You are on page 1of 20

MÔN HỌC: Những quy định chung về luật Dân sự, Tài sản và Thừa kế

Thảo luận nhóm 2


Buổi thảo luận thứ sáu: Quy định về di chúc
Giảng viên: Lê Thanh Hà

Lớp: 114-TM45.2
Nhóm: 8

Họ và tên: Mã số sinh viên:


Đào Đức Hoàng 2053801011091
Võ Minh Hoàng 2053801011094
Đinh Hữu Huy 2053801011105
Nguyễn Thanh Huyền 2053801011110
Nguyễn Khánh Linh 2053801011133
Nguyễn Thị Bình Minh 2053801011143
 Trần Văn Minh 2053801011144
Hình thức của di chúc

- Tóm tắt Bản án số 83/2009/DS-PT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên:

Một người đàn ông khác


Ông Nguyễn Văn Hùng
( giữ giấy tờ đất)
Bà Nguyễn Thị Tâm
Ông Hiếu gian Muốn 3 anh em như trước
Ông Trung dúm không
Ông Việt cho
Sở hữu Ông Này vợ chồng Bà Trọng
Lập Đứng tên con ông Này bà Trọng
Đất số AG 67735
Di chúc

Qua đời Cùng các con mai táng chu đáo

Muốn được cùng bà Trọng Thấy Hiếu thái độ, bà đuổi 3 anh
mai táng ông Này nhưng bà em ra khỏi nhà
không cho
Vẫn chia cho Hiếu 80tr đồng
Đuổi 3 anh em ra khỏi nhà nhưng Hiếu đòi 120tr đồng
không cho hành nghề nữa

Đề nghị bác bỏ di chúc đó

Tòa sơ thẩm: Bà Trọng nhận toàn bộ đất


Thối chênh lệch tài sản cho ông Hiếu
Buộc chuyển toàn bộ đồ nghề ra khỏi nhà
Tòa phúc thẩm: giữ nguyên kháng cáo của ông Hiếu
Rút các kháng cáo còn lại

1
- Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao:

Chuyển nhượng 80m2 đất Con cụ Hựu và cụ Hồng


cho ông Phạm Văn Xanh

Cụ Hựu 210m2 bà Hoàng Thị Ngâm ( vợ ông Hồng )


462m2 Di chúc bà Đỗ Thị Lựu ( con cụ Hựu và cụ Hằng )
526m2

Đòi quyền lợi các thửa cho rằng di chúc


đất trên không hợp pháp

Ông Đỗ Văn Quang ( con cụ Hựu và cụ Sách)


Tòa sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Đỗ Văn Quang về việc mở thừa kế di sản của
cụ Hựu để lại.
Tòa phúc thẩm: Bác yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn Quang, giữ nguyên bản án sơ
thẩm. Bác tất cả yêu cầu khác của đương sự.

1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo Điều 631 BLDS 2015.
1. Di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý khi có đủ các nội dung sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại Khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội
dung khác.
2
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc
người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này không phải là người làm chứng
hợp pháp. Căn cứ vào Điều 654 BLDS 2005, người làm chứng cho việc lập
di chúc. Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những
trường hợp sau đây:
 Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
 Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
 Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự. Và
Điều 676, người thừa kế theo pháp luật.
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không
còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị
truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
3
- Mà theo Bản án số 83/2009/DS-PT, những người đã làm chứng di chúc cho
ông Này là cha, em gái và em trai ông Này. Và ba người này rơi vào trường
hợp không được làm chứng di chúc theo Khoản 1 Điều 654 BLDS 2005, họ
là những người thừa kế theo pháp luật của ông Này. Cha ông Này thuộc
hàng thừa kế thứ nhất, em trai và em gái thuộc hàng thừa kế thứ hai, căn cứ
theo Điều 676 BLDS 2005.
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông này không là di chúc do ông Này tự viết tay. Vì mặc dù ông Này
tự dùng tay của mình để viết di chúc, khi ông hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt
không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Nhưng Bản án không nói rõ là ông này có
ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc hay không.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông này tự viết tay.
Khi di chúc đó là di chúc do ông Này tự viết tay thì hướng giải quyết trên của Tòa
là chưa thỏa đáng. Vì di chúc tự viết tay không cần phải có người làm chứng mà
chỉ cần căn cứ vào hình thức của di chúc và nội dung của di chúc là có thể xác
định di chúc hợp pháp hay không. Do đó mặc dù kết quả của Tòa án là công nhận
di chúc đó hợp pháp nhưng trong quá trình xử lý còn có một vài sai sót như người
làm chứng, cần phải có công chứng, chứng thực.
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Trả lời: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau: Ngày 25/11/1998, di chúc là do
cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy (là mẹ
của ông Vũ) ký tên, làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến
cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm
xác nhận.
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 có câu: “Ông
Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.
7. Di chúc của người không biết chữ phải thõa mãn các đều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?

4
- Đối với người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc do bị mù chữ thì pháp
luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản, theo thủ tục công chứng,
chứng thực. Đồng thời phải lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có người
làm chứng thì di chúc mới có hiệu lực. Theo Khoản 3 Điều 652: “Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm
chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”Và Điều 658 BLDS
2005: Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn.
- Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người
lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau
khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của
mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc.
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di
chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người
này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm
quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di
chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: di chúc đã được lập
thành văn bản và có người làm chứng.
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: công chứng
chứng thực. Công chứng chứng thực ở đây là theo thủ tục công chứng chứng thực
quy định tại Điều 658 BLDS 2005.
5
10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thõa mãn điều kiện về hình thức không? Vì
sao?
- Di chúc trên không thỏa mãn điều kiện về hình thức. Mặc dù di chúc đã được lập
thành văn bản và có người làm chứng nhưng về yêu cầu có công chứng, chứng
thực do cụ Hựu là người không biết chữ thì chưa thỏa mãn yêu cầu của Luật. Vì
theo quy định tại Điều 658 BLDS 2005 “Người lập di chúc tuyên bố nội dung của
di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di
chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi
chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di
chúc”; Nhưng ở đây cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ viết và bà Lựu mang di chúc đến
cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm
xác nhận. Điều đó không phù hợp với luật. Mặt khác theo Quyết định thì cụ Hựu
không rơi vào Khoản 2 Điều 658 BLDS 2005. Ta cũng cần phân biệt trường hợp
di chúc viết hộ với di chúc được lập bởi người không thể tự lập di chúc do khiếm
khuyết hoặc mù chữ. “Trường hợp này cần đặc biệt lưu ý, vì sẽ có người nhầm
tưởng quy định này cũng áp dụng đối với mọi cá nhân không thể tự mình viết di
chúc…Khi người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc (do bị khiếm khuyết
thể chất hoặc người mù chữ) thì pháp luật quy định người này phải lập di chúc
bằng văn bản theo thủ tục công chứng, chứng thực, đồng thời việc lập, công
chứng, chứng thực di chúc phải có người làm chứng thì di chúc mới có hiệu lực”.
11. Suy nghĩ của anh/chị, về các quy định trong bộ luật dân sự liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.
- Trong BLDS 2005 có những quy định liên quan đến hình thức di chúc của người
không biết chữ như Khoản 3 Điều 652: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất
hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và
có công chứng hoặc chứng thực”.
Và Điều 658 BLDS 2005: Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
6
- Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã
tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di
chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di
chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di
chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này
phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng
thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người
lập di chúc và người làm chứng.
Những quy định nghiêm ngặt về hình thức như thế này xuất phát từ cơ sở pháp lý và
cơ sở kỹ thuật của nó. Nhằm bảo vệ tối đa ý chí đích thực của người để lại di sản và cũng
đề phòng việc người khác lợi dụng những khiếm khuyết của người để lại di sản để giả
mạo di chúc, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, …

 Tài sản được định đoạt theo di chúc

- Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa án dân sự Tòa
án nhân dân tối cao:

7
2/3 thừa kế của cụ Hương

Cụ Quý tạo lập Cụ Hương chết


Yêu cầu được
hưởng

Nhà (chưa được cấp Di chúc Đất (được cấp quyền


quyền sử dụng) (đã được công chứng) sử dụng)
(là tài sản của ông nội (ông nội của ông
của ông Dũng) Dũng thuê của cụ An)
chia toàn bộ

Nguyễn Ngọc Đức Nguyễn Hữu Nghĩa Nguyễn Ngọc Hiếu Nguyễn Hữu Dũng Quảng Thị Kiều
(vợ Nguyễn Hữu Trí)

Không đồng ý cho ông Lộc được hưởng

Ông Lộc ở căn nhà từ nhỏ đến lớn


giữ gìn và quản lý căn nhà

Tòa sơ thẩm:
Về tài sản chung:

8
+ Giao ½ căn nhà cho cụ Quý bằng tiền mặt với giá trị 2.167.935.850 đồng.
+ Giao 340,3m2 diện tích đất cho cụ Quý.
Về di sản:
+ Cụ Hương được hưởng 18,8m2 diện tích đất và 12.044.100 đồng phí xây nhà.

- Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/09/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội:

Chuyển nhượng lập di chúc


Ông Nguyễn Văn Đ Cụ Nguyễn Văn D Nguyễn Văn D1
Thửa đất lập di chúc

Sống chung như vợ chồng đòi quyền sở hữu


Cụ Nguyễn Thị C Ông Trần Văn Y
Chuyển nhượng
(chứng kiến)
Bà Nguyễn Thị B (đã chết) + bà Trần Thị K Tòa tuyên bố di chúc vô
hiệu

Tòa sơ thẩm: tuyên bố di chúc vô hiệu


Tòa phúc thẩm: tuyên bố di chúc vô hiệu

1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả
lời?
- Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ tài sản nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn
Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, Phú Nhuận) cho các con là

9
Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng,
Quảng Thị iềKu (vợ ông Nguyễn Hữu Trí).
- Được quy định trong đoạn “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất
cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,
Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí).”
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chông cụ Hương?
- Đoạn cho thấy tài sản của cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của
vợ chồng cụ Hương là “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần
bởi nhà đất trên tài sản chung của vợ chông cụ Hương và cụ Quý”.
3. Toà án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?
- Toà án đã công nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (½ nhà đất)
cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
- Đoạn cho thấy câu trả lời: “Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ
Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (½
nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ
ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.”
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm.
- Hướng giải quyết trên của Toà án là hợp lý. Vì di chúc của cụ Hương được lập
hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung thì di sản được định đoạt là tài sản
chung của cụ Hương và cụ Quý, nên Toà án quyết định chỉ công nhận một phần tài
sản của cụ Hương (½ nhà đất), phần di sản của cụ được chia cho 5 người con theo
di chúc sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn
hợp lý. Và cụ Quý được hưởng ½ tài sản nhà đất trong phần tài sản chung của hai
cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Quý chết trước thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài sản
chung của cụ Quý và cụ Hương (½).
10
- Trong trường hợp cụ Quý để lại di chúc nhưng không chia di sản cho cụ Hương thì
phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật mà cụ Hương được nhận từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế không phụ
thuộc nội dung di chúc. Căn cứ vào Điều 669 BLDS 2005. Còn nếu cụ Quý để lại
di chúc có chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ
Hương sẽ cộng thêm phần di sản của cụ Hương được nhận. Căn cứ vào Điều 631
BLDS 2005.
- Trường hợp cụ Quý không để lại di chúc thì phần di sản của cụ Quý sẽ được chia
theo pháp luật (cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm 12 người con
và cụ Hương) thì phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm 1/13
di sản cụ Quý để lại. Căn cứ vào Điều 675, 676 BLDS 2005.
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
- Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc có giá trị pháp lý hay không bộ luật không có quy định.
Còn trong thực tiễn xét xử Toà án giải quyết theo hướng di sản được xác định từ
thời điểm lập di chúc. Như vậy trong trường hợp này di chúc của cụ Hương được
công chứng ngày 16/01/2009 mà đến đầu tháng 4/2009 tài sản mới thuộc sở hữu
của cụ Hương thì di chúc của cụ Hương không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên theo ý
kiến của nhóm thì nên công nhận di chúc của cụ Hương. Vì tuy lúc cụ Hương lập
di chúc thì tài sản chưa thuộc quyền sở hữu của cụ nhưng trước khi mở di chúc thì
tài sản đó đã thuộc sở hữu của cụ và cho đến khi chết cụ không thay đổi ý chí thể
hiện trong di chúc.
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết?
- Đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi chết là:
“Ngoài ra, di sản của cụ C, cụ D để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010
của Ủy ban nhân dân thành phố V” (cụ C chết ngày 07/09/2010, cụ D chết ngày
21/01/2011).

11
8. Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C
và cụ D là quyền sử dụng đất là: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền
sử dụng đất tại thửa đất số 38”.
- Theo nhóm em hướng xác định của Tòa GĐT là chưa hợp lí. Căn cứ vào mục II
Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định quyền sử dụng đất là di sản khi: “Đối với
đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền
với quyền sử dụng) mà người đó đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
Luật Đất đai năm 1987,1993, 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
- Nhưng trong bản án Đất số 38 là cụ D trao đổi với hợp tác xã mà có, không thấy
đề cập việc có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên quyền sử dụng đất đó
không phải là di sản.

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị nhà nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Toà giám đốc thẩm.
- Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị nhà nước thu hồi là:
“Ngoài ra di sản của cụ C, cụ D để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010
của Ủy ban nhân dân thành phố V, nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có
đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai
cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”.
- Hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Vì khi lập di chúc, cụ D đã để
lại phần tài sản của mình tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 cho ông D1. Khi nhà
nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản
trên đất thì ông D1 được đứng tên và nhận tiền. Theo quy định của Luật Đất đai
bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất thì hướng của Toà giám đốc thẩm là
hợp lý.
12
 Di chúc chung của vợ chồng

- Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện C
tỉnh Phú Thọ:

Hoàng Tuyết H Hoàng Hồng H1 Hoàng Quốc H2 Hoàng Quốc H3


Sinh ra

Bà Hoàng Thị H vợ chồng Ông Hoàng Minh X

còn minh mẫn


Sở hữu
Thửa đất ngôi nhà cấp 4 bếp và công trình phụ công trình chăn nuôi
tài sản khác

Lập di chúc

Ông X chết trước Bà H chết

13
1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?
Đoạn của Bản án số 14:
“Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời
kỳ hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày
21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung của vợ
chồng viết ngày 10/8/2015.”
“Áp dụng Điều 627, 630 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1,5 Điều 147 Bộ luật tố
tụng dân sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Điểm a Khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
1.Xử Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày
10/8/2015 là hợp pháp.”
2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Đoạn: “Áp dụng Điều 627, 630 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 1, 5 Điều 147 Bộ luật
tố tụng dân sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Điểm a Khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
1. Xử Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày
10/8/2015 là hợp pháp.”
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của
vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
- Quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng là hoàn toàn hợp lý áp dụng
chính xác BLDS 2015.

 Di sản dùng vào việc thờ cúng

- Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSST ngày 16/09/2009 của Tòa án nhân dân huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai:

14
Bà Nguyễn Thị Lùng có 7 người con: Phan Văn Thảo, Phan Văn Nhành, Phan Thị Hoa,
Phan Văn Tân, Phan Văn Được, Phan Văn Xuân và Phan Thị Hương. Di sản thừa kế bà
để lại là 01 căn nhà cấp 4 tại khu Kim Sơn- Long Thành do bà tạo dựng năm 1991. Ngày
08/07/2004, bà lập di chúc để lại nhà đất cho 7 anh chị em, hiện tại anh Phan Văn Được
quản lý, năm 2005, năm anh chị em hợp lại chia di sản nhưng anh Tân và chị Hương
không đồng ý. Nay anh Được yêu cầu chia di sản thừa kế của mẹ anh cho 7 anh chị em,
anh được sở hữu sử dụng nhà đất và chia bằng tiền cho 6 anh chị em giá trị tương ứng với
phần di sản được hưởng. Còn phía chị Hương, anh Tân lại yêu cầu để căn nhà và đất như
hiện tại thuộc quyền sở hữu chung của 7 anh chị em. Theo như biên bản lấy lời khai, anh
Phan Văn Thảo, Phan Văn Nhành, Phan Văn Xuân và chị Phan Thị Hoa đều đồng ý với
yêu cầu chia di sản thừa kế cả anh Được, phần di sản thừa kế các anh chị được hưởng,
các anh chị để lại anh Được được quyền sở hữu sử dụng. Sau khi tiến hành xét xử, Tòa án
đã đi đến quyết định chấp nhận yêu cầu của chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan
Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan: anh Phan Văn Thảo, Phan Văn Nhành, Phan Văn Xuân và chị Phan Thị
Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”, giao cho anh Được được quyền sở hữu, sử dụng
căn nhà và anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và
chị Hương tương ứng với phần di sản được hưởng.

1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ vào Điều 670 BLDS 2005:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người
đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng, nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng. Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di
sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng. Trong
trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản

15
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng.”
- Ta thấy, để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý thì di sản đó cần thoả
mãn những điều kiện sau:
 Thứ nhất, di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
đó và còn thừa lại.
 Thứ hai, người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng.
 Thứ ba, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản
không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử
một người quản lý tài sản.
- Tóm lại, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ có giá trị pháp lý khi thoả mãn các điều
kiện nêu trên.
2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc
thờ cúng?
- Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng là: “Tại tờ di chúc ngày 09 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7
người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý
di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh
Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.
3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thoả
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- Căn cứ vào Điều 670 BLDS 2005 thì điều kiện để di sản được dùng vào việc thừa
kế là: Tài sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và
còn thừa lại, Di chúc không định đoạt toàn bộ di sản chỉ dùng vào việc thờ cúng.
Trong vụ việc đang nghiên cứu, hai điều kiện trên được thoả mãn.

16
- Cụ thể: Trong vụ việc không nói đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản của bà
Lùng nên có thể xem như nghĩa vụ đó không có hoặc đã được thực hiện xong.
Phần tài sản của bà Lùng để lại dùng vào việc thờ cúng là nhà đất, đây không phải
là toàn bộ di sản của bà.
4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp
này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Trong vụ tranh chấp này, có 5/7 người con (tức người thừa kế theo di chúc của bà
Lùng để lại) đồng ý chia di sản. Cụ thể là: anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị
Hoa, anh Được. Còn 2 người không đồng ý chia di sản là anh Tân và chị Hương.
- Đoạn trong Bản án cho câu trả lời là: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004, mẹ anh lập di
chúc để lại cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị
em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý.”
5. Cuối cùng Toà án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Cuối cùng Toàn án chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.
- Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
anh Phan Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phân Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân, anh Phan
Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”.
Anh Được phải có tránh nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị
Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi
bốn ngàn đồng).
6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và
giải pháp của Toà án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc
thờ cúng.
- Trong thực tiễn xét xử tại Toà án thì Toà án lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ
thanh toán giá trị di sản thừa kế thì cách xử của Toà có phần không đúng với quy
định của BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người
17
thừa kế thì cách xử của Toà vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để
thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhàn, anh
Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được, căn nhà vẫn
được giữa nguyên và anh Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ
cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta
xác định là sở hữu chung của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt,
chia lẻ chỉ được quản lý. Tuy nhiên, Toà án lại xử chia di sản và anh Được phải
thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản
ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà không định đoạt.

18
19

You might also like