You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
GIẢNG VIÊN: TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI

DANH SÁCH NHÓM 1

STT HỌ TÊN MSSV

1 Đỗ Minh Tường An 2253801090001

2 Trịnh Tuấn Anh 2253801090007

3 Trương Đình Thế Anh 2253801090008

4 Phạm Thị Thu Hằng 2253801090028

5 Võ Nguyễn Gia Hoà 2253801090030

6 Lê Hồ Nguyên Khang 2253801090036

7 Đặng Duy Luân 2253801090046

8 Dương Thanh Ngân 2253801090049

9 Bùi Thanh Nghi 2253801090054


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa


1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 UBND Ủy ban nhân dân
Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020
3 Bản án số 08 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên
tỉnh Vĩnh Phúc.
Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm
4 Án lệ số 16
phán Tòa án nhân dân tối cao
Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020
5 Bản án số 11
của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày
6 Quyết định số 147 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh.
Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm
7 Án lệ số 26 bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu
chia di sản thừa kế là bất động sản.
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................i
Vấn đề 1: Di sản thừa kế.................................................................................................1
1.1. Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................................................................2
1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?............................................. 2
1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá
cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời...................................................................................................................... 4
1.4. Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5 m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?....4
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Toà án trong Bản án số 08 về
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất....................................4
1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N
là bao nhiêu? Vì sao?........................................................................................................ 5
1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?....................................................................... 6
1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện
tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K................................................................ 6
1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không?
Vì sao?.............................................................................................................................. 7
1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?.................................................................................................7
1.11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5 m2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?......... 7
1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5 m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?......... 8
Vấn đề 2: Quản lý di sản.................................................................................................9
2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?..................................10
2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................................... 10
2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................10
2.4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................................11
2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................................................................. 12
2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.........................................................................................................................13
Vấn đề 3: Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế................................................................14
3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam..............................14
3.2. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?...............................................14
3.3. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?........................14
3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?.......................................15
3.5. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên..........................................15
Tìm kiếm tài liệu............................................................................................................16
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về
thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay..16
Yêu cầu 2 : Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên................................19
Danh mục tài liệu tham khảo.........................................................................................ii
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ
Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành
phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Trần Văn Hoà và
bị đơn gồm anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương là con của vợ chồng
nguyên đơn. Tài sản của vợ chồng nguyên đơn gồm: 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường
bao quanh và một lán bán hàng, trên diện tích đất 169,5m2 (trong đó, diện tích được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hòa là 84m2, 85,5m2 còn lại
ông Hòa sử dụng ổn định và không có tranh chấp).
Vụ án có các vấn đề như sau:
Một là tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 3/2018 đến thời điểm xét xử
do ông Hòa đang quản lý.
Hai là tiền cho thuê lán bán hàng của năm 2017, 2018 do chị Hương quản lý.
Ba là anh Nam, chị Hương yêu cầu xác định diện tích đất 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình. Hội đồng xét
xử không chấp nhận ba vấn đề trên.
Nhận định của Toà án về các tranh chấp trên. Trước hết, tài sản được hình
thành trong thời kỳ hôn nhân và nên được chia đôi cho ông Hòa và bà Mai. Bà Mai
chết năm 2017 và không để lại di chúc nên di sản của bà được phân chia theo pháp
luật. Phần thừa kế của bà Mai được chia cho chồng - ông Hòa và 2 con theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 rằng mỗi người được hưởng ⅓.
Bên cạnh đó anh Nam đã đóng góp ½ giá trị để xây dựng nhà. Như vậy, ông Hòa
được chia 1.025.269.083 đồng + 3.075.807.250 đồng giá trị tài sản chung, tổng
cộng là 4.101.076.333 đồng. Anh Nam được chia 1.025.269.083 đồng và
306.050.500 đồng (tiền đóng góp xây nhà), tổng là 1.331.319.583 đồng. Chị Hương
được chia 1.025.269.083 đồng.
Tòa ra quyết định chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hoà. chia số tài sản trị giá
2.220.664.000 đồng cho nguyên đơn; nguyên đơn có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
diện tích đất 38,4m2. Anh Nam được quyền sở hữu 01 nhà 3 tầng, sân tường bao
loan và quyền sử dụng diện tích đất có liên quan; có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế; buộc
thanh toán chênh lệch về tài sản cho nguyên đơn số tiền. Còn về chị Hương, chị
được quyền sỡ hữu số tiền thuê nhà 30.000.000 đồng.

1
Câu 1.1. Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di sản là tài sản của người chết để lại và không bao gồm nghĩa vụ tài sản.
Cơ sở pháp lý: Điều 612 BLDS năm 2015:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác.”
Điều 612, Điều 659 đến Điều 662 BLDS năm 2015 quy định trước khi chia di
sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ mà người chết để lại xong
mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa
vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản
của người chết. Khoản 1 Điều 615 BLDS năm 2015 quy định: “Những người
hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do
người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
“Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân có quyền sở hữu đối với tài
sản có được từ hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh hợp pháp. Với quan điểm
công dân được làm tất cả những vật không cấm, không trái đạo đức xã hội thì mọi
thu nhập được nhà nước bảo hộ và được để lại thừa kế. Mặc dù vậy, pháp luật hiện
hành không quy định di sản thừa kế là các quyền tài sản gắn với nhân thân chẳng
hạn như quyền trợ cấp. Về nguyên tắc, di sản thừa kế là tài sản của người chết để
lại, nó thuộc sở hữu của người chết, tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ là tài
sản có được sau khi một người chết cũng được coi là di sản thừa kế. Ví dụ: Tài sản
mà doanh nghiệp khuyến mãi cho người mua hàng bằng việc bốc thăm, mà lúc mua
thì chưa bốc thăm, sau khi chết mới bốc thăm và trúng thưởng, tiền bảo hiểm, tiền
lãi,...”1. Vì thế, di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố.

Câu 1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Khoản 1 điều 611 BLDS năm 2015 quy định:
“Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án
tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại
khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.
Điều 612 BLDS 2015 quy định:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác”.

1
Lê Minh Hùng (2020), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Đại học Luật TPHCM,
Nxb Hồng Đức, tr.415-416.

2
Do câu hỏi không nêu rõ nguyên nhân tại sao di sản đó bị thay thế, mục đích
thay thế đó là gì nên cần phải chia ra các trường hợp như sau:
Thứ nhất, việc di sản đó được thay thế bởi nguyên nhân khách quan
 Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân con người không biết trước,
không lường trước được hậu quả, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Ví dụ: hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, bão tố hay các thảm họa tự nhiên khác...
 Những yếu tố này tác động vào di sản thừa kế làm cho nó bị hư hỏng và thay
vào đó là di sản mới, di sản cũ không còn giá trị hiện thực. Trường hợp này
để đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế tài sản mới thay thế cho di
sản thừa kế đó sẽ có hiệu lực pháp luật, phần tài sản mới này sẽ được chia
theo pháp luật.

Thứ hai, di sản được thay thế bởi nguyên nhân chủ quan
 Nguyên nhân chủ quan được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố
con người.
 Trường hợp này xác định thay thế vì mục đích gì, đó là nhằm chiếm đoạt
toàn bộ di sản thừa kế cũ đó hay nhằm mục đích khác. Sự thay thế do tự bản
thân cá nhân nào muốn thay thế hay đó là sự thay thế được sự đồng thuận bởi
tất cả những người thừa kế và được pháp luật thừa nhận.
 Nếu nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời
thay thế bởi một tài sản khác khi đó tài sản mới này sẽ không được coi là di
sản thừa kế.
 Tại thời điểm mở thừa kế di sản được quy định còn tồn tại thì di sản đó được
chia theo quy định của pháp luật
 Tuy nhiên,nếu vì lý do chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị
bán mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn
được coi là di sản thừa kế và người làm thất thoát di sản có trách nhiệm trả
lại phần giá trị làm thất thoát để chia thừa kế.
Như vậy để xem xét việc tài sản của người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa
kế được thay thế bởi tài sản mới có phải là di sản hay không thì cần phải xác định
được rõ các yếu tố khách quan, chủ quan dẫn đến việc thay thế đó từ đó mới đi đến
kết luận cụ thể.
Câu 1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

3
Theo Điều 612 BLDS năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Như vậy, để
xem là di sản thì trước đó phải là tài sản của người lúc còn sống. Và để quyền sử
dụng đất trở thành tài sản thì căn cứ theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật đất đai
năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Qua đó phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng đất đó mới
được xem là tài sản.

Câu 1.4. Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của
bán án có câu trả lời?
Trong Bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5𝑚2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản. Ban đầu Viện kiểm sát nhận định và lập
luận rằng phần diện tích này không được coi là di sản thừa kế. Nhưng Hội đồng xét
xử đã không chấp nhận và giải thích rằng: “...nếu không xác định là di sản thừa kế
và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự”.
Đoạn trích của Bản án số 08 cho thấy câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất
tăng 85,5𝑚2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại
diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa
kế, cần tiếp tục tạm giao cho ông Hòa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính
với Nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Đây vẫn là tài sản
của ông Hòa và bà Mai, chỉ có điều là các đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế
đối với nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Phần đề nghị này của
đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Các đề nghị khác
đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ, được Hội đồng xét xử xem xét và
quyết định”.

Câu 1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Toà án trong Bản
án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo nhóm chúng tôi, hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hoàn toàn thuyết phục.

4
Thứ nhất, điểm b tiểu mục 1.3 phần II của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy
định: “Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm
quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết
yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác
định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai”. Tuy
UBND phường Đống Đa chưa có văn bản cho biết rõ là việc sử dụng đất đó có vi
phạm quy hoạch hay không, nhưng theo ông Nguyễn Ngọc Thu đại diện theo pháp
luật của UBND phường Đống Đa trình bày: “Hộ ông Hòa đang sử dụng diện tích
đất tăng ổn định, không thuộc diện quy hoạch di dời, không tranh chấp”, nên có thể
xem xét để giao quyền sử dụng đất do không vi phạm quy hoạch.
Thứ hai, như ông Thu đã đề cập thì ông Hòa đã sử dụng diện tích đất tăng ổn
định, các hộ liền kề cũng không có tranh chấp về việc hộ ông Hòa sử dụng diện tích
đất tăng này nên có thể ngầm hiểu họ cũng công nhận quyền sử dụng đất của ông.
PGS.TS Đỗ Văn Đại nêu ý kiến cho rằng: “về bản chất “cái” được coi là di sản có
giá trị tài sản là quyền sử dụng đất hợp pháp, chứ không phải giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực ra chỉ là một hình
thức pháp lý, Nhà nước công nhận một ai đó có quyền sử dụng đất hợp pháp, chứ
nó không phải là căn cứ xác lập quyền sử dụng đất. Do đó, nếu có chứng cứ chứng
minh người quá cố là người sử dụng hợp pháp đích thực quyền sử dụng đất thì nên
coi đó là di sản”2. Vì đã có chứng cứ chứng minh ông Hòa là người sử dụng đất
hợp pháp, do đó, Tòa án đã coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là di sản nếu các đương sự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

Câu 1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là 199m2. Vì tại thời điểm mở thừa kế tức lúc ông Phùng Văn N chết vào
năm 1984, tổng tài sản của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là mảnh đất diện
tích 398m2 vì thế phần di sản của ông Phùng Văn N sẽ là một nửa phần tài sản
chung của hai người, tức 199m2.

2
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt, tr.70.

5
Câu 1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia.
Sau khi ông Phùng Văn N chết, phần di sản của ông thuộc về bà G và các con,
Sau đó, bà G đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất phần đất diện tích 131m2 lại cho
ông Phùng Văn K. Việc chuyển nhượng này các con của bà G đều biết nhưng không
phản đối và cơ quan nhà nước cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà G với diện tích là 267,4m2 và cho ông K với diện tích đất là 131m2. Đồng thời
số tiền có được nhờ bán đất được bà G sử dụng để chăm lo cho đời sống của các
con. Như vậy, có thể xem việc bán mảnh đất 131m2 đã được các đồng thừa kế đồng
ý thông qua sự im lặng và bà G cũng đã làm thủ tục chuyển nhượng hợp pháp. Do
đó khi bà G chết thì phần đất này không trở thành di sản của bà vì đã được chuyển
nhượng và trở thành tài sản của ông K.

Câu 1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan
đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Hướng giải quyết của Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K là hợp lý khi giải quyết theo hướng công nhận hợp
đồng chuyển nhượng đất giữa một bên là ông K và một bên là đồng thừa kế tức bà
G và không tính phần chuyển nhượng đó vào phần di sản thừa kế.
Hướng giải quyết này là phù hợp với thực tiễn vì khi ông Phùng Văn N chết,
di sản của ông được bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn T quản lý. Việc bà G
chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K là để trang trải cho cuộc sống của các con
nên có thể coi là đã chia phần tiền có được do bán đất cho các con. Đồng thời các
con bà là các đồng thừa kế đều biết nhưng không ai phản đối gì.Hơn nữa, ông K
cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó,
theo Điều 223 BLDS năm 2015 về xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng: “Người
được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc
hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở
hữu tài sản đó”, có cơ sở để xác nhận rằng việc mảnh đất 131m2 thuộc quyền sở
hữu của ông K. Vì vậy hướng giải quyết của Tòa để không ảnh hưởng đến người
thứ ba như trên là hợp tình, hợp lý. Vậy nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà G và ông K là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không
còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển
là ông K.

6
Câu 1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con
mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là
di sản để chia không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó vẫn được coi là di sản để
chia.
Vì căn cứ cơ sở pháp lý tại Điều 612 BLDS năm 2015 quy định rằng: “Di sản
bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản
chung với người khác”. Và tại Điều 205 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”.
Có thể thấy, số tiền bà G bán đất và để dành cho cá nhân là tài sản riêng của
bà và khi bà G chết thì cũng không mang theo được, vậy thì số tiền đó vẫn được coi
là di sản để chia cho những người có quyền thừa kế.

Câu 1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, thì di sản trong diện tích đất trên là 133,5m2
vì diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G, nhưng được hình thành trong thời
gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng
Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt ½
diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà. Do đó, phần di
sản của bà Phùng Thị G để lại là ½ khối tài sản (133,5m2 ).

Câu 1.11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là
không thuyết phục vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là
267m2 : 2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất. Việc tòa án cho
rằng phần đất này “đã hết thời hiệu chia thừa kế” là không đúng, vì ông N mất
ngày 07/7/1984 và đơn khởi kiện là ngày 02/4/2011, vẫn chưa hết thời hiệu theo
quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015.
Đáng lẽ, phần mà bà G nhận được là: 133,5 : 7 = ~19,07m2 và phần di sản mà
bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 =
62,57m2.

7
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay
quanh việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế
do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

Câu 1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần
còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?
Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là
không thuyết phục, vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản đáng ra phải được chia
đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức bao gồm cả chị Phùng Thị
H1.
Theo quy định tại Điều 609 BLDS năm 2015: “Người thừa kế không là cá
nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”. Do đó, việc chị H1 được nhận di sản
theo di chúc của bà G không làm ảnh hưởng đến quyền của người thừa kế của chị,
nên nếu tòa chia phần di sản còn lại cho chỉ 5 người con sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi
chị H1.
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay
quanh việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế
do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

8
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân
tỉnh Sơn La
Anh Phạm Tiến H và anh Phạm Tiến T, cháu Phạm Tiến N có họ hàng với
nhau, anh T là anh trai ruột của anh H và cháu N là con trai của anh Phạm Tiến T.
Bố mẹ của Nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị T sinh
được 07 người con, khi còn sống có tạo dựng được một khối tài sản gồm diện tích
311m2 đất và 01 ngôi nhà gỗ 4 gian. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
bà Đoàn Thị T.
Năm 1994, ông Đ chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà đều không để
lại di chúc. Các thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản lý khối di sản
của ông Đ, bà T.
Nay anh H tu sửa lại ngôi nhà và quản lý đất đai của bố mẹ để lại để làm nơi
thờ cúng bố mẹ chứ không phân chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa thì cháu N
cản trở. Anh H đề nghị Tòa án giải quyết buộc cháu N và anh T không được cản trở
việc anh tu sửa ngôi nhà, cháu N không được xâm phạm đến tài sản của bố, mẹ anh.
Tòa án đã Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh
Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn
Thị T. Anh H có các quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy định tại
Điều 617 và Điều 618 của BLDS năm 2015.

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn là ông Trà Văn Đạm khởi kiện bị đơn là ông Phạm Văn Sơn Nhỏ
về việc tranh chấp lối đi.
Diện tích 1.497m2 đất được UBND huyện Cái Bè cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất do ông Đạm đại diện hộ gia đình đứng tên. Thửa đất này nằm phía
trong thửa 525 của ông Phạm Văn Ngót do ông Phạm Văn Sơn Nhỏ quản lý, sử
dụng. Giữa ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở một lối đi từ đất
của ông Đạm qua đất của ông Ngót đến đường đi công cộng rộng 2m dài 21m. Ông
Đạm chịu chi phí bơm cát lắp một ao, một mương làm lối đi, đặt bọng nước, làm
hàng rào và đổ 2 khối cát, 2 khối đá, đưa tiền mặt 1.000.000 đồng để ông Nhỏ làm
cổng rào tại nhà của ông Nhỏ. Ông Đạm thực hiện xong thỏa thuận với chi phí
42.205.000 đồng. Nay ông Đạm khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ và bà Chơi cùng những
người cùng hàng thừa kế với ông Nhỏ xin mở lối đi ngang 1,5m dài 21m qua đất
ông Ngót tại thửa đất 525 nêu trên.

9
Câu 2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di
sản của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Theo Bản án số 11, Tòa án xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản
lý di sản của ông Đ và bà T. Việc Tòa án xác định như trên là hợp lý và thuyết
phục.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 616 BLDS năm 2015: “Trường hợp di chúc
không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người
quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di
sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”.
Ông Đ và bà T mất lại không để lại di chúc quy định việc giao cho bất kì đứa
con nào trong gia đình được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích đất nói trên, do
đó ngôi nhà và diện tích đất trên để nguyên không có ai quản lý.
Quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa
kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ và
bà T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực
hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép
buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do
đó, việc Tòa án giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.

Câu 2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý
di sản.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 616 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp di
chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”.
Vào năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại
nhà và đất, thêm nữa khi ông Đ và bà T mất thì không để lại di chúc giao cho con
cái nào trong gia đình được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích đất nói trên, do
đó ngôi nhà và diện tích đất trên để nguyên không có ai quản lý.
Như vậy có thể thấy di chúc không chỉ định người quản lý di sản và ông Thiện
cũng đang chiếm hữu mảnh đất ấy (trực tiếp sinh sống). Từ đó ông Thiện trước khi
đi chấp hành án có là người quản lý di sản.

Câu 2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền
quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

10
Theo Bản án số 11, Tòa án xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản
lý di sản của ông Đ và bà T là hợp lý và thuyết phục.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 616 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp di
chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”.
Khi ông Đ và bà T mất thì không để lại di chúc giao cho con cái nào trong gia đình
được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích đất nói trên, do đó ngôi nhà và diện tích
đất trên để nguyên không có ai quản lý. Quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông
Thiện, những người còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm
Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T.
Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực
hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép
buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do
đó, việc Tòa án giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.

Câu 2.4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại
di sản như trong Bản án số 11.
Cơ sở pháp lý: Điều 617 và 618 BLDS năm 2015:
Điều 617. Nghĩa vụ của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có nghĩa vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người
khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý
bằng văn bản;
c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

11
c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
theo yêu cầu của người thừa kế.
Điều 618. Quyền của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để
lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù
lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Câu 2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho
con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Như trong Bản án số 11, ông Thiện không có quyền giao lại di sản cho con trai
của mình. Cơ sở pháp lý: Điều 616 BLDS năm 2015 quy định: “Người quản lý di
sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
cử ra”. Nhưng khi bố mẹ ông Thiện mất không để lại di chúc, bên cạnh đó, việc
quản lý di sản của ông không có sự nhất trí bằng văn bản của các bên đồng thừa kế.
Vì vậy, ông không là người quản lý di sản hợp pháp nên không có quyền giao lại
cho con trai trông coi, sử dụng di sản của bố mẹ mình.
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 617 BLDS năm 2015:
“Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của
Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác;”.
Rõ ràng rằng ông Thiện không có quyền giao lại quyền quản lí di sản cho
con trai.

12
Câu 2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục vì căn cứ theo điểm b
khoản 1 Điều 617 BLDS năm 2015 thì “người quản lý di sản có nghĩa vụ bảo quản
di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản
bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”.
Thửa đất số 525 nêu trên là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng
trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần
diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ ông Nhỏ không có quyền định
đoạt.
Tuy nhiên, ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi khi không
được sự đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất của ông Ngót. Do đó,
ông Ngót đã vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS năm 2015. Thêm
vào đó, theo điểm b khoản 2 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 và theo khoản 1 Điều
168 Luật Đất đai năm 2013 thì có thể nhận thấy, ông Nhỏ chỉ là người quản lý di
sản do ông Ngót để lại, không có quyền định đoạt tài sản.
Trên thực tế, phần tài sản là thửa đất 525 thuộc quyền sử dụng của bà Chơi và
cũng không có bất kỳ một văn bản hay loại giấy tờ có công chức nào chứng thực
ông Nhỏ có quyền định đoạt hay sử dụng đất thửa số 525. Do đó, việc Tòa án xác
định ông Nhỏ không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là
thuyết phục và dựa trên cơ sở pháp lý là hợp tình hợp lý.

13
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
Câu 3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Cơ sở pháp lý: Điều 623 BLDS năm 2015.
Có 03 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế:
Một là, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Đối với trường hợp
thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất
động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990 và
hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
Hai là, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế;
Ba là, thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Câu 3.2. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào
của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Thời điểm mở thừa kế với di sản của cụ T là năm 1972.
Đoạn tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời như sau “Như vậy kể
từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở
thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh
thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời
hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của
pháp luật”.

Câu 3.3. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì
sao?
Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS năm 2015 cho
di sản của cụ T là không có cơ sở văn bản.
Tuy nhiên, việc áp dụng thời hiệu này là thuyết phục và hoàn toàn hợp lý.
Thứ nhất, Điều 688 BLDS năm 2015 quy định về điều khoản chuyển tiếp.
Trên thực tế, trước đây đã có quy định với phạm vi là giao dịch dân sự những thực
tiễn vẫn vận dụng nó cho thừa kế theo pháp luật. Như vậy, Án lệ số 26 đã có tiền lệ.

14
Thứ hai, trên tinh thần Hiến pháp năm 2013, để đảm bảo công lý cho người
dân, với việc kéo dài thời hiệu, áp dụng thời hiệu 30 năm sẽ tạo điều kiện cho người
dân tiếp cận một cách công bằng.
Thứ ba, nếu áp dụng BLDS năm 2005 với thời hiệu là 10 năm thì sẽ tồn đọng
nhiều vụ tranh chấp không được giải quyết.

Câu 3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm
1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì
sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS năm 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố chưa có cơ sở văn bản.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015: “Thời hiệu để người thừa kế
yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ
thời điểm mở thừa kế”. BLDS năm 2015 lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu kể từ thời
điểm mở thừa kế và không hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh
thừa kế ngày 30/08/2018 thì có áp dụng thời điểm bắt đầu là kể từ thời điểm mở
thừa kế hay kể từ ngày công bố Pháp lệnh trên.
Tuy việc Án lệ số 26 áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS năm 2015 cho di
sản cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công
bố chưa có cơ sở văn bản nhưng nó thuyết phục. Nội dung Án lệ là sự kết hợp giữa
BLDS năm 2015 và khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Như vậy, thời
điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế từ ngày Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 công bố ngày 10/9/1990. Với quy định trên, thời hiệu chia di sản thừa kế
vẫn còn, được Tòa án kép dài thêm nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của người thừa kế.

Câu 3.5. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.


BLDS năm 2015 có Điều 688 quy định về điều khoản chuyển tiếp, tuy nhiên
phạm vi điều chỉnh lại là giao dịch dân sự. Như vậy, Án lệ số 26/2018/AL khẳng
định thời hiệu 30 năm theo BLDS năm 2015 được áp dụng cho cả thừa kế theo pháp
luật cho dù người để lại di sản chết trước 01/01/2017 và trường hợp thừa kế mà
người để lại di sản chết trước thời điểm ra pháp lệnh thì không lấy thời điểm mở
thừa kế là thời điểm bắt đầu mà lấy từ thời điểm Pháp lệnh được công bố, giúp kéo
dài thời hiệu. Điều này giúp người dân có thể dễ dàng tiếp cận với công lý hơn.

15
TÌM KIẾM TÀI LIỆU
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về
thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay
1. Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Văn Lợi, “Giới hạn quyền tự định đoạt tài sản -
Thực trạng và Giải pháp”, Tạp chí Kiểm sát, 12/2022, tr.19.
2. Đặng Lê Phương Uyên, “Điều kiện và hệ quả xác lập quyền về lối đi qua theo
quy định của pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 07/2021, tr.43.
3. Đặng Phước Thông, “Đăng ký quyền sở hữu căn hộ chung cư theo yêu cầu và
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt
Nam, 03/2020, tr.37.
4. Đặng Phước Thông, Lê Văn Dừa, “Chứng minh quyền sở hữu bất động sản
chung trong thời kỳ hôn nhân khi vợ chồng thỏa thuận phân chia, Tạp chí Khoa
học pháp lý Việt Nam, 04/2022.
5. Đoàn Thị Phương Diệp, Nguyễn Thị Vy Quý, “Mối quan hệ giữa quyền hưởng
dụng và quyền sở hữu tài sản dưới góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, 20/2020, tr.3.
6. Đỗ Văn Đại, “Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ
luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, 2/2019.
7. Hà Quang Thanh, “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản,
thu nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 16/2021, tr.44.
8. Hoàng Thị Loan, “Người lập di chúc và điều kiện luật định đối với người lập di
chúc”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 17/2019, tr.44.
9. Lê Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Tú, “Tài sản ảo và bảo vệ quyền đối với tài sản
ảo”, Tạp chí Luật học, 04/2021, tr.3-16.
10. Lê Minh Hùng, Đặng Lê Phương Uyên, “Xác lập quyền đối với bất động sản
liền kề theo tập quán trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm đối với Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 03/2022.
11. Lê Vĩnh Châu, Ngô Khánh Tùng, “Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng
trong doanh nghiệp qua một vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 7/2021,
tr.1.
12. Lê Vĩnh Châu, Ngô Khánh Tùng, “Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào
kinh doanh khi ly hôn”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 03/2021, tr.36.
13. Lê Vũ Nam, lê Bích Thủy, “Quản lý di sản dùng vào việc thời cúng thông qua
công cụ tín thác”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 13/2021, tr.47.
14. Ngô Quốc Chiến, “Bất khả kháng và nghĩa vụ hoàn trả tài sản”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, 8/2020, tr.51.

16
15. Ngô Thị Anh Vân, Đặng Lê Phương Uyên, “Thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam,
06/2019, tr.24-36.
16. Nguyễn Diệu Anh, “Quyền bề mặt trong pháp luật dân sự và quyền sử dụng đất
trong pháp luật đất đai của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 09/2021,
tr.17.
17. Nguyễn Minh Hằng, “Bình luận về vụ án giải quyết tranh chấp thừa kế theo di
chúc miệng”, Tạp chí Nghề luật, 2/2019, tr.72.
18. Nguyễn Ngọc Điện, “Tiêu chí nhận diện và hệ quả pháp lý của việc chiếm hữu,
sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, 2+3/2020, tr.36.
19. Nguyễn Ngọc Điện, “Xác định tài sản thế chấp theo tinh thần Bộ luật Dân sự
năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 2+3/2019, tr.34.
20. Nguyễn Nhật Huy, “Hạn chế phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm
2015 - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn,
40/2019, tr.51-58.
21. Nguyễn Phúc Thiện ,“Quyền thừa kế của con dâu, con rể theo Bộ luật Dân sự
Trung Quốc - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt
Nam, 09/2022.
22. Nguyễn Phương Anh, “Xử lý vật chứng vụ án hình sự là tài sản thế chấp”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, 1/2020, tr.50.
23. Nguyễn Thành Minh Chánh, Trần Quốc Khiết, “Thừa kế vị có yếu tố con nuôi,
con riêng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 17/2022, tr.31.
24. Nguyễn Thị An Na, “Một số vấn đề cần lưu ý khi luật sư tham gia giải quyết
tranh chấp về quyền đối với tài sản”, Tạp chí Nghề luật, 6/2019, tr.24.
25. Nguyễn Thị Diễm Quỳnh, “Một số bất cập khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài
sản của người có nghĩa vụ”, Tạp chí Sinh viên và khoa học pháp lý, 43/2022.
26. Nguyễn Thị Hoài Phương, “Bàn về cách tiếp cận mới đối với nội dung đăng ký
bất động sản ở nước ta”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 13/2022, tr.43.
27. Nguyễn Thị Hường, “Bảo vệ quyền đối với bất động sản liền kề ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nghề luật, 4/2019, tr.12.
28. Nguyễn Thị Hường, “Đăng ký quyền tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 15/2022, tr.16.
29. Nguyễn Thị Khánh Ngân, “Quy định của pháp luật về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên
căn hộ chung cư”, Tạp chí Luật học, 11/2021, tr.88.

17
30. Nguyễn Thị Lan, “Xác định tài sản chung, tài sản riêng và nghĩa vụ của vợ
chồng khi vợ, chồng là chủ sở hữu doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, tr.29-39.
31. Nguyễn Thị Thúy Hằng, “Quy định của pháp luật về hủy kết quả đấu giá tài sản
thi hành án dân sự và một số kiến nghị”, Tạp chí Luật học, 08/2022, tr.95-104.
32. Nguyễn Văn Vân, “Tài sản và sở hữu - Kinh nghiệm từ pháp luật Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 04/2020, tr.31.
33. Phạm Duy Nghĩa, “Sửa đổi Luật đất đai để bảo vệ tốt hơn quyền tài sản của các
chủ thể sử dụng đất”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 2+3/2022, tr.48.
34. Phạm Văn Tuyết, “Một số vấn đề cần xác định đối với di chúc chung”, Tạp chí
Luật học, 01/2023, tr.69-79.
35. Phan Trung Hiền, Chử Duy Thanh, “Pháp luật về lập vi bằng đối với bất động
sản”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 24/2019, tr.41.
36. Quách Hữu Thái, “Xác định di sản và phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật
Dân sự 2015 - một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, 23/2020, tr.18.
37. Tưởng Duy Lượng, Phạm Thị Minh Ngọc, “Bình luận Án lệ số 19/2018/AL về
xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong tội “tham ô tài sản” và tình tiết định
khung”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 22/2020, tr.1.
38. Thạch Phước Bình, Lê Thị Huỳnh, “Hoàn thiện quy định về sở hữu nhà ở của
cá nhân nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, 18/2021, tr.30.
39. Thân Lâm Cẩm Tú, “Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng - Vướng
mắc và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Kiểm sát, 05/2023, tr.40.
40. Trần Linh Huân, Nguyễn Phạm Thanh Hoa, “Pháp luật về hợp đồng vay tài sản
- Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Kiểm sát, 23/2022, tr.40.
41. Trần Ngọc Thành, “Xác định hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
là tài sản của hộ gia đình”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 8/2022, tr.26.
42. Trần Nguyễn Thị Tâm Đan, “Bản chất của thế chấp nhà ở theo quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, 10/2022, tr.55-62.
43. Trần Thị Huệ, “Một số khía cạnh pháp lý về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, 02/2020, tr.22.
44. Trần Vang Phú, Trần Thụy Quốc Thái, “Hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền sử dụng đất ở, nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, 4/2020, tr.38.
45. Trần Văn Thượng, Nguyễn Đình Hoàng, “Hoàn thiện quy định về kê biên tài
sản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, 05/2022, tr.29.

18
46. Trần Xuân Hùng, Nguyễn Thị Bích Ngọc, “Một số giải pháp, kiến nghị về việc
định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát,
19/2022, tr.46.
47. Vũ Công Giao, Vũ Thành Cự, Phạm Thị Yến, “Thu hồi tài sản tham nhũng ở
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 07/2021, tr.15.

Yêu cầu 2 : Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên.
Để tổng hợp được những bài viết trên, nhóm chúng tôi đã tìm kiếm trang web của
các tạp chí chuyên ngành pháp lý nổi bật nhất và tìm đọc các số của các tạp chí trên.
Đồng thời chúng tôi kết hợp tìm kiếm các bài viết qua thư viện và trang thư viện số
của trường Đại học Luật TP.HCM cùng với tra cứu với công cụ Google Scholar.

19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Bộ luật Dân sự 2005.
2. Bộ luật Dân sự 2015.
3. Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối
cao.
4. Luật đất đai năm 2013.
5. Pháp lệnh thừa kế năm 1990.

II. Quyết định, Bản án, Án lệ


1. Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3. Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
4. Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh.
5. Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.

III. Giáo trình, tài liệu chuyên khảo


1. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm).
2. Đỗ Văn Đại, “Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ luật
Dân sự năm 2015 có hiệu lực”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2/2019, tr. 65 – tr.73.
2. Lê Minh Hùng, Phạm Kim Anh, Chu Hải Thanh, Nguyễn Xuân Quang và Chế
Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018.
3. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007.

20

You might also like