liên minh Châu Âu đã phán
quyết rằng “Việc trao đổi các loại tiền tệ truyền thống cho các đơn vị tiền tệ ảo”
bitcoin “được miễn thuế GTGT” và rằng “các quốc gia thành viên phải miễn làcác
giao dịch liên quan đến ‘đồng tiền , tiền giấy và tiền xu được sử dụng như là hợp
pháp”, làm cho bitcoin một loại tiền tệ như trái ngược với một hàng hóa. Theo các
thẩm phán, không nên tính thuế vì bitcoin nên được coi như một phương tiện thanh
toán.
4
Legality of bitcoin by country or territory
https://en.wikipedia.org/wiki/Legality_of_bitcoin_by_country_or_territory

5
Bitcoin – Động lực mới cho nền kinh tế Nhật Bản?

http://baoquocte.vn/bitcoin-dong-luc-moi-cho-nen-kinh-te-nhat-ban-62625.html

6
Japan: A Forward Thinking Bitcoin Nation

https://www.forbes.com/sites/outofasia/2017/11/02/japan-a-forward-thinking-bitcoin-nation/#26c9845a33a3
Mặc dù không chính thức hợp pháp tại Mỹ, CFTC đã phân loại tiền điền tử
như một mặt hàng trong khi Bộ Tài Chính Mỹ coi đây là một doanh nghiệp dịch vụ
tiền tệ (MSB). Chính phủ Mỹ đã cởi mở và tích cực hơn về Bitcoin so với nhiều
quốc gia khác. Dù không một nhà quản lý tài chính nào coi nó như một loại tiền tệ,
Bitcoin vẫn được báo cáo trong các bản khai thuế. Mạng lưới Khống chế Tội phạm
Tài chính của Mỹ (Financial Crimes Enforcement Network) đã và đang nghiên cứu
về Bitcoin trong một thời gian ngắn. Hơn nữa, Bitcoin cũng đã có mặt trên thị
trường tài chính phái sinh của Mỹ.

1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Toà án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.

- Việc Toà án không công nhận Bitcoin là một loại tài sản là hoàn toàn phù
hợp với pháp luật Việt Nam hiện tại. Theo quy định về khái niệm tài sản trong
BLDS hiện hành, Bitcoin không thoả mãn bất cứ yếu tố nào để có thể được xem là
một loại tài sản, nó không phải là vật, tiền, cũng không phải là giấy tờ có giá hay
quyền tài sản. Do đó, quyền sở hữu Bitcoin cũng không được pháp luật Việt Nam
bảo vệ cũng như việc sử dụng hay lưu hành đồng tiền ảo này cũng không được ủng
hộ và có thể bị xử lí vi phạm hành chính hoặc bị truy tố trách nhiệm hình sự nếu bị
phát hiện.

1.11 Quyền tài sản là gì?

- Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?
- Bộ luật Dân sự hiện hành chưa có các quy định cụ thể nào để khẳng định
quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản.
- Tuy nhiên, theo án lệ 31/2020,
Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp
nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ
T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên.
Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua
hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao
cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê,
mua hóa giá nhà của cụ T. 
- Trong án lệ này, quyền thuê, mua hoá giá nhà (bất động sản - một loại tài sản
theo quy định của BLDS hiện hành) là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền).
1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Toà án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là quyền tài sản?
- Trong đoạn đầu của phần Nhận định của Toà án, Toà án nhân dân tối cao đã
xác định như sau: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm
1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền)
và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T.”.
1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)
- Có thể thấy, hướng giải quyết trên của Toà án tối cao trong việc xác định
quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản phù hợp với các quy định của pháp
luật dân sự, giúp tạo tiền lệ cho các Toà án cấp dưới xét xử các vụ việc có nội dung
tương tự.
- Toà án đã trích dẫn các quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự
năm 1995 để làm căn cứ xác định các quyền trên là quyền tài sản là hoàn toàn phù
hợp và thuyết phục. Quyền thuê, mua hoá giá căn nhà số 63 của ông T là quyền có
thể trị giá được bằng tiền từ đó nó được các quy định của luật dân sự điều chỉnh như
là một quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ.
VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU

Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09/09/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao
Gia đình chị Vân ở lại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị
Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phái nguyên đơn khai có
đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng
minh, đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả
nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.
Gia đình chị vân đã ở lại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình liên tục
công khai.
2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

- Đoạn “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ”,
“Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm
1954”, “nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975”,
“đến năm 2004 cụ Hảo mới kiện ra toà” “Ngày 18/02/2001 chị bán tầng 1 nhà số 2
Hàng Bút cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Dương Thị Ngọc Lan”
- Căn cứ Khoản 1 Điều 179 BLDS năm 2015:
“1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.”
Vì gia đình chị Vân đã ở nhà số 2 Hàng Bút nhiều thế hệ cộng với khoản thời
gian bắt đầu ở từ năm 1954 đến khi cụ Hảo kiện ra toà năm 2004 là tầm 50 năm, chị
Vân bán tầng 1 nhà số 2 hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn chị Lan, thế nên
- Chị Vân nắm giữ và chi phối trực tiếp đối với tài sản nhà đất đang tranh chấp
- Khẳng định của Toà án hoàn toàn hợp lý.
2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

- Đoạn : “...Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu...” đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay
tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.
- Khẳng định trên của Tòa án nhân dân tối cao là có phần đúng đắn. Bởi từ
quyết định giám đốc thẩm này có thể thấy chưa xác minh được ông Hải thuê nhà
của cụ Hảo từ năm 1954 hay là thuê nhà của ông Chính từ năm 1968. Trong khi đó,
ông Chính lại không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản
lý căn nhà. Có thể nhận ra quyền chiếm hữu, sở hữu nhà đất này cũng như thời điểm
xác lập giao dịch cho thuê chưa thực sự rõ ràng. Vì thế, bị đơn là chị Nhữ Thị Vân -
người không trực tiếp giao dịch để thuê nhà đất, cũng như không nắm rõ giao dịch
thuê nhà đất này có thể không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là
không có căn cứ pháp luật (thỏa mãn điều 189 BLDS 2005) nhưng chị Vân lại khai
có biết về việc thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính. Vậy thì chị
Vân có thực sự biết hay không biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ
pháp luật của mình? Theo quan điểm của chúng tôi, Tòa án đã có kết luận chưa thật
sự thỏa đáng, phù hợp với thực tế.
2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ”,
tuy có tranh chấp “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị
Vân từ năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh”.
- Căn cứ Điều 182 BLDS năm 2015:
“1. Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời
gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng
chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người
khác chiếm hữu.
2. Việc chiếm hữu không liên tục không được coi là căn cứ để suy đoán về tình
trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này.”
Chị Vân hoàn toàn chiếm hữu liên tục đối với nhà đất có tranh chấp, thế nên
khẳng định của Toà án hoàn toàn hợp lý.

2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định của Tòa án?

- Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm dựa vào đoạn:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự về xác lập quyền
sở hữu theo thời hiệu : Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”
- Quyết định của Tòa án là hợp lý.
+ Theo Khoản 1 Điều 183 BLDS năm 2015:
“Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch,
không giấu giiếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng công dụng
và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”.
+ Chị Vân đã ở cùng gia đình tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954 một cách
minh bạch, không giấu giếm, bố chị xem căn nhà là tài sản của mình và cũng đã
nâng cao nền nhà, thay cửa.

2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?

- Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp
qua đoạn:
“Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình nhà chị Vân từ sau năn
1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban
nhân dân phường Hàng Bố năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện
ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất nêu trên”.
- Khẳng định này của Tòa án là hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các bên liên
quan. Vì:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự:
“Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu”.
- Do vậy, chị Vân đã chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dụng thửa đất đó
ngay tình, liên tục, công khai từ 30 năm trở lên nên chị Vân trở thành chủ sở hữu tài
sản kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, người kiện đòi tài sản phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đòi tài sản của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy, kể cả trường hợp gia đình
chị Vân không chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dụng thửa đất đó ngay tình,
liên tục, công khai từ 30 năm trở lên thì điều đó cũng không có nghĩa là gia đình chị
Vân phải trả lại thửa đất cho người khởi kiện.
2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

- Nếu cụ Hải thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 thì chị Vân được hưởng quyền
dân sự vì thời hiệu hưởng quyền của chị đã hết nên chị được xác lập quyền sở hữu
đối với nhà đất có tranh chấp. Vì theo khoản 1, Điều 247, BLDS năm 2005 và Điều
236, BLDS năm 2015:
“Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Gia đình chị Vân đã ở tại nhà đất có tranh chấp trên từ năm 1954 đến năm
2004 (thời điểm cụ Hảo đưa khởi kiện ra Toà yêu cầu chị Vân trả nhà) thì đã được
50 năm. Theo quy định thì chị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên 30 năm nên trở
thành chủ sở hữu của tài sản này.
- Nếu cụ Hải thuê nhà của ông Chính từ năm 1968 thì cụ Hảo vẫn là chủ sở
hữu nhà đất nên chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh
chấp.

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN

3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời

- Chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro đối với
tài sản theo quy định của Bộ luật Dân Sự năm 2015.
- Điều 162 Bộ luật Dân Sự năm 2015 quy định:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi
quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

- Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xoài.


- Bà Dung nhận ghe xoài trước khi vụ cháy chợ xảy ra dẫn đến việc ghe xoài
bị hư. Vì thế, sau khi nhận hàng, bà Dung chính là chủ sở hữu của ghe xoài thông
qua giao dịch mua bán giữa bà Dung và bà Thủy.
Khoản 1, Điều 162, BLDS năm 2015: Chịu rủi ro về tài sản
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Khoản 1, Điều 441, BLDS năm 2015 quy định về: Thời điểm chịu rủi ro:
“1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua,
bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
- Từ hai căn cứ pháp lý này, ta có thể xác định, người nào là chủ sở hữu tài sản
thì phải chịu rủi ro tài sản thuộc sở hữu của mình.

3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài cho bà Thuỷ.
Căn cứ theo Điều 441 BLDS năm 2015: “Bên bán phải chịu rủi ro đối với tài
sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua phải chịu trách nhiệm vơi tài
sản kể thừ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác và luật có quy
định khác.”
Điều 223 BLDS năm 2015: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng
mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác
theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó.”
Điều 162 BLDS năm 2015:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi
quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục văn bản pháp luật tiếng Việt.

1. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm
2005.

2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 06 năm
2014.

3. Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015 số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm
2015.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bán án và bình luận bản án, Nhà xuất bản
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam năm 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 4-7,
8-10, 134-137, 139-139 và 164-165.

2. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và thừa kế
của Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức năm 2018,
Chương I.

3. Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
thừa kế của Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức năm
2018, Chương V.

4. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nhà xuất bản Đại học quốc gia năm 2007, tr.236 đến 237, tr.244 đến 245, tr.269 đến
271.

You might also like