You are on page 1of 20

BÀI THẢO LUẬN DẤN SỰ SỐ 7

Vấn đề 1: Xác định vợ chồng của người để lại di sản.

1.1/ Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?

Điều 651 BLDS 2105 quy định về “Người thừa kế theo pháp luật”:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

1.2/ Suy nghĩ anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ
việc được nghiên cứu.

Tóm tắt Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009: Nguyên đơn là bà Bằng,


bà Khiết, bà Triển và bà Tiến kiện bị đơn là ông Thăng về việc tranh chấp chia thừa
kế. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu chia thừa kế của bà
Nguyễn Thị Tiến, bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Triển và bà Nguyễn Thị Khiết
đối với ông Nguyễn Tất Thăng về việc chia di sản thừa kế của cụ Thất, cụ Tần, cụ

1
Thứ.

- Việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc nghiên cứu trên là hợp lý.
- Vì căn cứ điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định về
người thừa kế theo pháp luật: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày
13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc;
trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống
nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau
khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu
lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người
vợ.

Theo đó cụ Thứ và cụ Thát sống chung với nhau như vợ chồng trước năm 1960 ở
miền Bắc. Như vậy, cụ Thứ là vợ hợp pháp của cụ Thát và thuộc hàng thứa kế thứ nhất.

1.3/ Vợ/chồng của người để lại di chúc thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.

Vợ/chồng của người để lại di chúc thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ theo điểm a
khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 quy định về Người thừa kế theo pháp luật: “Hàng thừa
kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;”

1.4/ Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không? Vì sao?

Cụ Thát và cụ Thứ không có đăng ký kết hôn, vì cụ Thứ và cụ Thát chỉ sống chung
với nhau như vợ chồng trước năm 1960.

1.5/ Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng kí kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ theo tinh thần của Mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 được hướng dẫn bởi
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì nếu:

2
  “Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến
ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì
có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực
cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn,
nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân
và gia đình để giải quyết.

  Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không
công nhận họ là vợ chồng...nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không
công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng quy
định của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.”.

1.6/ Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống chung với người phụ nữ nào?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Ngoài việc sống chung với cụ Thứ, cụ Thát còn sống chung với cụ Tần.

Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Các đương sự đều thống nhất là cụ Thát mất năm
1961 có vợ là cụ Tần mất năm 1995 có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và
bà Triển.

Theo các nguyên đơn và bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (mất
năm 1994) có 1 con là bà Tiến.”.

1.7/ Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống vơi nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960
thì cụ Thứ không là người thừa kế của cụ Thát. Căn cứ theo khoản a Mục 4 của Nghị
quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định về người thừa kế pháp luật: “a) Trong
trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố
danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam

3
và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc
kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ
đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người
thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”.

1.8/ Câu trả lời có thay đổi không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời?

Khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam thì câu trả lời sẽ thay đổi và cụ Thứ là
người thừa kế của cụ Thát. Căn cứ theo khoản a Mục 4 của Nghị quyết 02/HĐTP ngày
19/10/1990 quy định về người thừa kế pháp luật: “a) Trong trường hợp một người có
nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 -
đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật
được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có
vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ
bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng
thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của
tất cả các người vợ”.

1.9/ Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát.

Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát có thể được xem dưới
góc độ pháp luật trong hai giai đoạn khác nhau:

+ Xét dưới góc độ pháp luật trong hoàn cảnh chiến tranh:

Thời điểm cụ Thứ và cụ Thát sinh sống với nhau như vợ chồng là trước năm 1960.
Vì vậy theo Nghị quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 thì cụ Thứ hoàn toàn
được coi là người thừa kế của cụ Thát.

+ Xét dưới góc độ pháp luật hiện nay:

4
Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế trong pháp luật là chưa phù hợp. Vì
căn cứ theo khoản 2 và 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 về Giải thích từ
ngữ:

“Trong luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

2. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn;

6. Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn;”

Cụ Thứ và cụ Thát thực tế sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết
hôn nên không thể thừa hưởng thừa kế của nhau.

Vấn đề 2: Xác định con của người để lại di sản

2.1/ Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo pháp
luật: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”

2.2/ Trong trường hợp nào một người được coi là nuôi của người để lại di sản? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trường hợp một người được coi là con nuôi của người để lại di sản:

+ Nếu đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 mà
chưa đăng ký thì vẫn được chấp nhận là con nuôi thực tế.

+ Nếu đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng sau năm 1986 và trước năm 2001 mà chưa đăng
ký, nếu đủ điều kiện chuyển tiếp thì phải đăng ký kể từ ngày 1/1/2001 đến 31/12/2015
để trở thành con nuôi thực tế.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011quy định về
Đăng ký nuôi con nuôi thực tế: “1. Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa

5
công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu
đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì
được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.”

Và khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi năm 2010 về Điều kiện chuyển tiếp: “1.
Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực
mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn
05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm
phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;

b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả
hai bên còn sống;

c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như
cha mẹ và con.”.

2.3/ Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Trong Bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.

Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Mẹ đẻ của các bà là bà Nguyễn Thị Tý trước đây
có là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần trong khoảng 6 đến 7 năm, sau đó bà Tý về nhà
mẹ đẻ sinh sống”.

2.4/ Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?

Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần. Đoạn của bản án cho câu
trả lời là: “Xác định bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của cụ Thát, cụ Tần, cụ
Thứ”

6
2.5/ Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.

Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tý: Tòa án từ chối thừa nhận mối quan hệ nuôi
dưỡng giữa bà Tý và cụ Thứ, cụ Thát việc nuôi dưỡng chỉ trong thời gian ngắn (cụ thể
là khoảng 6 đến 7 năm, sau đó bà Tý về nhà mẹ đẻ và đi lấy chồng; trong lý lịch nhà cụ
Thát, cụ Tần cũng không ghi nhận bà Tý là con nuôi). Hướng giải quyết của Tòa án như
vậy là hợp lý vì việc nuôi con nuôi chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn như vậy
không đủ cơ sở để xác định đó là quan hệ con nuôi thực tế. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
vẫn có một số trường hợp con nuôi cũng được chấp nhận dù không có đăng ký.

2.6/ Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư
cách nào? Vì sao?

Tóm tắt Quyết định số 182: Nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng Nga kiện bị đơn ông
Phạm Văn Tùng và Võ Thị Tịnh về việc tranh chấp tài sản gắn liền quyền sử dụng
đất. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2008/DSST ngày 17-9-2008, Tòa án quyết định
chấp nhận 1 phần yêu cầu của bà Phạm Thị Hồng Nga đòi hiện vật. Tại Bản án dân sự
phúc thẩm số 97/2008/DS-PT ngày 10-12-2008, Tòa án quyết định sửa một phần bản
án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại Tòa Giám
đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án
dân sự phúc thẩm và dân sự sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp
luật.

Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách
là con nuôi, là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Vì ông Tùng đã ở cùng với 2 cụ từ nhỏ và là người chăm sóc và nuôi dưỡng 2 cụ khi
2 cụ già yếu.

7
2.7/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng.

Hướng xác định của Tòa án là cần phải thu thập, xác minh về lời khai của các nhân
chứng và lời khai của ông Tùng về việc hai cụ nuôi dưỡng ông và ông Tùng cũng là
người chăm sóc, nuôi dưỡng hai cụ khi già yếu thì phải coi ông Tùng là con nuôi của
haic cụ trên thực tế và nếu ông Tùng có yêu cầu được chia di sản của hai cụ, thì giải
quyết theo quy định của pháp luật. Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa án như vậy là
hợp lí, đảm bảo được quyền lợi cho người có quyền lợi là anh Tùng.

2.8/ Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật
hôn nhân và gia đình năm1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ
Dung không? Vì sao?

Nếu hoàn cảnh tương tự như Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hôn nhân và
gia đình năm 1986, anh Tùng không hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung. Vì căn cứ
theo Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Việc nhận nuôi con
nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con
nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”, thực tiễn ông Tùng là người do hai cụ chăm sóc
từ nhỏ và cũng là ngưởi chăm sóc, nuôi dưỡng hai cụ khi hai cụ già yếu, nhưng hai cụ
không đăng ký xác nhận ông Tùng là con nuôi nên vẫn không thể được hưởng thừa kế.

2.9/ Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Căn cứ vào điểm a khoản
1 Điều 676 BLDS 2015: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo
thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”

8
2.10/ Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?

Đó là đoạn: “Xác định cụ Thát có một người con là Nguyễn Thị Tiến.” và đoạn: “Bà
Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường Xuân La
cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phan Thị Thứ.”.

2.11/ Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.

Hướng giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến là hoàn toàn hợp lí, vì bà
Tiến có đủ bằng chứng, cơ sở xác minh rằng bà là con đẻ của cụ Thát và kể cả các anh
chị em cùng cha khác mẹ của bà cũng công nhận điều đó.

2.12/ Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người thừa
kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị
biết.

Trong hệ thống pháp luật nước Pháp thì con dâu, con rể là người thừa kế của cha mẹ
chồng, cha mẹ vợ.

“Trên cơ sở diện thừa kế, bộ luật dân sự Cộng Hòa Pháp chia thành các hàng thừa kế:

- Hàng thừa kế thứ nhất : Những người bề dưới (con của người đã chết không phân biệt
độ tuổi, giới tính, không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ).
- Hàng thừa kế thứ hai: Những người thừa kế phía trên, Nếu như không có những người
thừa ké trực tiếp phía dưới thì những người thừa kế trực tiếp phía trên sẽ thừa kế di
sản theo nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn và mỗi
người hưởng một xuất bằng nhau.
- …”1

Trong hàng thừa kế thứ nhất không có phân biệt con đẻ, con nuôi hay con dâu, con rể,
nên con dâu, con rể vẫn có thể được thừa kế di sản của cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ.

1
Tiểu luận Pháp luật về thừa kế của một số nước trên thế giới.

9
Vấn đề 3: Con riêng của vợ/chồng.

3.1/ Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?

Bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần. Vì ngoài cụ Tần cụ Thát còn có một người vợ
khác là cụ Thứ và có bốn người con là bà Bằng, bà Khiết, ông Bằng và ông Thăng.

3.2/ Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Căn cứ vào Điều 654 BLDS 2015 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”

3.3/ Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?

Bà Tiến không có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần. Vì căn cứ theo
Điều 679 BLDS 2005 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm
sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.” Thì trong
bản án không đề cập đến vấn đề bà Tiến và cụ Tần có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như mẹ con do đó bà Tiến không có đủ điều kiện để thừa kế di sản của cụ Tần.

3.4/ Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để thừa hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà
Tiến được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để thừa hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất, căn cứ theo Điều 679 BLDS 2005: “Con riêng và

10
bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì
được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và
Điều 677 của Bộ luật này.” và khoản 1 Điều 676 BLDS 2005: “1. Những người thừa kế
theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”

3.5/ Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần.

Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối với di sản của cụ Tần là hợp
lí. Vì chưa có đủ cơ sở xác định cụ Tần coi bà Tiến như con và không có cơ sở xác
minh mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con giữa cụ Tần và bà Tiến nên
bà Tiến không thuộc trường hợp Điều 679 BLDS 2005.

3.6/ Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của
con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.

Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế, nội dung Điều 654 BLDS
2015 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này” và Điều 653quy định Quan hệ
thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: “Con nuôi và cha nuôi,
mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều
651 và Điều 652 của Bộ luật này.”

Chế định này bất cập ở chỗ Điều 653 là quy định con nuôi nhưng Điều 654 quy định
về con riêng lại chỉ dẫn lên Điều 653, rõ ràng là hai khái niệm con nuôi và con riêng
hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, về Điều 654, “quy định này còn khá chung chung, khó
áp dụng. Do vậy, cần quy định rõ hơn các điều kiện về con riêng và bố dượng, mẹ kế

11
được hưởng thừa kế di sản của nhau như: Bắt đầu từ thời điểm nào, có cùng nơi cư trú
không, việc chăm sóc, nuôi dưỡng biểu hiện ra sao…”2

Vấn đề 4: Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba

4.1/ Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ
T5 không? Vì sao?

Tóm tắt Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018: Nguyên đơn là anh C1, người
đại diện ủy quyền là ông C2 kiện bị đơn là ông V, người đại diện ủy quyền là ông Đ
về việc tranh chấp quyền thừa kế. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2015/DS-ST ngày
29/12/2015 Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Sau đó ngày
11/01/2016, ông Đ kháng cáo. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2016 DS-PT ngày
03/6/2016, Tòa án quyết định chấp nhận nội dung kháng cáo của người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn, hủy bản án dân sự sơ thẩm trên. Ngày 12/7/2016, Tòa án nhân
thành phố H thụ lý vụ án và chuyển hồ sơ vụ án số 01/2016/QĐST-DS cho Tòa án
nhân dân Hà Tĩnh giải quyết theo thẩm quyền. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
03/2017/DSST ngày 14/6/2017, Tòa án quyết định bác yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn C1, chấp nhận yêu cầu của bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Ngày
26/6/2017, ông C2 kháng cáo. Tại Bản dân sự phúc thẩm số 69/2018/DSPT ngày
09/3/2018, Tòa án quyết định chấp nhận kháng cáo của anh C1 và chấp nhận 1 phần
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
03/2017/DS-ST ngày 14/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.

Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 sẽ được hưởng thừa kế của cụ T5.
Vì có đầy đủ chứng cứ xác minh quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc giữa chị C3 và cụ T5
(cụ thể phía gia đình bị đơn thừa nhận chị C3 được cụ T5 nhận nuôi năm 1979 và cụ T5
chăm sóc, nuôi dưỡng chị C3 đến tuổi trưởng thành, khi chị C3 đi học cụ T5 bỏ tiền
nuôi ăn học) và mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà T5 và chị C3 cũng được phía bị
đơn thừa nhận nên chị C3 sẽ được hưởng thừa kế theo Điều 654 BLDS 2015 nếu chị C3
còn sống.
2
Luật sư Võ Đình Hải – Đoàn luật sư Hà Nội, “Luật về thừa kế - nhiều quy định cần làm rõ”.

12
4.2/ Khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ Điều 652 BLDS 2015 quy định về thừa kế thế vị: “Trường hợp con của
người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

4.3/ Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa kế
thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo pháp
luật: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.”

Và Điều 652 BLDS 2015 quy định về thừa kế thế vị: “Trường hợp con của người để
lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

Thì vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa
kế thế vị.

13
4.4/ Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?

Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị của cụ
T5:

+ Nếu xét về phương diện hợp pháp thì hướng giải quyết của Tòa án hoàn toàn thuyết
phục. Vì chồng chị C3 không thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cũng không phải đối tượng
được nhận phần thừa kế theo Điều 651 và Điều 652 BLDS 2015 quy định.

+ Những nếu xét về phương diện hợp tình thì hướng giải quyết trên không được thỏa
đáng. Vì hai cháu là T7 và H4 là cháu của cụ T5 vẫn còn nhỏ, không hiểu biết về tài sản
cũng như quản lý tài sản, nên để cho chồng chị C3 thừa kế thế vị và giao trách nhiệm
dùng tài sản thừa kế đó để chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháu.

4.5/ Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố được
hưởng thừa kế thế vị không?

Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến con nuôi được quy định tại Điều 653 BLDS năm
2015: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa
kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”. Quy định này vẫn
còn khá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau như trong đó có 1 cách hiểu là
“khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để
lại di sản, thì con đẻ của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không?”. Tại
tiểu mục b Mục 5 Nghị quyết số 02/HĐTP quy định: “Trong trường hợp con nuôi chết
trước cha nuôi, mẹ nuôi, thì con của người nuôi (tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi)
được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha, mẹ của chắt được hưởng nếu cha, mẹ của chắt
còn sống vào thời điểm mở thừa kế”. Do đó, theo cách nghĩ trên thì con đẻ của người
con nuôi đó được hưởng thừa kế thế vị.3

3
Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, “Một số vướng mắc về người thừa kế theo pháp luật và đề xuất, kiến nghị”.

14
Có quan điểm cho rằng trường hợp “khi con nuôi của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con đẻ của người con nuôi đó có
được hưởng thừa kế thế vị không?” được hưởng thừa kế thế vị.4

Các tác giả trên cho rằng, con nuôi của con đẻ không thể mặc nhiên là cháu của
người chết vì quan hệ gia đình xuất phát từ các quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng. Tuy nhiên, quan hệ giữa con nuôi với cha đẻ của bố nuôi không có một
trong các mối quan hệ trên, vì vậy người con nuôi không thể là người thừa kế của
những người khác trong gia đình cha, mẹ nuôi. Ngược lại, con đẻ của người con nuôi sẽ
là cháu gọi người chết là ông hoặc bà, vì vậy họ có quyền thừa kế của nhau.5

4.6/ Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5?

Đoạn cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5:
“Chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất của bà T5 theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005. Năm 2002, chị C3 kết hôn với anh Thiều Văn C1
và vợ chồng có hai con chung là cháu Thiều Thụy Thùy T7 (sinh năm 2002) và cháu
Thiều Đỗ Gia Huy (sinh năm 2004). Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009)
cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và H4 được thừa kế thế vị di sản của bà T5
theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự 2005.”

4.7/ Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế
thế vị của cụ T5.

Việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là hoàn toàn
hợp tình, hợp lí. Vì quan hệ mẹ nuôi, con nuôi của chị C3 và cụ T5 mặc dù không có
đăng ký nhưng có đủ căn cứ xác minh mối quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc và phía bị
đơn cũng thừa nhận mối quan hệ đó. Và căn cứ tại tiểu mục b Mục 5 Nghị quyết số

4
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
tr. 328 – 329.
5
(1) Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao – Đồng chủ biên (2001), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr. 115.
(2) Nguyễn Minh Tuấn – Chủ biên (2016), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 960 – 961.

15
02/HĐTP quy định: “Trong trường hợp con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi, thì con
của người nuôi (tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ
cha, mẹ của chắt được hưởng nếu cha, mẹ của chắt còn sống vào thời điểm mở thừa
kế”.

4.8/ Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thừa kế thế vị như sau:

“Điều 652. Thừa kế thế vị

Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người
để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di
sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.”

Trường hợp thừa kế thế vị được quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu
trên, thuộc Chương XXIV quy định về thừa kế theo pháp luật. Do đó, thừa kế thế vị
không áp dụng đối với trường hợp thừa kế theo di chúc quy định tại Chương XXIII. 6

4.9/ Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế
theo di chúc không? Vì sao?

Theo tôi không nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo
di chúc. Vì Theo tôi không nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc. Vì thừa kế thế vị chỉ phát sinh từ thừa kế theo pháp luật mà không phát
sinh từ thừa kế theo di chúc.

Căn cứ theo Ðiều 624. Di chúc:

“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.”

6
Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA.

16
Điều 652 BLDS 2015 về thừa kế thế vị:

“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu
được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu còn sống.”

Theo tinh thần của điều luật trên, thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi người được thế vị
(con hoặc cháu) chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản (ông, bà hoặc
cụ). Vì thế có thể hiểu, thừa kế thế vị là việc cháu hoặc chắt được hưởng di sản của ông,
bà hoặc cụ với tư cách thay thế vị trí của người cha hoặc người mẹ của mình để nhận
phần di sản mà cha hoặc mẹ của mình được hưởng nếu còn sống.

Thừa kế theo di chúc là phần tài sản đó sẽ được chia theo ý nguyện của người để lại
di sản, người để lại di sản muốn chia cho ai thì người đó mới có quyền được hưởng và
nếu người được hưởng đó không còn sống thì di chúc đó mới vô hiệu và phần di sản đó
được mang ra để chia theo pháp luật thì lúc này người con mới đương nhiên có suất
hưởng thừa kế phần di sản đó. Và nếu người con này chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người để lại di sản thừa kế thì cháu (chắt) của người con này mới được hưởng
thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị là một chế định của pháp luật nhằm bảo về quyền lợi cho
những người thân thuộc nhất của người để lại di sản, tránh trường hợp di sản của ông
mà mà cháu không được hưởng lại để cho người khác hưởng. Ngoài ra, cũng như những
người thừa kế khác, người thừa kế thế vị không được hưởng di sản nếu họ từ chối nhận
di sản hoặc bị truất quyền hưởng di sản theo quy định tại điều 620 và điều 621 Bộ luật
Dân sự 2015. Nên nếu chúng ta áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc thì chúng ta đã làm trái lại ý chí của người lập di chúc, trái với quy định
của pháp luật.

Việc thừa kế kế vị sẽ làm thay đổi ý chí của người để lại di chúc mà thừa kế theo di
chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân của người để lại di chúc trước khi chết.

17
Cho nên, việc áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo di chúc
là vi phạm quy định về thừa kế theo di chúc, không phù hợp.7

4.10/ Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?

Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo
pháp luật:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.”

4.11/ Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?

Trong vụ việc trên không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế. Căn cứ vào khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo
pháp luật: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;” cụ T5 là người không có chồng, chỉ có một người con nuôi là
chị C3, ba mẹ cụ là cụ M và cụ L cũng đều đã qua đời trước đó, nên ngoài chị C3 thì
không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất tại thời điểm mở thừa kế.

7
Th.S Đoàn Thị Ngọc Hải, “Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật dân sự”, tạp chí tòa án.

18
4.12/ Trong vụ việc trên có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao?

Trong vụ việc trên còn có bà T2 thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo pháp
luật:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;”

Cụ T5 có cả thảy 6 anh chị em ruột, nhưng chỉ còn mỗi bà Đỗ Thị T2 là còn sống,
ông bà ngoại, ông bà nội cũng không còn. Như vậy tại thời điểm mở thừa kế, còn có bà
T2 thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5.

4.13/ Cuối cùng Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên?
Vì sao?

Cuối cùng Tòa án không áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc trên. Vì Tòa án
quyết định công nhận cháu T7 và cháu T4 được quyền thừa hưởng toàn bộ di sản của cụ
T5, không đề cập đến vấn đề bà T2 có được hưởng một phần tài sản nào hay không.

4.14/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên (áp
dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai).

Tôi đồng tình với hướng giải quyết của Tòa án không nên áp dụng quy định về hàng
thừa kế thứ hai. Vì việc chia di sản theo pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

+ Một là, thứ tự ưu tiên được chia di sản thừa kế lần lượt từ hàng thừa kế thứ nhất; thứ
hai và cuối cùng là hàng thừa kế thứ ba. Những người thuộc hàng thừa kế tiếp theo chỉ
được hưởng khi không còn ai thuộc hàng thừa kế trước do đã chết; không có quyền
hưởng di sản; bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

19
+ Hai là, trong trường hợp người thừa kế thuộc hàng thừa kế chết hết nhưng họ có con,
cháu thì áp dụng thừa kế thế vị cho đối tượng đó chứ chưa chuyển sang hàng thừa kế
tiếp theo.8

8
Thư viện pháp luật, “Bí kíp chia di sản thừa kế đúng luật”.

20

You might also like