You are on page 1of 18

QT47.

1-NHÓM-4-BUỔI-THẢO-LUẬN-THỨ-3

Luật Dân sự (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)

Scan to open on Studocu

Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


Bộ môn:

NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ
LUẬT DÂN SỰ,
TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
Lớp QT47.1
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA
Nhóm 4
TÀI SẢN VÀ QUYỀN
ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


DANH SÁCH THÀNH VIÊN
NHÓM 4 - LỚP QT47.1

ĐÁNH
STT HỌ VÀ TÊN MSSV CÔNG VIỆC GIÁ
Tổng
1 Đỗ Mai Hồng Ánh 2253801015040 hợp
2 Trịnh Tú Anh 2253801015038
Khái niệm tài
3 Nguyễn Ngọc Vân Anh 2253801015029 sản
4 Đào Vũ Thảo Anh 2253801015012

5 Nguyễn Nhật Anh 2253801015030

6 Đặng Vũ Hiệp 2253801015108


Căn cứ xác lập
7 Đỗ Phương Hồng 2253801015117
quyền sở hữu
8 Nguyễn Đào Duy Anh 2253801015019

9 Nguyễn Thị Mỹ Dung 2253801015066


Chuyển rủi ro
10 Đặng Minh Chiến 2253801015057 đối với tài sản

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


MỤC LỤC
* KHÁI NIỆM TÀI SẢN..........................................................................................1
1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.............................................................................................1
2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số
39 có cho câu trả lời không?................................................................................2
3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không? Vì sao?.............................................................................2
4. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn
từ khái niệm tài sản...............................................................................................3
5. Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?.....................................................3
6. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.................4
7. Bitcoin là gì?.....................................................................................................5
8. Theo tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?................5
9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.....................................................................................5
10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam............................................................6
11. Quyền tài sản là gì?........................................................................................6
12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?............................................................................................7
13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua tài sản?................................................................7
14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?........................................................................................................8
*CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU:...............................................................8

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩa của anh/
chị về khẳng định này của Tòa án ?.....................................................................9
2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩa của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?.............................................9
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?......................................................10
4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?......................................................10
5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Toà án ?..............................................................................11
6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không ? Vì sao ?.11
*CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN..............................................................12
1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.........................................................................................................12
2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời........................................................................................................................12
3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời...........................................................................................12
* TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................13

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


* KHÁI NIỆM TÀI SẢN

Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân
tỉnh Khánh Hòa
Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án giữa nguyên đơn là ông Phan Hai và bị đơn là ông Phan Quốc Thái. Yêu cầu
khởi kiện của ông Phan Hai là yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số phát hành 0926009, số vào sổ 01868QSDĐ/DS-DK cấp ngày
23/07/1999 của Uỷ ban nhân dân huyện Diên Khánh mang tên Lương Thị Xàm.
Xét thẩm quyền giải quyết vụ án đã căn cứ vào Điều 105 BLDS năm 2015, Điều
115 BLDS năm 2015 và khoản 6 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 cho thấy rằng Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử
dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại
giấy tờ có giá. Do đó, việc ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả
lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Quyết định không chấp nhận kháng nghị 01/QĐKN/VKS-DS ngày 12/5/2017
của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hai. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, trả lại
đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo về việc “Đòi lại tài sản” cho ông Phan Hai.

1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.
- Giấy tờ có giá là một dạng đặc biệt của tài sản, mà theo quy định tại khoản 1
Điều 105 BLDS năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Tuy nhiên BLDS năm 2015 và các BLDS trước đó đều không có quy định trực tiếp
về giấy tờ có giá mà loại tài sản này được quy định trong các luật chuyên ngành,
văn bản dưới luật và theo khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm
2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức
phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”
- Giấy tờ có giá là giấy tờ trị giá được bằng tiền, có thể có mệnh giá hoặc không
có mệnh giá, có thể dùng để thay thế trong lưu thông, thanh toán. Giấy tờ có giá chỉ
được coi là tài sản khi được phát hành hợp pháp (được phát hành bởi Nhà
nước, ngân hàng, tổ chức có chức năng kinh doanh hoặc doanh nghiệp), trong
khoảng thời gian có hiệu lực xác định như quy định trong khoản 1 Điều 1 Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá
khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.
- Một số ví dụ minh họa về giấy tờ có giá:
+ Cổ phiếu, trái phiếu.
+ Hợp đồng góp vốn đầu tư.
+ Quyền mua cổ phần.

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không được xem là giấy tờ có giá.
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT của TAND tỉnh Khánh Hòa có đề cập: “Như
vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tải sản và không thể xem
là loại giấy tờ có giá”. Dựa vào mục thẩm quyền giải quyết vụ án thì theo Điều 105
BLDS năm 2015, Điều 115 BLDS năm 2015 và khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm
2013.
- Bản án số 39/2018/DSST của TAND huyện Long Hồ nhận định rằng:“Giấy
chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử
dụng đất, quyền sử dụng nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người
có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản
gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.”. Căn cứ dựa
trên khoản 2 Điều 4; khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
Như vậy, cả Quyết định số 06 và Bản án số 39 đều cho rằng “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” đều không phải là giấy tờ có
giá.
- Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao ban hành công văn số 141/TANDTC-
KHXX hướng dẫn thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận tài
sản: “Theo Công văn 141, các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô
tô, xe máy, Giấy đăng ký xe ô tô ...) không phải là giấy tờ có giá theo quy định tại
Điều 163 của BLDS 2005; do đó, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người
chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết.” (Điều 2 công
văn số 141/TANDTC-KHXX).

3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không? Vì sao?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản.
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT cho rằng:“Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”
- Bản án số 39/2018/DSST của TAND huyện Long Hồ nhận định rằng:“Giấy
chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử
dụng đất, quyền sử dụng nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người
có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản
gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.”
Ngoài ra:

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


Căn cứ theo Điều 105 BLDS năm 2015 Quy định về tài sản:
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
- Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều
kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
- Điều 115 BLDS năm 2015 quy định về quyền tài sản như sau: “Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
- Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp
lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền
sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Do đó, chứng thư pháp lý và cũng theo các quy định trên nên các loại “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” đã nêu không phải là
tài sản.

4. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
nhìn từ khái niệm tài sản.
Theo em, hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản là
hoàn toàn hợp lý, vì: Ta xem xét thấy rằng Giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản không phải là
giấy tờ có giá trị, không được định giá bằng tiền nên căn cứ theo Điều 105 BLDS
năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản
bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện
có và tài sản hình thành trong tương lai” thì Giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất
không phải là tài sản nên hướng giải quyết của Tòa là hoàn toàn hợp lý.

5. Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
- Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà không phải là tài sản.
- Căn cứ theo Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai” và theo
Điều 115 BLDS 2015 quy định “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác” mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho người có

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


quyền sử dụng đất, sở hữu nhà nên nó chỉ là văn bản chứa quyền sử dụng đất, là
chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của họ và không phải là giấy tờ có giá theo
quy định của BLDS 2015.

6. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” .
- Hướng giải quyết của Tòa án chưa sát với vụ việc và mức nộp phạt mà bà
Nguyễn Thị Thủy T phải đóng là chưa thỏa đáng. Vì với nội dung bản án mà bên
ông B khởi kiện, gia đình ông B không hề quen biết với bà T và giấy tờ bị mất sau
khi ông B, bà H dọn hết đồ ra sân để sửa chữa. Sau khi được UBND gọi lên để giải
quyết tranh chấp thì mới gặp bà T lần đầu tiên. Bà T hoàn toàn không chứng minh
được nguồn gốc của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM090902 theo như
căn cứ bà đã trình bày trước đó nên Tòa có thể điều tra và thu thập thêm chứng cứ
vì đây có khả năng là một vụ lừa đảo trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, bên ông B không
yêu cầu Cơ quan chức năng đi điều tra, đi sâu vào tình tiết. Gia đình ông B chỉ có
mục đích khởi kiện nhằm lấy lại Giấy chứng nhận sử dụng đất và không đồng ý trả
số tiền 120.000.000 vnđ cho bà T. Vì vậy, Tòa chỉ dừng ở mức xử phạt hoàn trả
giấy tờ và mức phí bồi thường mà bà T trao trả cho vợ chồng ông B nhưng vẫn chưa
thỏa đáng để răn đe các hành vi tương tự như của bà T. Bởi vì vấn đề này tạo nên
rắc rối không cần thiết cho gia đình nạn nhân cũng như Tòa án.

Tóm tắt bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long
- Xét xử vụ án “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng” giữa nguyên đơn ông
Võ Văn B, bà Bùi thị H và bị đơn bà Nguyễn Thị Thủy T ngày 28/8/2018. Năm
2012, khi sửa nhà ông B và bà H dọn hết đồ ra sân. Sau đó 10 ngày sau ông B, bà H
phát hiện mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi làm đơn, Ủy ban nhân
dân huyện Long Hồ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B và bà H,
đồng thời ra quyết định hủy Giấy chứng nhận sử dụng đất trước đó. Tuy nhiên khi
có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vợ chồng ông B không được nhận do Ủy
ban nói có người tranh chấp. Hiện nay, bà T là người giữ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của vợ chồng ông B và chỉ chấp nhận trả lại khi nhận đủ số tiền
120.000.000 đồng. Tòa án quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn
B và bà Bùi Thị H đối với bà Nguyễn Thị Thủy T, buộc bà T giao trả cho vợ chồng
ông Võ Văn B giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi tòa ra yêu cầu chứng minh
nguồn gốc Giấy tờ sử dụng đất AM 090902 của bà T từ đâu ra thì bà không chứng
minh được từ đó Tòa ra quyết định bà T chiếm giữ giấy tờ trái phép. Tòa yêu cầu
bà T trả lại giấy tờ cho ông B, bà H và có đền bù thỏa đáng.
Tóm tắt bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa Án nhân dân
tỉnh Bến Tre
- Xét xử về việc khiếu kiện: “Quyết định truy thu thuế” giữa người khởi kiện
ông Nguyễn Việt Cường và người bị kiện là Chi cục trưởng Chi cục thuế Thành
phố Bến Tre và Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre. Ông Cường có đơn khởi kiện
yêu cầu tòa án hủy Quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của Chi cục trưởng
Chi

4
Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)
cục thuế thành phố Bến Tre và quyết định số 1002/QĐ-CT ngày 18/5/2017 của Cục
trưởng chi Cục thuế tỉnh Bến Tre. Vì lý do ông Cường phải nộp thuế giá trị gia tăng
và thuế thu nhập cá nhân khi mua bán tiền kỹ thuật số là không hợp lý. Tòa án
quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt Cường.

7. Bitcoin là gì?
- Hiện Việt Nam không có văn bản nào định nghĩa cụ thể về khái niệm về
Bitcoin nhưng theo Ngân hàng Trung ương Châu Âu thì Bitcoin được hiểu là
tiền ảo. Theo đó, tiền ảo là một loại tiền kỹ thuật số không có sự quản lý, được
phát hành bởi những người phát triển phần mềm cũng thường là người kiểm soát
hệ thống và được sử dụng, chấp nhận thanh toán giữa các thành viên của một
cộng đồng ảo nhất định.
- Bitcoin (BTC) là tiền mã hóa được biết đến là loại tiền tệ kỹ thuật số phi tập
trung - một hình thức tài chính dựa trên công nghệ blockchain và không phụ thuộc
vào các bên trung gian (tổ chức hoặc cá nhân) nào. Đồng Bitcoin được mã hóa dưới
dạng mã nguồn mở dùng để trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet, giao
dịch theo hình thức ngang hàng trong mọi giao dịch.
- Hiện Bitcoin là đồng tiền đứng vị trí thứ nhất trong danh sách những đồng
điện tử có vốn hóa lớn trên thị trường.

8. Theo tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
- Theo tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt
Nam. CSPL:
- Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
- Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác.”
- Giải thích: Căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản”. Đồng tiền Bitcoin tồn tại dưới dạng đồng tiền ảo, không phải
vật, tiền, giấy tờ có giá đồng thời căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 thì Bitcoin
không phải là quyền tài sản. Từ những căn cứ trên thì tiền ảo Bitcoin không được
xem là tài sản theo quy định của BLDS Việt Nam hiện hành.

9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.
Pháp luật nước ngoài sẽ có những nơi coi Bitcoin là tài sản, cũng có những nơi
không coi Bitcoin là tài sản.
- Tại Canada: Theo Coindance, có thể thấy Bitcoin gần như hợp pháp ở khu
vực Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Trong đó, trừ Bolivia ở Nam Mỹ cấm hoàn toàn Bitcoin.
Và một vài khu vực ở Châu Mỹ giữ thái độ trung lập. Hiện người dân xứ Canada có
thể
5

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


dùng Bitcoin để thanh toán nhiều nhu yếu phẩm hằng ngày. Thậm chí là mua bán cả
cần sa bằng tiền mã hóa.
- Tại Singapo: Không giống Thái Lan, SFA tại Singapore chỉ áp dụng cho các
tài sản kỹ thuật số thuộc định nghĩa của sản phẩm thị trường vốn. Những token khác
có thể được phân loại là token thanh toán (Bitcoin, Ether) và thuộc Luật Dịch vụ
thanh toán (PSA) – sẽ có hiệu lực vào cuối 2019 và có một bộ giấy phép riêng. Nhìn
chung, Singapore ủng hộ sự phát triển của lĩnh vực tiền mã hóa và sẽ tiếp tục xây
dựng hệ sinh thái trong tương lai.

10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
- Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản ở Việt Nam là hoàn toàn hợp lý.
- Vì căn cứ theo Khoản 1 Điều 105 BLDS năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản”. Muốn trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những
điều kiện sau: là bộ phận của thế giới vật chất; con người chiếm hữu được; mang lại
lợi ích cho chủ thể; có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Một tài
sản được coi là tiền hiện nay khi nó có giá trị lưu hành trên thực tế. Giấy tờ có giá
được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân
sự. Quyền tài sản là quyền được trị giá bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao
dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, Bitcoin không thuộc loại tài sản
nào được liệt kê trong BLDS. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng
không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp.

11. Quyền tài sản là gì?


- Cơ sở pháp lý: Theo Điều 115 BLDS năm 2015 “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

Tóm tắt Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Kim L
- Về vụ án dân sự tranh chấp chia tài sản chung việc mua hoá giá nhà tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
 Nội dung quyết định:
- Nguyễn Thị L là con riêng của cụ T4 đã đứng tên làm hợp đồng thuê căn nhà
trên và xin mua hoá giá căn nhà. Khi biết được việc làm này của bà L thì bà đã có
đơn khiếu nại bà H yêu cầu Tòa án chia nhà số 63 đường B theo pháp luật cho các
thừa kế của cụ T bao gồm cụ T4, bà, ông T1, ông T2, bà L (nếu chứng minh được là
con nuôi hợp pháp) và yêu cầu bà L hoàn trả tiền cho thuê nhà từ năm 1998 đến
nay. Năm 1993, cụ T lập giấy ủy quyền cho bà L được trọn quyền giải quyết những
việc

6
Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)
có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà số 63 đường B;
cụ T viết rõ trong giấy ủy quyền là giấy ủy quyền có giá trị trong khi cụ còn sống
và kể cả khi cụ chết. Theo nhận định của Tòa án, đến thời điểm cụ T chết năm
1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Quyền thuê,
mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của
cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của
cụ T. Tại Biên bản giải quyết khiếu nại ngày 05-7-2001của Thanh tra Bộ Quốc
phòng, hai bên đã thỏa thuận thống nhất “…đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà
63 đường B. Việc phân chia sau khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với
Nhà nước, giá trị còn lại do chị em bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải
quyết theo pháp luật”. Ngày 09-10-2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã
chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do có sự
thống nhất, thỏa thuận giữa bà H, ông T1 với bà L ngày 05-7-2001 thì Quân khu 7
mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó, có căn cứ xác định
nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L.
 Quyết định của Tòa án:
- Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/QĐKNGĐT-VKS-
DS ngày 22-8-2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 125/2015/DS-PT ngày 21-8-2015 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số
186/2014/DS-ST ngày 06-03-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về
vụ án “Tranh chấp chia tài sản chung về việc mua hóa giá nhà” giữa nguyên đơn là
bà Nguyễn Thị H với bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan khác.
- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?
- Chưa có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản.
- Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
- Quyền thuê, quyền mua tài sản thuộc định nghĩa của quyền tài sản. Nhưng để
khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản là không đúng. Vì
quyền tài sản còn bao gồm nhiều quyền khác ngoài quyền thuê và quyền mua tài
sản.

13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua tài sản?
- Quyết định số 05, Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền
mua tài sản ở đoạn: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm
1995,
7
Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)
quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và
được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng
thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T”.

14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?
- Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua đã
phần nào được giải quyết nhưng còn nhiều bất cập.
+ Quyền thuê, quyền mua tài sản đã được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T là
bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.
+ Theo điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự 1995, quy định quyền thuê, quyền
mua hóa giá là quyền tài sản được trị giá được bằng tiền là không hợp lý. Điều này
tạo sự mâu thuẫn với khái niệm tài sản.

*CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU:

Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DS-GĐT Ngày 09/09/2013 về
vụ án “Đòi nhà”
- Nguyên đơn là cụ Dư Thị Hảo.
- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Hảo bao gồm: bà Nguyễn
Thị Cầu; ông Nguyễn Đắc Điều; bà Nguyễn Minh Thu; anh Nguyễn Thanh Sơn;
anh Nguyễn Thanh Bình; chị Nguyễn Lệ Thu; anh Nguyễn Thanh Xuân; chị
Nguyễn Thị Lệ Thuỷ và anh Nguyễn Thanh Lâm.
- Bị đơn là chị Nhữ Thị Vân.
- Người có nghĩa vụ liên quan: chị Dương Thị Ngọc Lan; anh Nguyễn
Hồng Sơn; anh Nhữ Duy Lâm và anh Nhữ Duy Lân.
- Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng chứng điền thổ số 25,
tập 2 tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946, là tài sản riêng của cụ
Dư Thị Hảo (chồng cụ Hảo là cụ Nguyễn Đắc Chính, chết năm 1942). Vì cụ Hảo
vào Sài Gòn buôn bán năm 1954, nên giao nhà cho con là vợ chồng ông Chính, bà
Châu quản lý. Năm 1968, vợ chồng ông Chính, Bà Châu đi công tác nên cho ông
Nhữ Duy Hải thuê nhà. Năm 2001 chị Nhũ Thị Vân bán nhà số 2 Hàng Bút cho vợ
chồng chị Dương Thị Ngọc Lan và anh Nguyễn Hồng Sơn. Trường hợp có căn cứ
xác định nhà đất nêu trên là nhà vắng chủ và thực tế nhà nước cũng chưa quản lý
thì tòa án cấp sơ thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 168 và điểm i khoản 1 Điều 192
Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ vụ án do cụ Hảo không có quyền khởi kiện vì: Gia
đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời
khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông
Chính (con của cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1945, ông
Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý
căn nhà. Đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia
đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu có ngay tình, liên tục,
công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự năm 236 về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu. Vì lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297
và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm
số 90/2011/DSPT ngày 30/5/2011 của Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Hà Nội và hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST ngày
31/8/2010 cả Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “ Đòi nhà” giữa nguyên
đơn là cụ Dư Thị Hảo (chết ngày 28/01/2007).

1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩa của anh/ chị
về khẳng định này của Tòa án ?
- “Chị Nhữ Thị Vân có lời khai trong hồ sơ: Ông nội, bố mẹ và chị cùng ở tại
căn nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Chị có nghe ông nội
nói là ông nội thuê nhà số 2 Hàng Bút của cụ Dư Thị Hảo từ năm 1954. Chị không
biết cụ Hảo mà chị chỉ biết ông Chính là người cho gia đình chị thuê nhà số 2
Hàng Bút, hàng năm gia đình chị đóng tiền cho ông Chính. Sau khi ông Nội chết
(1995) gia đình chị không đóng tiền thuê nhà cho ông Chính nữa”.
- Quyết định của Tòa án là vô cùng hợp lý và thỏa đáng. Vì cho dù gia đình
chị Vân thuê nhà ông Hải từ năm 1958, hay ông Chính từ năm 1968 thì gia đình
chị Vân chiếm hữu nhà đất có tranh chấp đến nay đều đã trên 30 năm.

2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩa
của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?
- “ Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ phải, tuy
chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà
cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng Cụ Hảo vào Nam sinh sống từ năm 1954, ông
Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý
căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ
năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.
Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975
nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có hai phiên bản hòa giải từ Ủy ban nhân
dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra
tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ. Vì thực tế cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là
chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247 bộ luật
dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu”.
- Tòa án khẳng định gia đình chị Vân chiếm hữu ngay tình nhà đất là không
hợp lý, không phù hợp với Bộ luật Dân sự 2005. Điều 189 Bộ luật Dân sự 2005 quy
định: “Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người
chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có
căn cứ pháp luật.”. Gia đình chị Vân biết hoặc phải biết việc gia đình chị chiếm hữu
ngôi nhà trên là không có căn cứ pháp luật theo quy định tại điều 183 Bộ luật Dân

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


sự 2005 vì chị có khai trong hồ sơ rằng: “chị có nghe ông nội nói về việc thuê nhà
của cụ Hảo vào năm 1954, hàng năm gia đình chị đóng tiền thuê nhà cho ông
Chính, sau khi ông nội chết năm 1995 thì gia đình chị không đóng tiền thuê nhà cho
ông Chính nữa, năm 1997 bố chị chết thì chị tiếp tục ở lại căn nhà số 2 Hàng Bút
Tầng 1 chị không trả tiền thuê nhà cho ai…” tức là gia đình chị chiếm hữu nhà cho
thuê nhưng lại không thực hiện nghĩa vụ của bên thuê là phải trả tiền nhà khoản 2
điều 495 bộ luật dân sự 2005 và khi bên cho thuê đòi nhà thì chị không chịu trả lại
nhà do đó gia đình chị Vân chiếm hữu không ngay tình nhà đất có tranh chấp trên
30 năm.

3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Tòa án đã khẳng định rằng: “Trường hợp có căn cứ xác định nhà đất nêu
trên là nhà vắng chủ và thực tế nhà nước cũng chưa quản lý thì Tòa án cấp sơ thẩm
căn cứ điểm a khoản 1 Điều 168 và điểm i khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân
sự đình chỉ vụ án do cụ Hảo không có quyền khởi kiện, vì gia đình chị Nhữ Thị
Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia
đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con của cụ
Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1945, ông Chính cũng không
xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà.
- Em thấy đây là 1 quyết định hợp lí, vì ngôi nhà đã là 1 bất động sản vô chủ
kể từ khi ông Chính và bà Châu đi công tác ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 1968 và
phía bên ông Chính bà Châu cũng không có bằng chứng chứng minh ngôi nhà là
của mình và gia đình chị Vân cũng đã sinh sống ở đó hơn 30 năm chiếu theo khoản
1 Điều 236 Bộ luật dân sự 2015 thì căn nhà sẽ trở thành nhà của gia đình chị Vân.
Thông qua sự việc chị Vân đã bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút cho anh Nguyễn Hồng
Sơn và chị Dương Thị Ngọc Lan. Cho thấy căn nhà vẫn không có tranh chấp trên
thực tế. Theo Tòa án, thời gian mà gia đình chị Vân vào ở là vào năm 1968 tính
đến 2004 xảy ra vụ kiện là 36 năm theo phía nguyên đơn đã có khai là đòi nhà, cụ
thể là sau 1975, nhưng không có tài liệu xác minh điều này. Theo vụ án, thì căn nhà
gia đình chị Vân trong một khoảng thời gian dài mà không có tranh chấp (chỉ có
biên bản hòa giải của UBND phường Hàng Bồ năm 2001). Từ đó có thể thấy căn
cứ Điều 182 Bộ luật Dân sự năm 2015 gia đình chị Vân chiếm hữu nhà liên tục sau
hơn 30 năm là hợp lý.

4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Ngày 18/02/2001 chị bán tầng
1 nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Dương Thị Ngọc
Lan, giá 80 lượng vàng tương đương 384.000.000 đồng. Giấy bán nhà có chữ ký
của 3 anh em (là chị và anh Nhữ Duy Lâm, anh Nhữ Duy Lân) nhưng chị là người
trực tiếp mua bán nhà và nhận tiền với chị Lan anh Sơn, còn hai anh em là anh Lâm

10

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


và anh Lân do chị yêu cầu nên có kí vào giấy, nếu hợp đồng mua bán nhà giữa anh
chị với chị Vân không đúng thì anh chị yêu cầu chị Vân thanh toán tiền nhà cho anh
chị theo giá thị trường.”.
- Theo em, em đồng ý với Quyết định của Tòa án. Vì theo Điều 191 BLDS
2005 “Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một
cách minh bạch, không giấu diếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính
năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình”.
- Có thể thấy trong khoảng thời gian gia đình chị Vân chiếm hữu căn nhà,
bố chị Vân có nâng cao nền nhà, thay cửa giữ gìn như tài sản của mình và sinh
hoạt sống trong căn nhà đó liên tục, công khai trong 30 năm

5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Toà án ?
- Đoạn của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp là: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối
với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có
biên bản hòa giải tại Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004
cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ
vì thực tế cụ Hảo đã không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã
ở tại căn nhà này hơn 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy
định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu:
“Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội
dung không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải
thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch”.
- Theo tôi, tôi đồng ý với Quyết định của Tòa án. Bởi năm 2004, cụ Hảo đã có
di chúc giao quyền bất động sản cho bà Châu toàn quyền sử dụng. Do đó cụ Hảo đã
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp.

6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không ? Vì sao ?
- Theo em, gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền, bởi vì gia đình chị
vân đã được xác định là đã ở tại căn nhà có tranh chấp trên 30 năm, là chiếm hữu,
liên tục, công khai nhưng không ngay tình.
- Bởi vì chị Vân biết rõ căn nhà được thuê từ ông Chính, đồng thời người đứng
tên sở hữu là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo (có bằng khoán điền thổ số 25, tập 2,
tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946). Và việc chiếm hữu tài sản
của chị Vân không phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, tức là trường hợp
người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu tài sản; không phải là người được chủ
sở hữu ủy quyền quản lý tài sản, không phải là người được chuyển giao quyền
chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu và cũng
không phải là người phát hiện ra tài sản vô chủ hoặc bị đánh rơi, bỏ quên, bị chôn
giấu,

11

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định, thì đó là chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật.

*CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN

1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Theo CSPL quy định tại Khoản 1 Điều 162: “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về
tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.” Thế nên người phải chịu rủi ro đối với tài
sản theo quy định của BLDS năm 2015 là chủ sở hữu của tài sản và trong trường
hợp nàylà bà Dung (bên mua).

2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Theo CSPL quy định tại Khoản 1 Điều 441 “Bên bán chịu rủi ro đối với tài
sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể
từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác.” Kể từ thời điểm giao nhận tài sản thì bà Dung đã được chuyển giao quyền sở
hữu tài sản ghe xoài từ bà Thủy. Thế nên tại thời điểm cháy chợ, bà Dung (bên
mua) là chủ sở hữu số xoài.

3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 162 BLDS năm 2015
- Bà Dung phải thanh toán số tiền mua ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng cho bà
Thủy. Bà Dung đã là chủ sở hữu của ghe xoài ngay sau khi bà Thủy giao hàng và
bà Dung nhận ghe hàng đó từ bà Thủy. Quyền sở hữu ghe xoài của bà Thủy đã
được chuyển giao cho bà Dung đồng thời quyền sở hữu của bà Thủy chấm dứt ngay
tại thời điểm phát sinh giao dịch. Theo Khoản 1 Điều 162 BLDS năm 2015 “Chủ sở
hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác .”. Thế nên vụ việc ghe
xoài bị cháy là do rủi ro sau khi giao nhận xoài và tại thời điểm đó bà Dung đang là
chủ sở hữu của ghe xoài nên phải chịu rủi ro về tài sản của mình. Vậy cho nên việc
bà Dung phải thanh toán tiền ghe xoài cho bà Thủy là hoàn toàn hợp lý.

12

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)


* TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Điều 105 và Điều 115 BLDS 2015 (Điều 163, 181 và 322 BLDS 2005); Án lệ
số 31/2020/AL và các quy định liên quan khác (nếu có).
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa, Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân
huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long.
- Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre;
- Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
- Điều 221 và Điều 236 BLDS 2015 (Điều 170, Điều 185, Điều 186 và Điều 247
BLDS 2005).
- Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
- Điều 162 và Điều 441 BLDS 2015 (Điều 166, 234, 248 và Điều 440 BLDS
2005).
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương II.

13

Downloaded by 23 - ?inh Ng?c Ngân (ngocngan25012005@gmail.com)

You might also like