You are on page 1of 39

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI


THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

BÀI THẢO LUẬN THÁNG THỨ 2


Giảng viên: ThS. Lê Thanh Hà
Thực hiện: Nhóm 3 – TM47.3
STT Họ và tên MSSV
1 Ngô Phương Nghi 2253801011182
2 Nguyễn Bảo Ngọc 2253801011189
3 Nguyễn Thanh Ngọc 2253801011191
4 Nguyễn Thị Nguyệt Nhi 2253801011205
5 Phạm Linh Nhi 2253801011209
6 Nguyễn Hoàng Phúc 2253801011230
7 Lê Văn Sĩ 2253801011258
8 Nguyễn Hữu Tài 2253801011260
9 Hà Thị Thanh Tâm 2253801011261
10 Nguyễn Văn Thắng 2253801011264
11 Bùi Chí Thảo 2253801011266

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 23 tháng 11 năm 2023


MỤC LỤC

Vấn đề 1: Xác định thiệt hại vật chất được bồi thường khi tính mạng bị xâm
phạm...........................................................................................................................1
Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang..........................................................................................................................1
Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc...................................................................................................................1
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi
tính mạng bị xâm phạm?...........................................................................................2
1.2. Nghị quyết số 03 và 02 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được
bồi thường không? Vì sao?........................................................................................3
1.3 Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi
thường không? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?........................................4
1.4. Đoạn nào trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án
đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự
lễ mai táng không?.....................................................................................................4
1.5. Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai táng,
việc cho bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?................................................5
1.6. Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí
đó có được bồi thường không? Vì sao?....................................................................6
1.7. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền
cấp dưỡng cho ai và không buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng
cho ai? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?...........................................................8
1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến người
được bồi thường cấp dưỡng?....................................................................................8
1.9. Trong bản án số 26, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một
lần hay nhiều lần?.....................................................................................................9
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan
đến cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng?........................................................9
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại phát sinh trong tai nạn giao thông....................11
Tóm tắt Quyết định số 23/DS-GĐT ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao:...............................................................................................................11
Tóm tắt Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006 của Tòa hình sự Tòa án
nhân dân tối cao.......................................................................................................11
2.1. Thay đổi về các quy định liên quan tới Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015?..............11
2.2. Xe máy, ô tô có là nguồn nguy hiểm cao độ không? Vì sao?..........................12
2.3. Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do
hành vi của con người gây ra? Vì sao?..................................................................12
2.4. Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng
các quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra?.............................................................................................................................13
2.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra..............................................14
2.6. Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi
thường thiệt hại?......................................................................................................15
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại.....15
2.8. Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tòa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại không? Vì sao?............................................................15
2.9. Theo Nghị quyết số 03 và 02, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi
thường không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................16
2.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tòa
giám đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh....................................16
2.11. Trong Quyết định số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?.....16
2.12. Ông Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình không? Vì sao?......16
2.13. Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì sao?
...................................................................................................................................17
2.14. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh
Bình?........................................................................................................................17
2.15. Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời?.........................................................................................................17
2.16. Đoạn nào cho thấy, Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng
...................................................................................................................................17
2.17. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm?...18
2.18. BLDS và Nghị quyết số 03 và 02 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không?
...................................................................................................................................18
2.19. Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không? Đoạn
nào của quyết định cho câu trả lời..........................................................................19
2.20. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị
thiệt hại?...................................................................................................................19
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại trong hay ngoài hợp đồng..................................21
Tóm tắt Quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/6/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.......................................................................................................21
Tóm tắt Bản án số 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh............................................................................................................21
3.1. Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?.....................................................................22
3.2. Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và
bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?..............................................23
3.3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?............................24
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên
về vấn đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi
thường giữa các bên?..............................................................................................24
Vấn đề 4: Buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ..........................................................26
Tóm tắt quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Toà kinh tế Tòa
án nhân dân tối cao.................................................................................................26
Tóm tắt bản án số 418/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân quận
10, Tp. Hồ Chí Minh................................................................................................26
4.1. Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa
phương đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?................................27
4.2. Hướng của Tòa án địa phương có được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?...............................................27
4.3. Vì sao Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết
định cho câu trả lời?................................................................................................27
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao?
...................................................................................................................................28
4.5. Đối với vụ việc trong Bản án số 418, Công ty K có nghĩa vụ làm thủ tục để
cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì sao?..................28
4.6. Nghĩa vụ làm thủ tục trên đã bị vi phạm chưa và Tòa án có buộc Công ty K
tiếp tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư
không? Vì sao?.........................................................................................................28
4.7. Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc Công ty K tiếp
tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không?
Nêu rõ cơ sở văn bản khi trả lời?............................................................................29
4.8. Cho biết những cơ chế để việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hiệu quả
trong thực tế?...........................................................................................................29
Vấn đề 5: Tìm kiếm tài liệu....................................................................................31
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm
2020 đến nay (ít nhất 20 bài)...................................................................................31
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên........................33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vấn đề 1: Xác định thiệt hại vật chất được bồi thường khi tính mạng bị xâm
phạm

Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang:

Bị cáo: Lay Bun Thy

Bị hại: Phạm Văn Quang, Lê Văn Được (đã chết)

Nội dung vụ án: Ngày 16/7/2016, Lay Bun Thy cùng bạn của mình đến uống
bia tại chòi lá của quán “Hương xưa”. Lúc này thì nhóm người của Phạm Văn
Quang, Lê Văn Được đến ngồi đối diện bàn của Thy. Do Quang có mời bia Thy
nhưng Thy không uống nên hai bên xảy ra cự cãi. Do nghĩ Quang là người tổ chức
đánh mình trước đó nên Thy đã dùng súng bắn Quang bị thương, bắn Được bị
thương nặng và chết trên đường đi cấp cứu.

Hướng giải quyết của Tòa án: Buộc bị cáo Thy bồi thường chi phí mai táng,
tổn thất tinh thần cho bị hại Lê Văn Được; cấp dưỡng cho con anh Được đến lúc đủ
18 tuổi; bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thơ (chủ quán Hương xưa) là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc:

Bị cáo: Nguyễn Văn A

Bị hại: Chu Văn D

Trong quá trình xét hỏi về vụ việc mất chiếc quần cộc của Trần Hữu G, vì
cho rằng Chu Văn D không thành khẩn khai nhận nên Nguyễn Văn A đã dùng chân
đá vào ngực D, là nguyên nhân dẫn đến tử vong của Chu Văn D.

Hướng giải quyết của Tòa án: tuyên phạt A 08 năm tù về tội “Cố ý gây
thương tích”, buộc A phải bồi thường các chi phí mai táng đối với người bị hại, tổn
thất tinh thần và các tổn thất cho gia đình người bị hại tổng là 128.000.000 đồng.
Cấp dưỡng hàng tháng số tiền 605.000đ/01 tháng cho cháu Đức P để khi cháu đủ 18
tuổi (Đức P là con chưa thành niên của Văn D).
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi
tính mạng bị xâm phạm?

BLDS năm 2005 BLDS năm 2015

- Cơ sở pháp lý: Điều 610 BLDS năm - Cơ sở pháp lý: Điều 591 BLDS
2005. năm 2015.

- Theo điểm a khoản 1 Điều 610 BLDS - Theo điểm a khoản 1 Điều 591
năm 2005, thiệt hại được xác định là: BLDS năm 2015, thiệt hại được
“Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi xác định là: “Thiệt hại do sức khỏe
dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại bị xâm phạm theo quy định tại
trước khi chết”. Điều 590 của Bộ luật này”.
→ Thay đổi thiệt hại mang tính khái
quát và đa dạng hơn.

- Thay đổi này nhằm giúp bảo vệ tốt


hơn người bị thiệt hại và những
người liên quan.

- Tại khoản 1 Điều 610 không có quy định - Bổ sung điểm d khoản 1 Điều 591
“Thiệt hại khác do luật quy định”. quy định “Thiệt hại khác do luật
quy định”.
- Thay đổi này nhằm mục đích mở
rộng và tôn trọng những trường
hợp có phát sinh thiệt hại hợp lý
nhưng chưa được liệt kê trong các
trường hợp phía trên.

- Theo khoản 2 Điều 610 BLDS năm - Tại khoản 2 Điều 591 BLDS năm
2005, người bồi thường là “người xâm 2015, người bồi thường được thay
phạm”. bằng “người chịu trách nhiệm bồi
- Người bồi thường thiệt hại ở đây chỉ bao thường”.
gồm người xâm phạm. - Người bồi thường thiệt hại bao
gồm đối tượng là người xâm phạm
và cả các đối tượng không phải là
người xâm phạm nhưng phải chịu
trách nhiệm bồi thường trên thực
tế.
→ Đối tượng bồi thường được mở
rộng

- Theo khoản 2 Điều 610 BLDS 2005, - Theo khoản 2 Điều 591 BLDS
mức bồi thường tối đa được quy định 2015, mức bồi thường tối đa được
không quá sáu mươi lần tháng lương tối quy định không quá một trăm lần
thiểu do Nhà nước quy định. mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định.
- Mức phạt bồi thường thiệt hại tăng
lên nhằm đẩy mạnh tính răn đe,
nghiêm khắc của pháp luật.

1.2. Nghị quyết số 03 và 02 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được
bồi thường không? Vì sao?

Nghị quyết số 03 của HĐTP quy định chi phí đi lại dự lễ tang không được
bồi thường.

CSPL: Tiểu mục 2.2 phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày


08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc “Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.”

Giải thích:

Theo điểm b khoản 1 Điều 591 BLDS năm 2015 quy định về thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;”

Theo khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2022 về thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 591 của Bộ luật Dân sự:

“Chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản tiền: mua
quan tài; chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng cần thiết cho việc
khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi
khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong
tục, tập quán địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi
phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ.”

Theo tiểu mục 2.2 phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP quy định
về chi phí hợp lý cho việc mai táng:

“Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền
mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang,
hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc
chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp
nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc
mộ…”

Vì chi phí đi lại dự tang lễ không được liệt kê trong chi phí hợp lý cho
việc mai táng quy định cụ thể tại Nghị quyết số 03/2006 và Nghị quyết số
02/2022, thế cho nên chi phí đi lại dự tang lễ trong trường hợp này không
được bồi thường.

1.3 Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi
thường không? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?

Trong thực tiễn xét xử trước đây, Tòa án theo hướng chi phí đi lại dự lễ mai
táng được bồi thường.

Cụ thể trong Quyết định số 20/2002/HĐTP-HS ngày 24/12/2002 Hội đồng


thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Bị cáo: anh Bích.

Bị hại: chị Hạnh.

Nội dung vụ án: Anh Bích điều khiển xe máy gây tai nạn và làm chị
Hạnh chết.

Hướng giải quyết của Tòa án: buộc anh Bích phải bồi thường cho bị
hại các chi phí hợp lý trong đám tang, trong đó có khoản chi phí đi lại cho
người thân của chị Hạnh đi từ miền Bắc vào Nha Trang để dự đám tang.

1.4. Đoạn nào trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án
đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự
lễ mai táng không?

Đoạn trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án đã
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay:
Tại phần “Xét thấy” của Bản án:

“Tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp cho người bị hại là bà
Nguyễn Thị Nuôi và Trần Thị Nguyệt (mẹ, vợ của bị hại Được) yêu cầu bị
cáo bồi thường các khoản tiền như sau: Chi phí mai táng là 110.400.000
đồng, tiền vé máy bay từ Singapore về Việt Nam là 12.000.000 đồng,...

Xét thấy, yêu cầu đòi bồi thường của đại diện hợp pháp người bị hại
Lê Văn Được là bà Nguyễn Thị Nuôi, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thị Thơ hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội và được bị cáo đồng ý nên Hội đồng xét xử chấp nhận.”

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 02/2022: “Chi phí
hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản tiền: mua quan tài; chi phí hỏa táng,
chôn cất; các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa,
thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn
nhân theo phong tục, tập quán địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường
chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ.” Có thể thấy chi phí đi lại không
được liệt kê trong các khoản chi phí hợp lý được bồi thường tại quy định trên nhưng
cũng không được quy định trong các khoản chi phí không được chấp nhận yêu cầu
bồi thường. Tòa án theo hướng chấp nhận việc yêu cầu bồi thường chi phí vé máy
bay là không trái với quy định của pháp luật, trong trường hợp này có thể xem chi
phí vé máy bay là chi phí đi lại dự lễ mai táng.

1.5. Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai táng,
việc cho bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?

Trong vụ việc trên, Tòa án theo hướng chấp nhận cho bồi thường chi phí đi
lại dự lễ mai táng là thuyết phục.

CSPL: Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP.

Giải thích:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP:

“Chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản tiền: mua
quan tài; chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng cần thiết cho việc
khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi
khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong
tục, tập quán địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi
phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ.”
Như vậy, tiền vé máy bay từ Singapore về Việt Nam là khoản chi phí
đi lại dự tang lễ không thuộc các chi phí được bồi thường và chi phí không
được bồi thường được liệt kê ở khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2022. Nên
việc Tòa án cho phép bồi thường chi phí máy bay là không trái với quy định
pháp luật.

Theo quan điểm của tác giả Đỗ Văn Đại và Lê Hà Huy Phát tại Tạp
chí Kiểm sát số 14/2023: “Trong một vụ tranh chấp mà một cá nhân có tính
mạng bị xâm phạm và một số người thân đi dự lễ tang bằng máy bay, Hội
đồng Thẩm phán đã xét rằng “chi phí hợp lý cho việc mai táng được chấp
nhận, do đó chi phí cho việc dự lễ tang cần được xem xét nhưng chỉ chấp
nhận đối với những người có quan hệ thân thích gần gũi với nạn nhân như
cha mẹ, vợ chồng, anh chị em ruột, con đẻ đi bằng phương tiện máy bay để
kịp dự tang lễ”. Những viện dẫn trên cần được cân nhắc khi xem xét bồi
thường chi phí mai táng khi tính mạng bị xâm phạm.” 1 Trong một số trường
hợp có thể xem chi phí máy bay là đi lại dự tang lễ. Do đó, trong vụ việc nêu
trên thì việc bồi thường là hợp lý.

1.6. Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí
đó có được bồi thường không? Vì sao?

Chi phí nêu trên (chi phí vé máy bay) là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để
dự lễ tang, chi phí đó có được bồi thường không. Trước hết cần phải hiểu chi phí bỏ
ra để dự lễ tang là các chi phí của cháu anh D bị tổn thất do đến dự lễ tang của anh
D (có thể bao gồm chi phí đi lại, ăn uống trong quá trong quá trình đi lại, chi phí
ngày công do nghỉ phép, các chi phí tổn thất về sức khỏe do quá trình di chuyển,...)
BLDS năm 2015 quy định ở Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như
sau:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật
này;

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.”


1
Đỗ Văn Đại & Lê Hà Huy Phát. (2023). Thiệt hại được bồi thường khi tính mạng bị xâm phạm trong pháp
luật dân sự, Tạp chí Kiểm sát số 14/2023.
Như vậy có thể thấy, chỉ có các thiệt hại được nêu ra trong khoản 1 Điều 591
mới được bồi thường, việc xác định cụ thể các chi phí được bồi thường khi tính
mạng bị xâm phạm được quy định cụ thể ở Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP, trong
đó có:

Chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản tiền: mua quan tài;
chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn
tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc
chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong tục, tập quán địa phương.
Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây
mộ, bốc mộ (khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP).

Có thể thấy rằng, phần chi phí đề cập ở vấn đề nêu trên không thuộc trường
hợp “Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí” và cũng không thuộc trường
hợp được liệt kê trong các khoản “Chi phí hợp lý cho việc mai táng” được ghi nhận
trong Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐPT. Cả BLDS năm 2015 và Nghị quyết hướng
dẫn số 02/2022/NQ-HĐTP đều quy định theo hướng các khoản tiền được bồi
thường, tuy nhiên việc quy định theo hướng này mang đến một vấn đề đó là liệt kê
không hết, không đầy đủ các khoản chi phí hợp lý khác. Đối với các chi phí tổn thất
của người đi dự đám táng nói chung và bà con họ hàng nói riêng, cả BLDS và Nghị
quyết hướng dẫn điều bỏ ngỏ, về các khoản chi phí này chỉ có thể áp dụng tương tự
pháp luật để giải quyết.

Xét về nội dung của tổn thất, có thể nhìn nhận trường hợp tổn thất được nêu
đến ở trên không thuộc các trường hợp được quy định chi tiết tại các Điều 589 đến
Điều 593. Tuy vậy có thể xem xét dựa trên quy định mang tính nguyên tắc ở khoản
1 Điều 584 để xác định. Theo đó, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp này, cần phải xét đến căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường bao gồm:

+ Hành vi gây thiệt hại: Anh A dùng chân đá vào ngực của anh D là nguyên
nhân dẫn đến tử vong của anh D, anh D chết nên gia đình tổ chức đám tang.
+ Thiệt hại thực tế xảy ra: Cháu của D bỏ các khoản chi phí ra để đến dự đám
tang
+ Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả: Ở đây nguyên nhân dẫn đến thiệt hại
không thể xem là hành vi của anh A được, hành vi dùng chân đá vào anh D
chẳng qua là điều kiện để dẫn đến thiệt hại của của cháu anh D. Nếu anh A
không dùng chân đá anh D, mà có những lí do khác nhau khiến anh D tử
vong thì cháu anh D vẫn bỏ các khoản chi đó đến để dự đám táng của anh D.
Bên cạnh đó, việc anh D chết do anh A đá vào ngực cũng không dẫn đến việc
tổn hại các khoản ăn uống và tổn hại sức khỏe trong quá trình di chuyển.
Như vậy, trường hợp áp dụng tương tự pháp luật các khoản chi phí dự đám
tang của cháu anh D sẽ không đủ điều kiện để được bồi thường. Vì vậy đây sẽ là chi
phí không được bồi thường.

1.7. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền
cấp dưỡng cho ai và không buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng
cho ai? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?

Trong vụ việc thứ nhất, Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/03/2017 Tòa án đã


buộc người gây thiệt hại cấp dưỡng cho con của người bị thiệt hại đến khi đủ 18
tuổi. Nội dung được thể hiện ở đoạn thứ hai, trong nội dung về trách nhiệm dân sự
trong phần Quyết định, cụ thể ở trang số 12 của Bản án, trang số 317/390 của đề
cương thảo luận môn Luật hợp đồng và Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, như
sau: “Ngoài ra, còn cấp dưỡng nuôi cháu Lê Thành Đạt, sinh ngày 24/01/2016 (con
anh Được) đến lúc trưởng thành (18 tuổi), mức cấp dưỡng bằng 1/2 tháng lương cơ
bản do Nhà nước quy định tại thời điểm thi hành án, thời gian cấp dưỡng tính từ
tháng 07/2016 do bà Nguyễn Thị Nuôi đại diện nhận.”

Trong vụ việc thứ hai, Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 Tòa án đã


buộc người gây thiệt hại cấp dưỡng cho con chưa thành niên của người bị hại đến
khi đủ 18 tuổi. Trong đoạn số 7 của phần Quyết định, cụ thể ở trang số 7 của Bản
án, trang số 326/390 của đề cương thảo luận môn Luật hợp đồng và Bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, như sau: “Buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Chu Đức P, sinh ngày 30/12/1999 là con chưa thành
niên của người bị hại Chu Văn D số tiền 605.000đ/1 tháng. Thời điểm cấp dưỡng
kể từ tháng 10 năm 2016 cho đến khi Chu Đức P đủ 18 tuổi.”

Cả hai bản đều không buộc người gây thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng đối
với cha mẹ của người bị thiệt hại.

1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến người
được bồi thường cấp dưỡng?

Theo tôi hướng giải quyết của Tòa là hợp lý, phù hợp với quy định của pháp
luật về chi phí cấp dưỡng. Theo đó:

+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng hoặc nuôi dưỡng trước khi chết được xác định như sau:
“a) Mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nhưng
không thấp hơn 01 tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng
đang cư trú cho mỗi tháng;

b) Thời điểm cấp dưỡng được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm
phạm về sức khỏe;

c) Đối tượng được bồi thường tiền cấp dưỡng là những người mà người bị
thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia
đình.” (khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP).

+ Người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng: Theo quy định tại
Điều 110, 111 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống
chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng
con” và “Con đã thành niên không sống chung với cha, mẹ có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Như vậy, Tòa án xác định người gây thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
chưa thành niên của người bị thiệt hại là phù hợp với quy định trên.

1.9. Trong bản án số 26, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một
lần hay nhiều lần?

Trong vụ việc thứ nhất, Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/03/2017 Tòa án đã


theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện nhiều lần.

Trong vụ việc thứ hai, Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 Tòa án đã


theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện nhiều lần và định kỳ hàng tháng.

1.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan
đến cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng?

Về cách thức nhận bồi thường, BLDS năm 2015 quy định: “Các bên có thể
thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc
thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”, ở Nghị quyết 02/2022 không có hướng
dẫn gì thêm. Như vậy, có thể thấy về cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng BLDS
cho phép các bên thỏa thuận, trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án ấn
định một cách thức cụ thể phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội, hoàn cảnh
nạn nhân. Trong hai vụ việc được bàn luận, người nhận cấp dưỡng là trẻ chưa thành
niên nên việc xử theo hướng cấp dưỡng nhiều lần là theo tôi là phù hợp. Vì chi phí
để nuôi dưỡng trẻ không cố định mà có thể tăng theo thời kỳ và nhu cầu, việc nhận
bồi thường theo hướng nhiều lần định kỳ có thể giúp bên nhận bồi thường yêu cầu
tăng giảm mức bồi thường nếu thấy hợp lý, đối với bên bồi thường cũng như vậy.
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại phát sinh trong tai nạn giao thông

Tóm tắt Quyết định số 23/DS-GĐT ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao:

Trước khi có tai nạn, anh Bình chạy xe đạp không đúng làn đường. Và ông
Dũng điều khiển xe cơ giới không làm chủ được tốc độ và an toàn nên đã để xe máy
va chạm với xe đạp và kéo xe đạp của anh Bình đi 5 đến 6m. Anh Khoa khi điều
khiển ô tô (ông Khánh là chủ sở hữu ô tô) đã thấy được diễn biến trên nhưng do
không làm chủ được tốc độ nên đã để xe của mình chèn qua xe đạp của anh Bình
sau khi xe ông Dũng va quẹt với xe của anh Bình và kéo đi được gần 20m. Tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ông Dũng và
anh Khoa đều có lỗi gây ra tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình (lỗi chính) và
xem xét buộc ông Dũng và ông Khánh bồi thường thiệt hại toàn bộ. Tòa giám đốc
thẩm xét thấy Tòa sơ thẩm và phúc thẩm nhận định lỗi của cả 3 người là không
đúng, về trách nhiệm bồi thường Tòa buộc ông Dũng và ông Khánh bồi thường cho
anh Bình.

Tóm tắt Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006 của Tòa hình sự Tòa án
nhân dân tối cao:
Bị cáo: Nguyễn Thị Tuyết Trinh

Bị hại: Nguyễn Thị Giỏi (đã chết)

Bị đơn dân sự: Nguyễn Văn Giang

Nội dung vụ việc: Ngày 20/3/2005, Nguyễn Thị Tuyết Trinh nhờ Nguyễn
Văn Giang điều khiển xe mô tô (do ông Dương Văn Mướt đứng tên chủ sở hữu xe)
chở bà Phạm Thị Phê và bà Phạm Thị Huôi về nhà. Nguyễn Văn Giang lấy xe chở
bà Phê và bà Huôi đi được khoảng 1km thì đâm vào bà Nguyễn Thị Giỏi đang đi bộ
qua đường khiến bà Giỏi bị chấn thương sọ não và chết trên đường đi cấp cứu.

Hướng giải quyết của Tòa án: Buộc người giao nguồn nguy hiểm cao độ (xe
mô tô) cho ông Giang sử dụng trái pháp luật là bà Trinh phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại (Điều 601).

2.1. Thay đổi về các quy định liên quan tới Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015?
BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 có những thay đổi căn bản liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về vị trí: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
được quy định tại Điều 623 BLDS năm 2005, đối với BLDS năm 2015 được quy
định tại Điều 601.

Thứ hai giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 có hai thay đổi khác biệt:

Đầu tiên, tại khoản 3 và khoản 4 Điều 623 BLDS năm 2005 liệt kê hai chủ
thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là "chủ sở hữu" và "người được chủ
sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ". Thay vào đó, tại khoản
3 và khoản 4 Điều 601 BLDS năm 2015 đã thay thế chủ thể người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ " thành " người chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ". Với hướng sửa đổi này, BLDS năm 2015 đã bao
quát hết được những trường hợp bồi thường, mở rộng chủ thể liên đới chịu trách
nhiệm bồi thường, bảo vệ tốt quyền và lợi ích của người bị thiệt hại, và việc sửa đổi
này là một bước luật hóa hướng giải quyết của thực tiễn xét xử.

Cuối cùng, ngoài thay đổi về mặt chủ thể thì tại khoản 4 Điều 623 BLDS
năm 2005 và khoản 4 Điều 601 BLDS năm 2015 khác nhau ở từ "cũng" (quy định ở
BLDS năm 2015 đã bỏ từ "cũng"). Sự thay đổi này là hợp lý, vì không cần thiết
phải chứng minh chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng "cũng" có lỗi mà chỉ cần
chứng minh họ có lỗi là đủ; bên cạnh đó, hướng thay đổi trên còn phù hợp với thực
tiễn xét xử.

2.2. Xe máy, ô tô có là nguồn nguy hiểm cao độ không? Vì sao?

Xe máy, ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo khoản 1 Điều 601 BLDS năm
2015 thì “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật
quy định”. Và theo Khoản 18 Điều 3 của Luật giao thông đường bộ 2008 thì
“Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô;
máy kéo, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo xe mô tô hai
bánh xe ô tô ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự”.

2.3. Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do
hành vi của con người gây ra? Vì sao?
Trong hai vụ việc trên, thiệt hại được cả 2 tòa xác định là do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra

Trích Quyết định số 23/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc chủ phương tiện là ông Khánh bồi thường
cho anh Bình là đúng nhưng lại áp dụng khoản 3, Điều 627 là không chính xác, mà
phải áp dụng khoản 2 Điều 627 Bộ Luật Dân sự mới đúng”. Theo đó, Điều 627
BLDS 1995 được áp dụng trong bản án quy định Bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra.

Trích Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006 của Tòa hình sự Tòa
án nhân dân tối cao: “Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều
627 Bộ luật dân sự năm 1995) về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra và hướng dẫn tại điểm b khoản 2 mục III nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/07/2006 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”

Theo quan điểm nhóm em thì thiệt hại trong hai vụ việc trên là do hành vi
của con người gây ra. Vì nếu người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn
tuân thủ quy tắc an toàn giao thông thì sẽ không có tai nạn xảy ra. Thiệt hại phải do
chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại
của nguồn nguy hiểm gây ra.

Quyết định số 23: Thiệt hại do hành vi của con người gây ra. Vì anh Khoa
khi điều khiển ô tô đã phát hiện được xe đạp của anh Bình và xe ông Dũng phía
trước nhưng do không làm chủ được tốc độ và tay lái nên đã để ô tô chèn qua xe
đạp anh Bình. Trong trường hợp này ô tô là phương tiện còn người điều khiển sử
dụng gây thiệt hại.

Quyết định số 30: Thiệt hại do hành vi của con người gây ra, đó là hành vi
điều khiển xe moto của Nguyễn Văn Giang. Xe moto trong tình huống này là
phương tiện còn người điều khiển sử dụng gây thiệt hại.

2.4. Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng
các quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra?

Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2/2/2005: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc
chủ phương tiện là ông Khánh bồi thường cho anh Bình là đúng, nhưng lại áp dụng
khoản 3, Điều 627 là không chính xác, mà phải áp dụng khoản 2, Điều 627 Bộ luật
Dân sự mới đúng. Đồng thời, Tòa án các cấp không dành cho ông Khánh quyền
khởi kiện yêu cầu anh Khoa bồi thường cho ông Khánh số tiền mà ông bồi thường
cho anh Bình do lỗi của anh Khoa, nếu ông Khánh và ông Khoa không tự thương
lượng giải quyết được là không đảm bảo quyền lợi cho ông Khánh.”

Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006: “Về trách nhiệm dân sự


của Nguyễn Văn Giang: Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005
(Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 1995) về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra và hướng dẫn tại điểm b khoản 2 mục III Nghị quyết số 03/2006/NQ-
HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì “Trong trường
hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ không đúng quy định của pháp luật thì chủ sở hữu phải bồi
thường thiệt hại”.

2.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Việc Toà giám đốc thẩm cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được
yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải bồi hoàn khoản
tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp lý. Nó giúp bảo vệ
quyền lợi và lợi ích cho chủ sở hữu do họ không phải là người có lỗi gây ra tai nạn.
Trong trường hợp này anh Khoa là người làm công cho ông Khánh và anh Khoa có
lỗi gây ra thiệt hại cho anh Bình. Căn cứ điều 600 BLDS năm 2015 về trách nhiệm
bồi thường của người làm công thì ông Khánh có quyền yêu cầu anh Khoa bồi hoàn
lại số tiền mà ông đã bồi thường cho anh Bình. Ở góc độ văn bản, việc Tòa án vận
dụng các quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra là chưa thuyết phục. Chế định “bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra” được áp dụng khi thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ở đây,
việc gây thiệt hại không phải do hành vi có lỗi của con người mà hoàn toàn do sự
hoạt động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ. Xét từ góc độ thực tiễn, cứ nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra thì chủ sở hữu phải bồi thường mà không xem xét ai đang
chiếm giữ sử dụng khi hậu quả xảy ra là không chính xác (như trong các vụ tai nạn
giao thông, chủ xe phải bồi thường - không bảo vệ quyền và lợi ích của chủ sở hữu).
Thực tế việc áp dụng này có một hệ quả quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho
nạn nhân. Do đó, nếu xét từ góc độ văn bản, thực tiễn xét xử là không thuyết phục
nhưng nhìn từ góc độ hệ quả của việc áp dụng thì đây là hướng giải quyết đáng
được khích lệ.
2.6. Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi
thường thiệt hại?

Đoạn cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại nằm tại phần XÉT
THẤY: “Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 627 Bộ luật
Dân sự năm 1995) về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và
hướng dẫn tại điểm b khoản 2 mục III nghị quyết số 03/2006/NQ - HĐTP ngày
08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “Trong trường
hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ không đúng quy định của pháp luật thì chủ sở hữu phải
bồi thường thiệt hại”. Trinh giao nguồn nguy hiểm cao độ (xe mô tô) cho Giang sử
dụng trái pháp luật, do đó Trinh là người có trách nhiệm bồi thường khi thiệt hại
xảy ra.”

2.7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại.

Theo Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005 và hướng dẫn tại điểm b khoản 2 mục
III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao: “Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt
hại”. Trong trường hợp này bà Trinh đã giao xe mô tô cho Giang là người không đủ
điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. Do đó bà Trinh phải liên
đới bồi thường thiệt hại còn việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường toàn bộ thiệt hại
là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.

2.8. Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tòa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại không? Vì sao?

Trên cơ sở Điều 604 Bộ luật Dân sự 2005, Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015,
Tòa án có thể buộc Giang bồi thường thiệt hại, vì hành vi của Giang có đủ những
yếu tố làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:

- Có thiệt hại xảy ra: bà Giỏi bị chấn thương sọ não và chết trên đường đi cấp cứu.
- Có hành vi trái pháp luật: chưa đủ điều kiện điều khiển xe mô tô, chở quá số người
quy định, hành vi điều khiển xe mô tô đâm vào người đang đi bộ qua đường

- Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật: hành vi
điều khiển xe mô tô đâm vào người qua đường và dẫn đến cái chết cho bà Giỏi.

- Người gây thiệt hại là Giang cũng có lỗi vô ý khi gây thiệt hại cho bà Giỏi.

2.9. Theo Nghị quyết số 03 và 02, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi
thường không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP quy định thì tại điểm 2.2 mục 2
phần II và Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP quy định tại khoản 2 Điều 8: “Chi phí
hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần
thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi
khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...”.
Do vậy không được bồi thường chi phí xây và chi phí chụp ảnh.

2.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tòa
giám đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh.

Theo em, hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Toà giám đốc thẩm
liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh là hợp lý. Vì theo quy định của pháp luật
tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP: “2. Chi phí hợp lý cho việc mai
táng đối với các khoản tiền: mua quan tài; chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng
cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản
chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong tục, tập
quán địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn
uống, xây mộ, bốc mộ”. Tuy nhiên, trong thực tiễn, chi phí xây mộ và chụp ảnh nếu
bên bị hại yêu cầu bồi thường hợp lý hoặc bên bị cáo tự nguyện bồi thường thì Toà
án có thể xem xét được nhận bồi thường để đảm bảo quyền lợi của người bị hại.

2.11. Trong Quyết định số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?

Trong quyết định số 23, đoạn cho thấy Bình là người bị thiệt hại: “Vì vậy,
Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ông
Dũng và anh Khoa cũng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh
Bình".

2.12. Ông Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình không? Vì sao?
Ông Khánh không trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình. Vì anh Khoa là
người điều khiển ô tô gây ra tai nạn, ông Khánh chỉ là chủ sở hữu phương tiện đã
giao tài sản cho anh Khoa sử dụng chứ không phải là người điều khiển phương tiện
gây ra thiệt hại.

2.13. Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì sao?

Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách là chủ phương
tiện. Vì căn cứ theo khoản 2 Điều 601 BLDS 2015 thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ này gây ra.

2.14. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh
Bình?

Việc Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho ông Bình là hợp lý, nếu anh
Khoa là người được ông Khánh thuê lái xe ô tô và được trả tiền công. Trong Quyết
định số 23, Tòa án dân sự không nêu rõ mối quan hệ giữa ông Khánh và anh Khoa
mà chỉ cho biết ông Khánh là chủ sở hữu chiếc xe ô tô gây tai nạn. Như vậy, có hai
khả năng có thể xảy ra: Anh Khoa là người làm công của ông Khánh hoặc anh Khoa
là người được ông Bình giao xe ô tô qua hợp đồng thuê tài sản. Nếu anh Khoa là
người làm công cho ông Khánh, anh Khoa không phải là người chiếm hữu, sử dụng
ô tô đó mà ông Khánh vẫn chiếm hữu, sử dụng. Do đó, ông Khánh phải bồi thường.
Ngược lại, nếu anh Khoa được ông Khánh giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài
sản, có nghĩa là ông Khánh không chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà anh Khoa là
người được ông Khánh giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp. Do đó, anh Khoa phải
bồi thường thiệt hại.

2.15. Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời?

Bình có lỗi trong việc để phát sinh thiệt hại. Đoạn thể hiện cho câu trả lời:
“Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh
Bình, ông Dũng và anh Khoa cùng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho
anh Bình là có cơ sở đúng pháp luật".

2.16. Đoạn nào cho thấy, Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng
và ông Khánh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Bình?

Đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng và ông
Khánh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Bình:“Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ông Dũng và anh Khoa
cùng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình (trong đó anh Bình
có lỗi chính) là có cơ sở đúng pháp luật. Đồng thời cấp phúc thẩm xác định tổng số
thiệt hại của anh Bình là 13.095.418 đồng là có căn cứ. Nhưng lại buộc ông Dũng
và ông Khánh bồi thường toàn bộ, mà không xem xét đến trách nhiệm của anh Bình
là không chính xác”.

2.17. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm?

Theo em hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm hoàn toàn hợp lí. Căn cứ
vào phần Xét thấy có thể thấy rằng tuy anh Bình là người bị thiệt hại nhưng anh
cũng là nguồn nguyên nhân chính gây ra thiệt hại. Việc anh buộc ông Dũng Và ông
Khánh phải bồi thường toàn bộ thiệt hại mà không xét lỗi của anh là không hợp lí.
Có thể thấy nguyên nhân gây tai nạn ban đầu là do anh Bình đi xe đạp vào làn dành
cho xe cơ giới và khi nghe tiếng còi ô tô anh đã lái qua bên trái nên phải chịu một
phần trách nhiệm. Về phía ông Dũng, do không làm chủ được tốc độ, không giữ
khoảng cách an toàn khi tránh vượt dẫn đến va chạm với xe đạp nên có thể coi ông
là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại. Theo Quyết định có thấy anh Khoa do không
giữ khoảng cách an toàn với hai người trên nên đã tiếp tục gây ra tai nạn, nhưng chủ
xe lại là ông Khánh, dù không trực tiếp gây ra tai nạn nhưng vẫn phải bồi thường
theo luật định. Vì xét thấy vụ việc trên có phần lỗi do anh Bình nên không thể buộc
ông Dũng và ông Khánh bồi thường toàn bộ, dựa vào Điều 587 BLDS năm 2015 về
Bồi thường thiệt hại do nhiều người gây ra thì: “Trường hợp nhiều người cùng gây
thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với
mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi
thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”, do đó, ông Khánh Và ông Dũng chỉ cần bồi
thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của họ gây ra.

2.18. BLDS và Nghị quyết số 03 và 02 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không?

Bộ luật Dân sự và Nghị quyết số 03 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu cho người bị thiệt hại.

Khoản 2 Điều 601 BLDS năm 2015 có quy định như sau:
“2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm gây cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì
người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Điều 12 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP và Điểm b Khoản 2 Mục 3 Nghị quyết


số 03/2006 /NQ-HĐTP cũng có quy định như sau:

“Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được
giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội
hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường”

Căn cứ vào những Điều trên có thể hiểu trong trường hợp chủ sở hữu đã giao
quyền cho người khác sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì nếu người sử dụng gây
ra thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chứ không liên quan đến
chủ sở hữu nữa trừ khi có thỏa thuận khác. Trường hợp có thỏa thuận khác như
người sử dụng đã cam kết không đền bù bất kì khoản tiền nào nếu thiệt hại xảy ra
thì khi xảy ra thiệt hại mọi trách nhiệm sẽ thuộc về chủ sở hữu.

2.19. Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không? Đoạn
nào của quyết định cho câu trả lời
Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
thường hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại. Đoạn cho
thấy câu trả lời là: “Tòa án các cấp không dành cho ông Khánh quyền khởi kiện yêu
cầu anh Khoa bồi thường cho ông Khánh số tiền mà ông bồi thường cho anh Bình
do lỗi của anh Khoa,nếu ông Khánh và ông Khoa không tự thương lượng giải quyết
được là không đảm bảo quyền lợi cho ông Khánh.”

2.20. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị
thiệt hại?
Việc Tòa giám đốc thẩm cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được
yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải bồi hoàn khoản
tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp lí. Dựa vào Khoản 2
Điều 601 BLDS năm 2015 như sau:

“2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm gây cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì
người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ trong
trường hợp họ không trực tiếp gây ra thiệt hại mà vẫn phải bồi thường. Dù vậy, để
tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc do sự thiếu trách nhiệm của chủ sở hữu thì
ở Khoản 4 Điều 601 BLDS năm 2015 đã quy định:

“4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì
người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi
thường thiệt hại.

Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong
việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên
đới bồi thường thiệt hại”.
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại trong hay ngoài hợp đồng

Tóm tắt Quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/6/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao:

Ông Đào Văn Nghinh (nguyên đơn) vay ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Yên Đỗ (Bị đơn) số tiền 2 tỷ đồng. Sau khi tới thời hạn vay, ông
Nghinh đã không trả được nợ, ngân hàng đã tổ chức bán đấu giá ngôi nhà mà ông
Nghinh cầm cố. Nay ông Nghinh khởi kiện yêu cầu ngân hàng bồi thường cho ông
giá trị quyền sử dụng đất và giá trị ngôi nhà là 200 triệu đồng. Tòa sơ thẩm đã xác
định đây là yêu cầu “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” và ra quyết định đình
chỉ. Tòa cấp phúc thẩm xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng dân sự” và giữ
nguyên quyết định đình chỉ. Ông Nghi có đơn kháng cáo và yêu cầu thủ tục Giám
đốc thẩm, Tòa giám đốc thẩm cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ
pháp luật là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là đúng. Tòa án cấp
phúc thẩm lại xác định “Tranh chấp về hợp đồng dân sự” là sai và việc đình chỉ của
Tòa án các cấp do hết thời hiệu khởi kiện là sai. Toà án quyết định giao lại hồ sơ vụ
án cho Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia lai xét xử lại.

Tóm tắt Bản án số 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh:

Bệnh viện Đại học Y Dược đã tiến hành phẫu thuật môi phải cho chồng của
nguyên đơn, sau đó bệnh nhân được chuyển sang bệnh viện chợ rẫy và mất tại đó.
Bà Võ Thị Yến Phi (Nguyên đơn) khởi kiện yêu cầu Bệnh viện Đại học y dược bồi thường
thiệt hại cho cái chết của chồng bà. Về phía bệnh viện thì cho rằng bệnh viện không có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì cái chết của chồng bà không phải do lỗi của
bệnh viện. Tòa phúc thẩm đã nhận định nguyên nhân gây tử vong cho ông Bá không
phải do lỗi của bác sĩ và ekip phẫu thuật bệnh viện Đại học y dược và về phía bà Phi
không chứng minh được hành vi trái pháp luật của những người thực hiện ca phẫu
thuật đó mà theo những điều kiện được quy định tại Điều 604 BLDS 2005. Như vậy những
người trực tiếp chữa trị cho bệnh nhân Bá hoàn toàn không có lỗi, mà theo quy định
của pháp luật không có lỗi của người gây thiệt hại thì không có cơ sở để giải quyết
việc bồi thường. Do đó căn cứ theo khoản 1 Điều 132, khoản 2 Điều 275 Bộ luật Tố
tụng Dân sự và nghị định 70/CP ngày 12/06/1997, Tòa đã không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà Phi.
3.1. Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?

Tiêu chí BTTH TRONG HỢP ĐỒNG BTTH NGOÀI HỢP ĐỒNG

Thứ nhất: Được xây dựng bởi các Phát sinh tồn tại một hành vi vi
quy phạm điều chỉnh chế định hợp phạm pháp luật dân sự, cố ý
đồng. hay vô ý gây thiệt hại cho
Căn cứ phát
Thứ hai: Chỉ tồn tại khi hợp đồng người khác và hành vi này cũng
sinh
tồn tại, trách nhiệm này phát sinh
không liên quan đến bất cứ một
khi xuất hiên sự vi phạm một hay
hợp đồng nào có thể có giữa
nhiều nghĩa vụ được quy định
người gây thiệt hại và người
trong hợp đồng.
thiệt hại.

Thiệt hại xảy ra không phải là Bao gồm 3 điều kiện:


điều kiện bắt buộc, chỉ cần có - Hành vi vi phạm pháp luật
hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự - Có thiệt hại thực tế,
Căn cứ xác
thì phải chịu trách nhiệm bồi - Có mối quan hệ nhân quả
định chủ thể
thường.
giữa hành vi trái pháp luật và
thực tế.

Chỉ áp dụng với các bên tham Người chịu trách nhiệm là
gia hợp đồng và không áp dụng người người có hành vi trái
Trách nhiệm
trách nhiệm liên đới đối với pháp luật, hoặc người khác như
liên đới người thứ ba. cha, mẹ của người chưa thành
niên, người giám hộ, pháp
nhân, đối với người giám hộ
của pháp nhân...
- Mức bồi thường có thể thấp - Bồi thường toàn bộ thiệt hại
hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra, mức bồi thường thiệt
xảy ra. hại chỉ có thể được giảm trong
- Các bên có thể thỏa thuận những trường hợp đặc biệt
mức bồi thường hay phạt vi (Trường hợp: Người gây thiệt
phạm kể từ khi giao kết hợp hại có lỗi cố ý hoặc vô ý và
đồng. thiệt hại xảy ra quá lớn so với
Phương thức
khả năng kinh tế trước mắt và
bồi thường
lâu dài của họ).
- Bên gây thiệt hại phải bồi
thường kịp thời và toàn bộ. Các
bên có thể thỏa thuận về mức
bồi thường và hình thức nhiều
lần, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.

3.2. Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và
bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?

Đối với Quyết định số 451/2011/DS-GĐT : Có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa
bên bị thiệt hại là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Đỗ và ông
Nghinh. Cụ thể: tại phần XÉT THẤY: “Ngày 26/10/1994, ông Đào Văn Nghinh
(Đào Thanh Minh) được Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Gia
Lai-chi nhánh Yên Đỗ duyệt cho vay số tiền là 2.000.000 đồng với lãi suất
2,5%/tháng, thời hạn vay là 08 tháng thời hạn trả cuối cùng là 22/6/1995, ông
Nghinh đã thế chấp cho Ngân hàng căn nhà tại 13, phường Yên Đỗ, thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai để đảm bảo việc trả nợ”. Đây là hợp đồng vay giữa các bên vì
vậy tồn tại quan hệ trong hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và bên bị thiệt hại.

Đối với Bản án số 750/2008/DSPT : Không tồn tại quan hệ hợp đồng, tại
phần XÉT THẤY: “Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố. Phải có
thiệt hại xảy ra; Phải có hành vi trái pháp luật; Phải có mối quan hệ nhân quả giữa
thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật gây thiệt; Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của
người gây thiệt hại…Như vậy những người trực tiếp chữa trị cho bệnh nhân Bá
hoàn toàn không có lỗi, mà theo quy định của pháp luật không có lỗi của người gây
thiệt hại thì không có cơ sở để giải quyết việc bồi thường”.
Ở đây không tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và bên bị yêu cầu bồi
thường thiệt hại vì Đại học Y dược và gia đình bệnh nhân cũng như bệnh nhân
không có kí kết bất kì hợp đồng thoả thuận từ trước.

3.3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?

Quyết định số 451/2011/DS-GĐT : Tòa án đã hướng theo quan hệ giữa các


bên là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại phần XÉT THẤY: “Tòa án cấp sơ
thẩm đã xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” là đúng. Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định “Tranh chấp về hợp đồng dân sự”
là sai.

Bản án số 750/2008/DSPT : Tòa án hướng theo bồi thiệt hại ngoài hợp đồng,
tại phần XÉT THẤY: “Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố. Phải có thiệt
hại xảy ra; Phải có hành vi trái pháp luật; Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt
hại xảy ra và hành vi trái pháp luật gây thiệt; Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người
gây thiệt hại…Như vậynhững người trực tiếp chữa trị cho bệnh nhân Bá hoàn toàn
không có lỗi, mà theo quy định của pháp luật không có lỗi của người gây thiệt hại
thì không có cơ sở để giải quyết việc bồi thường…Từ những cơ sở phân tích nêu
trên thì yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Yến Phi là không có cơ sở để chấp nhận”.

3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên
về vấn đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi
thường giữa các bên?

Đối với Quyết định số 451/2011/DS-GĐT, hướng giải quyết của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao là chưa hợp lý vì trên thực tế nhìn vào tình tiết vụ việc thì
giữa ông Nghi và ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Đỗ có kí kết
xác lập hợp đồng cho vay có thế chấp nên không thể xác đây là tranh chấp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà phải là tranh chấp phát sinh trong hợp đồng dân
sự theo hướng của Tòa cấp phúc thẩm mới hợp lý và đảm bảo được tối đa quyền lợi
cho các bên đương sự.

Đối với Bản án số 750/2008/DSPT, hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm là
hợp lý vì trên thực tế không có bản hợp đồng nào được giao kết giữa ông Bá và
bệnh viện Đại học Y Dược khi thực hiện phẫu thuật nên không thể xác định đây là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Đồng thời ở thời điểm BLDS 2005
vẫn còn hiệu lực, yêu cầu yếu tố lỗi thì bên bệnh viện và ekip phẫu thuật không có
lỗi theo Biên bản Hội đồng chuyên môn Bộ y tế xem xét bổ sung kết luận nguyên
nhân tử vong và về phía bà Phi cũng không chứng minh được hành vi trái pháp luật
của bệnh viện nên không thể nào làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của bệnh viện Đại học Y dược.
Vấn đề 4: Buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ

Tóm tắt quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Toà kinh tế Tòa
án nhân dân tối cao:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương

Bị đơn: Công ty TNHH DAMOOL VINA

Nội dung vụ án: Giữa nguyên đơn và bị đơn có ký kết Hợp đồng nguyên tắc
số 007 nhằm bảo đảm cho việc ký kết hợp đồng chính. Do hai bên không đạt được
thoả thuận cần thiết để ký kết hợp đồng chính thức, nguyên đơn đã khởi kiện yêu
cầu bị đơn thực hiện biện pháp đền bù cho hợp đồng chính và bị đơn cũng chấp
nhận chịu phạt 5% giá trị hợp đồng như thoả thuận là 290.000USD x 5% =
14.500USD. Nhưng Toà án địa phương lại buộc bị đơn vừa đền bù hợp đồng vừa
tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Hướng giải quyết của Tòa án: Huỷ Bản án kinh doanh, thương mại phúc
thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương và giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân
dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm lại.

Tóm tắt bản án số 418/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân quận
10, Tp. Hồ Chí Minh:

Nguyên đơn: Ông Trương Khắc V (ông V) và bà Nguyễn Thị Thanh T (bà T)

Bị đơn: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển địa ốc K (Công ty K)

Nội dung vụ án: Ngày 17/9/2012 nguyên đơn ký kết với bị đơn hợp đồng
mua bán căn hộ với thời hạn bàn giao dự kiến vào quý IV năm 2013 nhưng không
trễ quá 3 tháng. Nếu Công ty K bàn giao căn hộ chậm hơn thời hạn đã thỏa thuận
trong hợp đồng thì phải trả lãi cho nguyên đơn, áp dụng lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12
tháng của ngân hàng Vietcombank. Đến ngày 1/4/2014, ông V và bà T đã thanh toán
tiền mua căn hộ cho công ty K là 477.293.956 đồng. Tuy nhiên, đến ngày
24/12/2015 Công ty K mới bàn giao căn hộ cho phía nguyên đơn và vẫn chưa làm
thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn
hộ cho ông T và bà V. Ngày 28/2/2017 ông V, bà T khởi kiện Công ty K về việc trả
số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ bàn giao căn hộ.

Hướng giải quyết của Tòa: Chấp nhận cho nguyên đơn rút một phần yêu cầu
khởi kiện về yêu cầu bồi thường chi phí thuê nhà là 160.000.000 đồng và số tiền lãi
là 88.391.250 đồng dựa trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật không trái đạo
đức xã hội. Buộc Công ty K phải tiến hành các thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho nguyên đơn. Đồng thời, Tòa
yêu cầu nguyên đơn trả nợ trả hết số nợ là 39.830.659 đồng cho bị đơn sau khi được
cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ.

4.1. Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa
phương đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?

Đoạn thứ 3, trang thứ 2 của phần nhận thấy trong Quyết định số 36 cho thấy
Toà án địa phương đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng: “Tại Bản án
kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 27/8/2010, Toà án
nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định: “… 2. Buộc Công ty
TNHH Damool VINA tiếp tục thực hiện hợp đồng số 007/09/DMVN-HHDT ngày
10/10/2009 giữa công ty TNHH Damool VINA với công ty cổ phần Hồng Hà Bình
Dương.””.

4.2. Hướng của Tòa án địa phương có được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Đoạn thứ 2 ở phần xét thấy, cho biết Toà án nhân dân tối cao chấp nhận
hướng của Toà án địa phương: “Công ty Hồng Hà Bình Dương khởi kiện yêu cầu
buộc Công ty VINA nếu không thực hiện theo cam kết tại hợi đồng nguyên tắc số
007 thì phải thanh toán cho Công ty Hồng Hà Bình Dương tiền phạt theo thỏa
thuận tại hợp đồng là 290.000USD x 5% = 14.500USD. Trước và trong quá trình
giải quyết vụ án, Công ty VINA đều từ chối việc thực hiện hợp đồng nguyên tắc số
007 và đồng ý chịu phạt 5% giá trị hợp đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
cấp phúc thẩm buộc Công ty Hồng Hà Bình Dương và Công ty VINA tiếp tục thực
hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 là không đúng.”.

4.3. Vì sao Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết
định cho câu trả lời?

Toà án nhân dân tối cao theo hướng trên vì trong quá trình thực hiện Hợp
đồng nguyên tắc số 007 để tiến đến thực hiện hợp đồng chính thì bị đơn đã có thông
báo ngừng ký kết hợp đồng với nguyên đơn và chấp nhận bồi thường theo thoả
thuận ban đầu là 5% tương đương 14.500USD. Trong khi đó, Toà địa phương vẫn
muốn hai bên tiếp tục thực hiện hợp đồng chính.
Đoạn trong Quyết định: “…Trước và trong quá trình giải quyết vụ án, Công
ty VINA đều từ chối việc thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 và đồng ý chịu phạt
5% giá trị hợp đồng. Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc
Công ty Hồng Hà Bình Dương và Công ty VINA tiếp tục thực hiện Hợp đồng
nguyên tắc số 007 là không đúng.”.

4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao?

Hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý. Trong
quá trình ký kết hợp đồng chính thì hai bên đã có xác lập Hợp đồng nguyên tắc số
007 để bảo đảm thực hiện, nhưng cả hai đều không đạt được thỏa thuận chung nên
phía bị đơn đã có thông báo không tiếp tục ký kết hợp đồng với nguyên đơn và chấp
nhận đền bù tổn thất trong giao kết Hợp đồng nguyên tắc số 007.

4.5. Đối với vụ việc trong Bản án số 418, Công ty K có nghĩa vụ làm thủ tục để
cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì sao?

Đối với vụ việc trong bản án, Công ty K có nghĩa vụ làm thủ tục Giấy chứng
nhận cho người mua nhà chung cư:

- Theo quy định tại mục 5.7 Điều 5 của Hợp đồng mua bán số:0110/002T02-
K1GV/HĐMB ngày 17/9/2012 quy định: “Bên A (Công ty K) có nghĩa vụ hướng
dẫn bên B (nguyên đơn) thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến việc xác lập
quyền sở hữu căn hộ. Sau khi hoàn thành công trình bên A (Công ty K) phải bàn
giao Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho bên B (nguyên đơn) ngay khi được
324 4 cơ quan chức năng cấp”.

- Theo quy định tại khoản 4 Điều 13 Luật kinh doanh bất động sản có quy định về
trách nhiệm của chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản như sau:“Trong thời hạn
50 ngày kể từ ngày bàn giao nhà, công trình xây dựng cho người mua hoặc kể từ
ngày hết hạn thuê mua thì phải làm thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất cho bên mua, bên thuê mua, trừ trường hợp bên mua, bên thuê mua có văn
bản đề nghị tự làm thủ tục cấp giấy chứng nhận”.

4.6. Nghĩa vụ làm thủ tục trên đã bị vi phạm chưa và Tòa án có buộc Công ty K
tiếp tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư
không? Vì sao?

Ở phần xét thấy đoạn “Ngày 24/12/2015 Công ty K đã bàn giao căn hộ cho
ông V, bà T nhưng cho đến nay Công ty K vẫn không tiến hành các thủ tục để cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho
nguyên đơn.” cho thấy Công ty K đã vi phạm quy định tại mục 5.7 Điều 5 của Hợp
đồng mua bán số: 0110/002T02-K1GV/HĐMB ngày 17/9/2012. Ngoài ra, Công ty
K cũng vi phạm khoản 4 Điều 13 Luật kinh doanh bất động sản qua đoạn “tại thời
điểm Công ty K bàn giao căn hộ cho nguyên đơn đến nay đã quá 50 ngày và
nguyên đơn không có văn bản đề nghị tự làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu căn hộ nhưng Công ty K vẫn chưa làm thủ tục để cơ quan Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho nguyên đơn là Công ty K vi phạm quy
định nói trên của Luật kinh doanh bất động sản.”

Ở phần quyết định tại đoạn “Buộc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển địa
ốc K có nghĩa vụ làm thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho
nguyên đơn ông Trương Khắc V, Bà Nguyễn Thị Thanh T đối với căn hộ số 00, tầng
0, khối Z thuộc dự án Cụm Cao ốc K – tại đường Q, Phường X, quận G, Thành phố
Hồ Chí Minh” Tòa án buộc Công ty K tiếp làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho
người mua nhà chung cư.

4.7. Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc Công ty K tiếp
tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không?
Nêu rõ cơ sở văn bản khi trả lời?

Tại khoản 4 Điều 13 Luật kinh doanh bất động sản 2014:“Trong thời hạn 50
ngày kể từ ngày bàn giao nhà, công trình xây dựng cho người mua hoặc kể từ ngày
hết hạn thuê mua thì phải làm thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
cho bên mua, bên thuê mua, trừ trường hợp bên mua, bên thuê mua có văn bản đề
nghị tự làm thủ tục cấp giấy chứng nhận”. Ngoài ra tại Điều 352 Bộ luật Dân sự
2015 về trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ:“Khiên có nghĩa vụ thực hiện
không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ”.

4.8. Cho biết những cơ chế để việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hiệu quả
trong thực tế?

Buộc thực hiện hợp đồng bằng chế tài: quy định tại khoản 01 Điều 358 Bộ
luật Dân sự 2015 quy định “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công
việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp
tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao người khác thực hiện công việc đó
và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường thiệt hại.”

Phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận tại Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015.

Bồi thường thiệt hại theo khoản 3 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều
419 Bộ luật Dân sự 2015.

Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng, miễn trách nhiệm do vi phạm hiệu
lực hợp đồng: Có thể theo thỏa thuận hoặc pháp luật định (Điều 294 Luật Thương
mại 2005).
Vấn đề 5: Tìm kiếm tài liệu

Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ
đầu năm 2020 đến nay (ít nhất 20 bài).

1. Phan Hoài Nam, “Xác định pháp luật áp dụng cho việc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2022, tr 41 - 48.

2. Nguyễn Viết Xuân, “Một số ý kiến về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra”, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 21/2020, tr 20 - 26.

3. Đỗ Giang Nam - Đào Trọng Khôi, “Pháp luật bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trước thách thức của trí tuệ nhân tạo và công nghệ
số mới nổi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20(468)/2020.

4. Huỳnh Thị Kim Thoa - Đặng Thị Kim Tho, “Vai trò lỗi của người
bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”,
Tạp chí Nghề luật, số 8/2023, tr 10 - 17.

5. Hoàng Đình Dũng, “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Luật sư Việt
Nam, số 6/2020, tr 3 - 5.

6. Phạm Quang Tiến, “Trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Nghề luật, số 11/2022, tr 24 - 30.

7. Dương Quỳnh Hoa, “Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”, Tạp chí Kiểm sát, số 13/2020, tr. 36 - 43.

8. Lâm Văn Minh - Phùng Thu Phương - Nguyễn Thị Lan Hương,
“Hoàn thiện quy định của pháp luật về điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Kiểm sát, số
06/2023, tr 44 - 49.

9. Phạm Hồng Quang, “Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm”, Tạp chí Nghề luật, số 9/2023, tr 20 - 24.
10. Huỳnh Thị Nam Hải - Ngô Trần Hiếu Quỳnh - Guillemette
Marraud Des Grottes, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cha, mẹ đối với thiệt hại do con chưa thành niên gây ra
theo quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp và một số gợi ý cho
Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2023, tr 50 - 57.

11. Nguyễn Thị Phương Châm, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra từ góc nhìn pháp luật so sánh”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5/2020, tr 24 - 31.

12. Nguyễn Phương Thảo, “Vai trò “người gác cổng” và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của tổ chức bảo lãnh phát
hành”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 3(360)/2022, tr 36 - 42.

13. Đàm Hải Thao, “Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong tình thế cấp thiết”, Tạp chí Kiểm sát, số 23/2020, tr 24 -
27.

14. Phạm Quang Tiến, “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của cá nhân trong pháp luật dân sự hiện hành”, Tạp
chí Dân chủ & Pháp luật, số 376/2023, tr 56 - 60.

15. Nguyễn Văn Hợi, “Căn cứ phát sinh và năng lực chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và
Đức”, Tạp chí Luật học, số 9 (256)/2021, tr 42 - 49.

16. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của cơ sở bán lẻ rượu bia với việc hạn chế tai nạn giao
thông do sử dụng rượu bia”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02
(37)/2020, tr 41- 46.

17. Lê Thị Hồng Vân, “Quy định về thiệt hại được bồi thường do hàng
hóa không đảm bảo chất lượng gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp
chí khoa học pháp lý Việt Nam, số 01(161)/2023, tr 25 - 37.

18. Trần Thị Anh Thư, “Bàn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người làm công gây ra”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử,
13/2/2022.

19. Lê Văn Quang, “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử , 05/10/2021.
20. Đỗ Văn Đại - Lê Hà Huy Phát, “Thiệt hại được bồi thường khi tính
mạng bị xâm phạm trong pháp luật dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân
dân điện tử, 02/11/2023.

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.

Để biết được những bài viết trên em đã tham khảo các nguồn tin, trang
mạng có tính xác thực cao trên Internet như Opac Ulaw hay website thư viện của
trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh. Trong đó phần lớn bài viết được trích từ
các Tạp chí khoa học Pháp lý Việt Nam (Vietnamese Journal of Legal Sciences)
của trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, các nguồn uy tín như Tạp chí Luật sư
Việt nam của Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam, Tạp chí Luật học của trường Đại học
Luật Hà Nội, Tạp chí Tòa án nhân dân của Cơ quan Tòa án Nhân Dân Tối Cao,...

Ngoài ra, để dễ dàng tiếp cận những bài viết chính thống em sẽ dùng biện
pháp tìm các từ khóa liên quan đến chủ đề cần tìm hiểu, chắt lọc thông tin kĩ càng
để loại trừ các nguồn thông tin xuyên tạc, sai sự thật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản quy phạm pháp luật


1. Bộ Luật Dân sự năm 2005 (Số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.
2. Bộ Luật Dân sự năm 2015 (Số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
3. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

4. Nghị Quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Số 03/2006/NQ-HĐTP) ngày 08/07/2006.
5. Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Số 02/2022/NQ-HĐTP) ngày
06/09/2022.
B. Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Văn Đại & Lê Hà Huy Phát. (2023). Thiệt hại được bồi thường khi tính mạng
bị xâm phạm trong pháp luật dân sự, Tạp chí Kiểm sát số 14/2023.

You might also like