You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

Khoa: Quốc tế
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA:
TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Môn học: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế
Giảng viên: Ths. Nguyễn Nhật Thanh
Lớp: 113-TMQT44
Nhóm 12
Danh sách thành viên nhóm:
St
Họ và tên MSSV
t
1 Đặng Hà Nhật Mai 1953801090055
2 Nguyễn Thị Quỳnh Hương 1953801090039
3 Đường Võ Thu Hà 1953801090028
4 Trần Ngọc Thanh 1953801090095
5 Nguyễn Hải Ngân 1953801090064
6 Đàm Minh Hiếu 1953801090033
7 Hồ Phan Hiền Thương 1953801090102
8 Trần Ngọc Bảo Trâm 1953801090110

Thông tin nhóm trưởng:


 Họ và tên: Đặng Hà Nhật Mai
 MSSV: 1953801090055 - Lớp: TMQT44.1
 Địa chỉ email: dangmaiqt@gmail.com
 SĐT: 0949370242
VẤN ĐỀ 01: KHÁI NIỆM TÀI SẢN 1

Tóm tắt Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT về “V/v Giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án” của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà. 1

Tóm tắt Bản án số: 39/2018/DS-ST về “V/v Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của Tòa
án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. 1

1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về một vài giấy
tờ có giá. 2

1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu căn
nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? 3

1.3 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
có là tài sản không? Quyết định trên và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao? 3

1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối
chiếu thêm với pháp luật nước ngoài). 4

1.5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà có là tài sản không? Vì sao? 5

1.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” 5

Tóm tắt Bản án số: 22/2017/HC-ST về “V/v Quyết định truy thu thuế” của Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre. 6

1.7 Bitcoin là gì? 6

1.8 Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không? 7

1.9 Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu pháp luật mà anh/chị biết 7

1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản ở Việt Nam. 8

Tóm tắt Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT về “V/v Tranh chấp chia tài sản chung về việc mua hoá
giá nhà” của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. 9

1.11 Quyền tài sản là gì? 10


1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản
không? 10

1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê,
quyền mua là tài sản? 10

1.14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số
05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? 10

VẤN ĐỀ 02: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU 12

Tóm tắt Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT về “V/v Đòi nhà” của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao. 12

2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? 12

2.2 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
ngay tình nhà đất có tranh chấp 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
13

2.3 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án. 14

2.4 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa
án. 15

2.5 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? 15

2.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao? 16

VẤN ĐỀ 03: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN 18

Tình huống: 18

3.1 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời 18

3.2 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời 18

3.3 Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời trên 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT: 20

B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT: 20


I. Giáo trình. 20
II. Báo/Tạp chí. 20
1

VẤN ĐỀ 01: KHÁI NIỆM TÀI SẢN

Tóm tắt Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT về “V/v Giải quyết việc kháng cáo
đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án” của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hoà.1
Nguyên đơn là ông Phan Hai, khởi kiện bị đơn là ông Phan Quốc Thái yêu
cầu trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lương Thị Xàm do UBND
huyện Diên Khánh cấp ngày 23/07/1999.

Quyết định kháng nghị số 1/QĐKN/VKS-DS ngày 12/5/2017 của Viện kiểm
sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa và đơn kháng cáo đề ngày
15/5/2017 của nguyên đơn đều cho rằng Tòa án nhận định ông Hai không cung cấp
đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản là không thỏa đáng.

Toà nhận thấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản,
không thể xem là loại giấy tờ có giá nên vụ án của ông Hai khởi kiện ông Thái
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Vì thế Tòa đã ra quyết định: Không
chấp nhận kháng nghị của VKSND, sửa Quyết định đình chỉ giái quyết vụ án, trả lại
đơn kiện.

Tóm tắt Bản án số: 39/2018/DS-ST về “V/v Đòi lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất” của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.2
Nguyên đơn là ông B, khởi kiện bị đơn là bà T, yêu cầu bà trả lại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AM090902 thửa đất 1595 diện tích 489,1m2 cấp cho ông
B.

Ngày 18/10/2012, ông B làm đơn cớ mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và được UBND xã Thanh Đức xác nhận nhưng khi có giấy chứng nhận thì ông
B không được nhận vì Ủy ban cho rằng ông B có tranh chấp với bà T. Bà T cho
rằng do ông B thế chấp giấy chứng nhận cho bà để vay tiền nhưng bà không chứng
minh được.

Toà án nhận thấy việc bà T chiếm giữ giấy tờ của ông B là trái pháp luật và
dựa vào tài liệu do các bên cung cấp, Toà án quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi
1
Từ đây về sau viết tắt là Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT.
2
Từ đây về sau viết tắt là Bản án số: 39/2018/DS-ST.
2

kiện của ông B, buộc bà T trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T,
buộc bà T nộp án phí sơ thẩm và hoàn trả án phí cho ông B.

1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về một vài giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao
được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như
cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc,…. Giấy tờ có giá chỉ được tạo ra bởi
một số chủ thể có đủ điều kiện do luật định, bao giờ cũng xác định được nếu chuyển
thành tiền, xác nhận quan hệ tài sản với những chủ thể nhất định như quyền đối với
vốn góp hoặc quyền đòi nợ trong quan hệ tín dụng.

Cơ sở pháp lý:

BLDS 2015: không định nghĩa cụ thể mà chỉ đề cập giấy tờ có giá là một loại
tài sản.

Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010: “Giấy tờ
có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có
giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi
và các điều kiện khác".

Theo Điều 4, Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2018 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định: “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ
chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận có nghĩa vụ trả nợ
một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản
cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua.”

Ví dụ minh họa về một số giấy tờ có giá: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, tín
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ quỹ, séc,……
3

1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu căn nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số
39 có cho câu trả lời không?
Trong thực tiễn xét xử, cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng kí ô tô, sổ tiết kiệm,… không phải là giấy tờ có
giá. Nếu cần xem xét, thì đó chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của
người đứng tên trên giấy tờ đó.3

Trong Quyết định số 06/2017/QĐ-PT và Bản án số 39/2018/DS-ST đều có


câu trả lời cho việc xác định “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở” không là giấy tờ có giá.

+ Theo Quyết định số 06/2017/QĐ-PT: “Theo Điều 105 BLDS 2015


quy định về tài sản […]. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.” 4 [nhấn mạnh]

+ Theo Bản án số 39/2018/DS-ST: “Hội đồng xét xử thấy rằng […].


Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người
có quyền sử dụng đất, […] thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.” 5 [nhấn
mạnh]

1.3 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định trên và Bản án số 39 có cho câu
trả lời không? Vì sao?
Trong thục tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản. Vì căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều
105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”; Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà là các văn bản để các Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất nhằm bảo vệ quyền tài

3
Nguyễn Minh Oanh, Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 1/2009, tr.9.
4
Trang 2 của Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT.
5
Trang 3 của Bản án số: 39/2018/DS-ST.
4

sản của chủ thể. Trường hợp chủ thể làm mất các loại giấy tờ nêu trên có thể yêu
cầu được cấp lại vì việc này không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của chủ sỡ hữu.

Trong Quyết định số 06/2017/QĐ-PT và Bản án số 39/2018/DS-ST đều có


câu trả lời.

+Theo Quyết định số 06/2017/QĐ-PT: “Theo Điều 105 BLDS 2015


quy định về tài sản […]. Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.” 6 [nhấn mạnh]

+ Theo Bản án số 39/2018/DS-ST: “Hội đồng xét xử thấy rằng […].


Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người
có quyền sử dụng đất, […] thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.” 7 [nhấn
mạnh]

1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn
từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).
Hướng giải quyết trong quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản là chưa
thuyết phục.

Nếu đối chiếu với khái niệm tài sản được quy định tại Khoản 1 Điều 105
BLDS 2015 thì “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không phải là tài sản vì nó không là vật, tiền hay giấy tờ có giá, mà nó chỉ là văn
bản để các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất nhằm
bảo vệ quyền tài sản của chủ thể. Trong các trường hợp chủ thể làm mất giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà ở thì họ hoàn toàn có thể trình
báo với các Cơ quan có thẩm quyền để tiến hành làm một số thủ tục liên quan yêu
cầu cấp lại các loại giấy tờ nêu trên do không làm ảnh hưởng gì đến quyền của chủ
sở hữu.

6
Trang 2 của Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT.
7
Trang 3 của Bản án số: 39/2018/DS-ST.
5

Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống, việc xem Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không phải là tài sản dẫn tới nhiều hệ quả không giải thích được đồng thời
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thể theo quy định của pháp
luật hiện hành Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ của quyền sở hữu
là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt chỉ có thể thực hiện trên các
đối tượng là tài sản. Việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài
sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối
với loại giấy tờ này.8

1.5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giất chứng
nhận sở hữu nhà ở không là tài sản vì nó không được coi là giấy tờ có giá theo quy
định tại Điều 105 BLDS 2015

1.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
Hướng giải quyết trong Bản án số 39/2018/DS-ST liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà ở” là thuyết phục.

Toà án nhận thấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý
để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với
đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất. Như vậy, Toà án đã xác định các loại
giấy tờ nêu trên không phải là giấy tờ có giá, do đó không phải là tài sản theo quy
định của pháp luật.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà ở là văn
bản xác nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ cấp ngày
29/02/2008 cho hộ ông Võ Văn B. Vì vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà ở thuộc quyền sở hữu của ông B, việc bà Nguyễn Thị Thuỷ
T chiếm giữ các loại giấy tờ nêu trên trái pháp luật, căn cứ theo quy định tại Khoản
16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
8
Đỗ Thành Công, Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, in Đỗ Văn Đại (chủ biên).
6

người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn
liền với đất.”.

Vì vậy, Toà án yêu cầu bà T trả lại giấy tờ cho ông B là hoàn toàn hợp lý.

Tóm tắt Bản án số: 22/2017/HC-ST về “V/v Quyết định truy thu thuế” của
Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.9
Nguyên đơn là ông Nguyễn Việt Cường khởi kiện bị đơn là Chi cục trưởng
Chi cục thuế thành phố Bến Tre vì đã truy thu tiền thuế về việc ông Cường mua bán
tiền ảo.

Toà án cho rằng: Khung pháp lý về tiền kỹ thuật số đang hoàn thiện và chưa
có văn bản nào quy định về điều này nên không xem tiền ảo là hàng hoá và mua bán
tiền ảo là kinh doanh hàng hoá được pháp luật cho phép và phải chịu thuế.

Toà án ra quyết định: Huỷ Quyết định số 714/QĐ-CCT và Quyết định số


1002/QĐ-CT, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cường.

1.7 Bitcoin là gì?


Bitcoin (ký hiệu là BTC, XBT) được cha đẻ của nó gọi là “A Peer-to-Peer
Electronic Cash System”. Tức là hệ thống tiền điện tử ngang hàng. Nó một loại tiền
mã hóa, hay còn gọi tên khác là tiền tệ kỹ thuật số (tiền điện tử, tiền ảo, tiền số)
phân cấp. Được phát hành vào năm 2009 dưới dạng một phần mềm mã nguồn mở,
và nó được tạo ra bởi một người có tên là Satoshi Nakamoto.

BTC được trao đổi trực tiếp trên mạng internet mà không thông qua một tổ
chức tài chính trung gian nào. Cách thức hoạt động của bitcoin khác hoàn toàn so
với các loại tiền tệ bình thường, không có bất cứ cá nhân, tổ chức nào quản lý các
giao dịch BTC.

Đồng tiền bitcoin được sử dụng rộng rãi trong thương mại điện tử, là loại
tiền tệ được mã hóa đầu tiên và điển hình nhất.

Chi phí thanh toán, giao dịch của đồng tiền này rẻ hơn rất nhiều so với các
loại tiền khác nên nó được các công ty, doanh nghiệp ưa thích và lựa chọn.

9
Từ đây về sau viết tắt là Bản án số: 22/2017/HC-ST.
7

Tính đến tháng 6 năm 2016, lượng tiền cơ sở của Bitcoin được định giá
khoảng 12 tỷ đô la Mỹ, một con số khổng lồ, trở thành đồng tiền có giá trị lớn nhất.

Còn không bạn chỉ cần hiểu bitcoin là một đồng tiền điện tử, có giá trị thật,
có thể mua bán trao đổi mà không có bất cứ đơn vị nào kiểm soát được bạn. 10

1.8 Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Theo Toà án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam.

Dựa trên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền lệ,
là phương tiện thanh toán hợp pháp cũng như theo quy định trong Điều 163 BLDS
2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Bên cạnh đó
Nghị định số 96/2-14/NĐ-CP ngày 17/01/2-14 của Chính phủ quy định chế tài xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương
tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.

1.9 Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu pháp
luật mà anh/chị biết
Một số quốc gia trên thế giới chấp nhận Bitcoin là tài sản.

Bitcoin được coi như tiền tệ, ví dụ như Nhật Bản và rất nhiều quốc gia, các
công ty, tập đoàn lớn cho phép bitcoin được sử dụng ở quán cafe, nhà hàng.

Bitcoin được công nhận là tài sản hợp pháp ở Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trên
thực tế, một vụ án tại Trung Quốc được đưa lên tòa gần đây nhìn nhận Bitcoin là tài
sản hợp pháp một cách sâu sắc hơn. Nó không chỉ là tài sản cá nhân mà còn là tài
sản mà công dân Trung Quốc được phép sở hữu hơn cả “hàng hóa” đơn thuần, trong
khi một số sản phẩm khác xung quanh Bitcoin vẫn bị coi là bất hợp pháp hoặc bị
cấm.11

10
Blog Tiền ảo, https://blogtienao.com/bitcoin/
11
https://medium.com/@connhagiau89/bitcoin-c%C3%B3-ph%E1%BA%A3i-l%C3%A0-t%C3%A0i-s
%E1%BA%A3n-kh%C3%B4ng-8201808b6af5
8

1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản là hoàn toàn thuyết phục.

Vì căn cứ theo Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.  Tuy nhiên, quy định này vẫn chỉ được xây
dựng theo hướng liệt kê mà chưa đưa ra được nội dung khái quát bản chất của tài
sản là gì. Về cơ bản, một đối tượng trong thế giới khách quan được coi là tài sản khi
nó nằm trong sự kiểm soát, chi phối, nắm giữ được của con người. Nói cách khác,
tài sản có một số đặc điểm như: (i) thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định; (ii) đáp
ứng một lợi ích nhất định của con người (lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần); (iii)
mang tính giá trị (giá trị và giá trị sử dụng). Tài sản theo quy định của BLDS 2015
được thể hiện dưới bốn dạng cụ thể, đó là: vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản.

Vật với tư cách là tài sản được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất theo
nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, và tồn tại ở mọi trạng thái (rắn, lỏng,
khí). Tuy nhiên, để được coi là tài sản thì vật cũng phải thỏa mãn được những đặc
điểm của tài sản đã nêu ở trên. Ví dụ: nước trong một dòng sông, không khí ngoài
khí quyển không thể nằm trong sự kiểm soát, chi phối của con người, do đó mặc dù
cũng được coi là đối tượng tồn tại trong thế giới vật chất nhưng chúng không được
xem xét với tư cách là tài sản. Khi nước được đóng vào chai, không khí được nén
vào bình, con người có thể thực hiện việc kiểm soát, chi phối chúng, khi đó nước và
không khí lại được coi là tài sản (tồn tại dưới dạng vật). Một điểm lưu ý nhất khi
xem xét về vật đó là không sử dụng tiêu chí “được giao lưu trong dân sự” để khẳng
định vật nào là tài sản. Ví dụ: ma túy là đối tượng bị cấm lưu thông, nhưng ma túy
vẫn được xem xét là một loại tài sản (được thể hiện cụ thể dưới dạng vật).

Tiền là một loại tài sản đặc biệt, có chức năng trao đổi ngang giá với những
loại tài sản khác. Tiền do Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và được hiểu là
Việt Nam đồng. Giá trị của tiền được thể hiện ở mệnh giá trên chính đồng tiền đó.
Tiền giữ chủ quyền quốc gia, có giá trị sử dụng ổn định và được sử dụng rộng rãi
trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh chức năng trao đổi, tiền còn có chức
năng dự trữ và thanh toán trên thị trường.
9

Giấy tờ có giá được hiểu là những giấy tờ trị giá được thành tiền và có thể
chuyển giao được trong giao dịch dân sự. BLDS 2015 không có quy phạm pháp luật
quy định về giấy tờ có giá mà quy định về loại tài sản này nằm rải rác trong các văn
bản pháp luật có liên quan như: Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật các công
cụ chuyển nhượng năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm
2010)… Theo đó có thể liệt kê một số giấy tờ có giá như: cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ ký quỹ…

Quyền tài sản được quy định cụ thể trong BLDS 2015 tại Điều 115, theo đó
quyền tài sản được hiểu là quyền có thể trị giá được thành tiền, và chuyển giao được
trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản bao gồm quyền đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, hoặc một số quyền tài sản khác như: quyền đòi nợ,
quyền yêu cầu chi trả khoản tiền bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm…12

Căn cứ vào các mục liệt kê trên ta thấy Bitcoin không thuộc loại tài sản nào
được nêu ở trên nên quan điểm của Tòa án là thuyết phục.

Tóm tắt Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT về “V/v Tranh chấp chia tài sản
chung về việc mua hoá giá nhà” của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao.13
Nguyên đơn là bà H khởi kiện yêu cầu bị đơn là bà L chia cho các thừa kế
của cụ T ½ giá trị nhà số 63 đường B (sau khi đã trừ tiền mua hoá giá ngôi nhà và
các chi phí liên quan) và buộc bà hoàn trả tiền thuê nhà từ năm 1998 đến nay là 2 tỉ
đồng.

Toà án nhận thấy Giấy uỷ quyền ngày 09/06/1993 cho bà L thay mặt cụ T
giải quyết những việc liên quan đến căn nhà chứ không phải sở hữu toàn bộ căn nhà
như nhận định của Toà phúc thẩm; Toà sơ thẩm và Toà phúc thẩm chưa xác minh rõ
việc bà L được mua nhà theo chế độ ưu tiên nào và mua nhà được giảm theo chế độ
ưu tiên nào và những sai sót liên quan đến tài sản. Từ những sai sót trên, Toà án
quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị Huỷ án sơ thẩm và phúc thẩm, giao
hồ sơ vụ án xét xử sơ thẩm lại.
12
https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/tim-hieu-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-(blds)-2015-ve-tai-san.htm
13
Từ đây về sau viết tắt là Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT.
10

1.11 Quyền tài sản là gì?


Căn cứ theo Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”

Ngoài ra Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế có nhắc
đến quyền tài sản rằng: “Quyền tài sản là một dạng tài sản đặc thù, không tồn tại
dưới dạng vật chất hữu hình, là một loại quyền dân sự có nội dung kinh tế, có thể
trị giá được bằng tiền, do chủ thể có quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người
khác thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của người có
quyền” 14

1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?
Hiện nay, trong BLDS 2015 và trong hai BLDS trước đó chưa có quy định
cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua là quyền tài sản.

1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Đoạn: “Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I […].
Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự 1995, quyền thuê, mua hoá
giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho
các thừa kế của cụ T.”15

1.14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm
tài sản)?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về
quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản) là thuyết phục.

Vì căn cứ theo Điều 172 BLDS 1995 định nghĩa về tài sản: “Tài sản bao
gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.” và Tòa
án nhân dân tối cao dựa vào Điều 188 BLDS 1995 quy định về quyền tài sản:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao
14
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế (Tái bán có sửa đổi, bổ sung) của
ĐH Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2018, Chương I, tr.38-40.
15
Trang 7 của Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT.
11

lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.”, Tòa cho rằng quyền thuê, quyền mua nhà
của cụ T là quyền tài sản là thuyết phục vì các quyền đó có trị giá bằng tiền, được
chuyển giao trong giao lưu dân sự đáp ứng đủ các điều kiện theo Điều 188 trên.

VẤN ĐỀ 02: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU

Tóm tắt Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT về “V/v Đòi nhà” của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.16
Nguyên đơn là cụ Hảo khởi kiện bị đơn là chị Vân về vụ án đòi nhà.
16
Từ đây về sau viết tắt là Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT.
12

Năm 1954 cụ Hảo vào Sài Gòn buôn bán nên giao nhà cho ông Chính, bà
Châu quản lý. Năm 1968 vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác nên cho ông Hải
thuê. Sau khi ông Hải mất thì cháu ông là chị Vân vẫn sử dụng căn nhà cho đến nay.
Sau năm 1975 ông Hảo đã nhiều lần đòi nhà. Năm 2001 chị Vân bán nhà cho vợ
chồng anh Sơn, chị Lan. Năm 2004 cụ Hảo khởi kiện yêu cầu chị Vân trả lại căn
nhà cho thuê số 2 Hàng Bút, cùng năm cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản
cho bà Châu nên bà Châu toàn quyền khởi kiện về vụ án.

Giám đốc thẩm ra quyết định hủy án sơ thẩm và phúc thẩm, giao lại hồ sơ
xét xử lại vì không có căn cứ chứng minh phía cụ Hảo có đơn đòi nhà từ sau 1975,
đến năm 2004 mới khởi kiện là không có căn cứ, bên cạnh đó gia đình chị Vân là
chiếm hữu ngay tình với căn nhà

2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn:

Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ,
tuy chị Vân khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê
nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ
năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo uỷ quyền
cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân
ở tại nhà só 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc dầu là ông nội chị Vân ở, sau này
bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. 17

Khẳng định của Tòa án là hoàn toàn hợp lí bởi vì căn cứ theo Khoản 1 Điều
197 BLDS 2015: “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”. Theo như Quyết định
trên thì từ sau năm 1954 cụ Hảo đã không còn ở trong căn nhà số 2 Hàng Bút và
giao cho ông Chính, bà Châu quản lý. Sau đó ông Chính cho ông Hải thuê và khi
thuê có lập giấy tờ. Sau này ông Hải chết thì chị Vân (cháu ông) vẫn đóng tiền thuê
nhà hằng năm cho ông Chính. Trong quá trình ở chị có nâng cao nền nhà, thay cửa.
Năm 2001, chị Vân bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn. Như vậy
trong toàn bộ thời gian ở chị Vân đã có hành vi nắm giữ, chi phối căn nhà trên thực
17
Trang 6-7 của Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT.
13

tế trong hơn 30 năm nên dựa vào Khoản 1 Điều 197 BLDS 2015 thì chị Vân chiếm
hữu căn nhà số 02 Hàng Bút.

2.2 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại Khoảng 1 Điều 247 Bộ luật dân sự
về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu […].” 18 [nhấn mạnh]

Khẳng định của Tòa án là thuyết phục. Vì căn cứ theo Điều 189 BLDS 2005
quy định về chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình: “Việc chiếm
hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm
hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.”

Gia đình chị Vân đến thuê nhà từ gia đình của cụ Hảo thực chất là chuyển
giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự (ông Chính cho ông Hải thuê và
khi thuê có giấy tờ). Tuy nhiên, không có căn cứ nào chứng minh rằng ông Chính
được cụ Hảo uỷ quyền sở hữu căn nhà vì ông Chính không xuất trình được tài liệu
cụ Hảo uỷ quyền cho ông quản lý căn nhà. Do đó, ông Chính không có quyền đối
với tài sản là nhà số 2 Hàng Bút và việc chuyển giao quyền chiếm hữu giữa ông
Chính và ông Hải là không có căn cứ theo pháp luật.

Bên cạnh đó không có căn cứ cho thấy chị Vân đã được chuyển giao quyền
chiếm hữu căn nhà do chị chỉ đến ở sau khi ông Hải thuê. Hơn nữa, chị Vân vẫn có
những hành động nắm giữ, chi phối căn nhà như: nâng cao nền nhà, thay cửa, đóng
tiền thuê nhà hàng năm cho ông Chính đến khi ông Chính chết, bán nhà cho vợ
chồng anh Sơn, chị Lan vào năm 2001.

Vì thế, Toà án khẳng định chị Vân chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm là thuyết phục.

18
Trang 7 của Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT.
14

2.3 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án.
Đoạn: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại Khoảng 1 Điều 247 Bộ luật dân sự
về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu […].” 19 [nhấn mạnh]

Vì vào năm 1968 vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác ở tỉnh Thái
Nguyên nên cho ông Hải thuê, sau khi ông Hải mất thì chị Vân (cháu ông) vẫn sử
dụng đến nay. Từ sau năm 1975, gia đình cụ Hảo đã nhiều lần có đơn đòi nhà cho
thuê số 2 Hàng Bút gửi UBND phường Hàng Bồ giải quyết và năm 1999, vợ chồng
bà Châu gặp chị Vân để đòi nhà. Tuy nhiên, Toà án cho rằng phía gia đình cụ Hảo
đề đơn yêu cầu đòi nhà đối với gia đình chị Châu không có tài liệu chứng minh (chỉ
có biên bản hoà giải tại UBND phường Hàng Bồ năm 2001), vì thế trong khoảng
thời gian hơn 30 năm, căn nhà mà gia đình chị Vân ở không có bất cứ tranh chấp
nào xảy ra trên thực tế.

Vì thế, việc Tòa án khẳng định chị Vân chiếm hữu liên tục nhà đất tranh
chấp trên 30 năm là thuyết phục

2.4 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án.
Đoạn: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại Khoảng 1 Điều 247 Bộ luật dân sự
về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu […].” 20 [nhấn mạnh]

Khẳng định của Toà án về việc chị Vân chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm là thuyết phục.

19
Trang 7 của Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT.
20
Trang 7 của Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT.
15

Vì căn cứ theo Điều 191 BLDS 2005 quy định về chiếm hữu công khai:
“Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách
minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng,
công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính
mình.”, gia đình chị Vân đến ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút một cách minh bạch,
không giấu giếm, và sử dụng căn nhà để làm nơi ở, thuận tiện cho việc sinh hoạt
hằng ngày theo đúng tính năng, công dụng của nó. Ngoài ra trong quá trình sử dụng,
gia đình chị còn có hành động bảo quản, giữ gìn căn nhà (nâng cao nền nhà, thay
cửa).

Vì thế, Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai căn nhà
số 2 Hàng Bút là hoàn toàn có căn cứ.

2.5 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT cho thấy Toà án khẳng định cụ
Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp: “…đến năm 2004 cụ Hảo mới
có đơn khởi kiện ra Toà án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ
Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.”21

Theo em, việc Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có
tranh chấp là chưa thuyết phục.

Vì:

Thứ nhất, theo trình bày của phía nguyên đơn thì căn nhà số 2 Hàng Bút,
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo, nghĩa là cụ
Hào là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà này trên giấy tờ.

Thứ hai, năm 2004, cụ Hảo khởi kiện yêu cầu chị Vân trả lại căn nhà cho
thuê số 2 Hàng Bút. Cùng năm 2004, cụ có di chúc giao quyền bất động sản số 2
Hàng Bút cho bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của
UBND xã Kim Chung). Di chúc có xác nhận của UBND xã là di chúc hợp pháp

21
Trang 7 của Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT.
16

theo quy định của pháp luật hiện hành. Điều này đồng nghĩa công nhận rằng căn
nhà số 02 Hàng Bút là tài sản của cụ Hào và cụ có quyền trao di chúc giao quyền
bất động sản căn nhà này cho con ông là chị Châu.

Vì những lẽ trên thì cụ Hảo vẫn là chủ sở hữu của căn nhà số 2 Hàng Bút và
khẳng định của Toà là chưa thuyết phục.

2.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo em, gia đình chị Vân được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền. Vì căn cứ theo Khoản 1
Điều 247 BLDS 2005 và Điều 236 BLDS 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác.”, gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà số 2
Hàng Bút từ năm 1968 cho đến thời điểm khời kiện là năm 2004, tổng cộng thời
gian sinh sống trong căn nhà là 36 năm, vượt quá thời hạn 30 năm so với quy định
trên.

Vì vậy, theo quy định của pháp luật, chị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên
30 năm nên việc trở thành chủ sở hữu của tài sản này là đúng thep quy định của
pháp luật.
17

VẤN ĐỀ 03: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Tình huống:
Bà Dung có mua từ bà Thủy 1 ghe xoài trị giá 16.476.250đ. Tuy nhiên ghe
xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ chối thanh
toán tiền mua cho bà Thủy vì lý do đây là việc rủi ro.

3.1 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời
Cơ sở pháp lý: Điều 166 BLDS 2005 và Điều 162 BLDS 2015.

+ Theo Điều 166 BLDS 2005 quy định: “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro
khi tài sản bị tiêu hủy hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

+ Theo Điều 162 BLDS 2015 quy định:

1.Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực
hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật
không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp
luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển
giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc
người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản. 2. Trường hợp tài sản
chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức
thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
18

3.2 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời
Tại thời điểm cháy chợ bà Dung là chủ sỡ hữu số xoài vì bà đã nhận xoài từ
bà Thủy trước đó và dựa theo Khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 quy định: “Bên bán
chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu
rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác.”.

3.3 Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời trên
Căn cứ theo Điều 223 BLDS 215: “Người được giao tài sản thông qua hợp
đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu
khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó.” Thì bà Dung đã
có quyền sở hữu tài sản là số xoài sau khi thực hiện mua bán với bà Thủy. Cũng
như dựa trên Khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 đã nêu trên bà Dung phải chịu mọi rủi
ro về số xoài này sau khi nhận được xoài từ bên bán là bà Thủy. Vì những lẽ trên,
bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài.
19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT:


1. Bộ luật Dân sự số: 44 – L/CTN ngày 28 tháng 10 năm 1995 của Quốc hội.
2. Bộ luật Dân sự số: 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội.
3. Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.
4. Luật Đất đai số: 13/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội.
5. Công văn số: 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 09 năm 2011 của Toà án
nhân dân tối cao V/v Thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản.

B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:

I. Giáo trình.
1. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
(Tái bản có sửa đổi, bổ sung) của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.

II. Báo/Tạp chí.


2. Nguyễn Minh Oanh, Các loại tài sản trong Luật dân sự việt Nam, Tạp chí
Luật học số 1/2009 (truy cập lần cuối ngày 11/03/2020)
3. Đỗ Thành Công, Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề
kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, in Đỗ Văn Đại (chủ biên).
20

4. Blog Tiền ảo, https://blogtienao.com/bitcoin/ (truy cập lần cuối ngày


11/03/2020)
5. https://medium.com/@connhagiau89/bitcoin-c%C3%B3-ph%E1%BA%A3i-
l%C3%A0-t%C3%A0i-s%E1%BA%A3n-kh%C3%B4ng-8201808b6af5
(truy cập lần cuối ngày 12/03/2020)

6. https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/tim-hieu-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-
(blds)-2015-ve-tai-san.htm (truy cập lần cuối ngày 17/03/2020)

You might also like