You are on page 1of 13

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (ký cược, ký quỹ,

bảo lãnh, tín chấp, đặt cọc)

Khái quát chung về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Việc xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự trước hết
trên cơ sở sự tự giác của các bên. Nhưng trên thực tế không phải bất cứ ai tham gia
giao dịch dân sự đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ
của mình.Để tạo được thế chủ động cho người có quyền trong các quan hệ nghĩa vụ
được hưởng quyền dân sự, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận đặt ra các
biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng,cũng như việc thực hiện nghĩa vụ. Thông
qua các biện pháp này người có quyền có thể chủ động tiến hành các hành vi của
mình tác động trực tiếp đến tài sản của phía bên kia nhằm làm thỏa mãn quyền lợi
của mình, khi đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đó.

- Về nguyên tắc thì vật bảo đảm nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu hoặc
thuộc quyền sử dụng, quản lý và xác định được giá trị, số lượng tài sản của bên bảo
đảm .

- Chuyển giao, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp và các giao dịch khác.

- Tài sản không có tranh chấp, tức là tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng, quản lý của bên bảo đảm.

- Không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.

- Tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì bên bảo đảm phải mua bảo
hiểm tài sản trong thời hạn bảo đảm tiền vay.
• Không phải mọi sự thỏa thuận nào cũng là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự

• Sự bảo đảm phải được pháp luật quy định

• Đối tượng của biện pháp bào đảm : Lợi ích vật chất

- Tài sản bảo đảm không có tranh chấp

- Tài sản bảo đảm phải hợp pháp được phép giao dịch

=> Tài sản : vật , tiền , giấy tờ có giá , quyền tài sản.

• Các biện pháp bảo đảm mang tính chất dự phòng , chỉ được áp dụng khi quan hệ
nghĩa vụ chính không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng.

Bảo lãnh.

Khái niệm : Theo quy định tại điều 361 BLDS 2005 : “ bảo lãnh là việc người thứ
ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh ) cam kết với bên có quyền ( sau đây được gọi là
bên nhận bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( sau đây được
gọi là bên được bảo lãnh ), nếu khi hết thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình ” .

2. Đặc điểm :
- Đây là biện pháp có tính chất đối nhân ( quan hệ trái quyền ) : Người bảo lãnh
cam kết thực hiện nghĩa vụ thay khi người được bảo lãnh thực hiện không đúng
hoặc không thực hiện nghĩa vụ.
3. Căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định,
bao gồm các trường hợp sau đây:

Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh;

Bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh trước thời hạn
do vi phạm nghĩa vụ đó, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ;

Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường
hợp các bên có thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ;

Các căn cứ khác, nếu pháp luật có quy định.

Ký cược

Cũng giống như cầm cố tài sản,thế chấp tài sản,đặt cọc, ký cược cũng là một biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Khái niệm

Khoản 1 Điều 359 bộ luật Dân sự năm 2005 quy định : “ Ký cược là việc bên thuê
tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí,đá quí
hoặc vật có giá trị khác ( sau đây gọi là tài sản ký cược ) trong một thời hạn để bảo
đảm việc trả lại tài sản cho thuê ”

Ví dụ:
A thuê xe máy của B trong 5 ngày . A giao cho B khoản tiền 10 triệu đồng ( tài sản
ký cược ) để đảm bảo việc A trả lại xe máy cho thuê và tiền thuê xe máy cho B.

Tính chất của ký cược.

Ký cược là hợp đồng phụ cho hợp đồng chính là hợp đồng thuê tài sản có đối tượng
là động sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng thuê đối với bên cho thuê .Xét về tính
chất thì ký cược vừa mang tính chất của cầm cố,vừa mang tính chất của đặt cọc.

Tính chất của ký cược so với cầm cố.

Tính chất của cầm cố thể hiện ở việc giao tài sản bảo đảm cho bên cho thuê, để bảo
đảm nghĩa vụ và là khoản tiền mà nếu bên thuê không thực hiện nghĩa vụ ,thì người
đưa tiền sẽ mất số tiền đó.Nhưng cầm cố thường theo hướng ngược lại : Người đưa
vật để nhận tiền , còn ký cược là đưa tiền để nhận vật.

Ví dụ:

- A cầm cố một chiếc laptop cho B để lấy 5 triệu đồng

- H giao N khoản tiền 10 triệu đồng để thuê xe máy của N trong 5 ngày

Tuy nhiên tài sản bên ký cược đưa cho bên nhận ký cược phải tương đương với giá
trị tài sản cho thuê, do đó ký cược thông thường được áp dụng đối với hợp đồng có
giá trị nhỏ.

Tính chất của ký cược so với đặt cọc.


Tính chất đặt cọc cũng xác định tương tự do ký cược cũng đưa tài sản để bảo đảm
thực hiện hợp đồng,tuy nhiên khoản tiền đặt cọc không lớn so với giá trị hợp
đồng.Trong khi khoản ký cược tương đương với giá trị tài sản cho thuê

Chủ thể trong quan hệ ký cược.

Chủ thể của ký cược là những người tham gia vào quan hệ ký cược, gồm bên ký
cược và bên nhận ký cược – đây cũng chính là chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ dân
sự mà biện pháp ký cược được áp dụng để bảo đảm. Bên có nghĩa vụ trong quan hệ
nghĩa vụ chính là bên ký cược, bên có quyền là bên nhận ký cược. Chủ thể của quan
hệ ký cược có thể là cá nhân,pháp nhân,hộ gia đình,tổ hợp tác,dù là chủ thể nào
cũng phải thỏa mãn nhưng quy định liên quan đến yếu tố chủ thể ( có đầy đủ năng
lực hành vi ).

Đối tượng của ký cược.

BLDS năm 2005 quy định đối tượng của ký cược là động sản được phép giao
dịch.Bởi theo các nhà làm luật thì chỉ có tài sản là động sản ( di dời được) mới có
thể giao nhận giữa bên nhận ký cược và bên ký cược

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ký cược.

Khoản 2 điều 359 LDS năm 2005 quy định :

“ Trong trường hợp tài sản cho thuê được trả lại,thì bên thuê nhận được tài sản ký
cược sau khi trừ tiền thuê ; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì bên cho thuê
có quyền đòi lại tài sản thuê,nếu tài sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký cược
thuộc về bên cho thuê ”.

Ví dụ :
A thuê xe máy của B trong 5 ngày . A giao cho B khoản tiền 10 triệu đồng ( tài sản
ký cược ) để đảm bảo việc A trả lại xe máy đã thuê và tiền thuê xe máy cho B :

+Trường hợp 1 : Sau 5 ngày A trả lại xe máy thuê của B. A sẽ nhận được lại được
10 triệu đồng (tiền ký cược ) sau khi trừ tiền thuê

+Trường hợp 2 : Nếu sau 5 ngày A không trả lại xe máy đã thuê . B có quyền đòi lại
chiếc xe máy đã A đã thuê.Nếu chiếc xe máy đó mất hoặc A không trả lại thì 10
triệu đồng ( tiền ký cược ) sẽ thuộc về B.

Quyền và nghĩa vụ của bên ký cược

5.1.1. Nghĩa vụ của bên ký cược.

Thanh toán cho bên nhận bên nhận ký cược chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài
sản ký cược, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản ký cược cho bên nhận ký cược đối với
tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu trong trường hợp tài sản
đó được chuyển quyền sở hữu cho bên nhận ký cược theo quy định của pháp luật
hoặc theo thoả thuận.

5.1.2. Quyền của bên ký cược.

Bên ký cược có quyền yêu cầu bên nhận ký cược ngừng việc sử dụng tài sản ký
cược, nếu do sử dụng mà tài sản có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.

Quyền và nghĩa vụ của bên nhận ký cược

Nghĩa vụ của bên nhận ký cược.


Bảo quản, giữ gìn tài sản ký cược; không được khai thác, sử dụng tài sản đó, trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác.

Không được xác lập giao dịch đối với tài sản ký cược, trừ trường hợp bên ký cược
đồng ý.

Quyền của bên nhận ký cược.

Bên nhận ký cược có quyền sở hữu tài sản ký cược trong trường hợp tài sản thuê
không còn để trả lại cho bên nhận ký cược, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Tín chấp.
1. Khái niệm

- Theo Điều 372 BLDS năm 2005 “tín chấp là việc tổ chức chính trị xã hội tại cơ sở
bằng uy tín của mình bảo đảm cho cá nhân , hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền
tại tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính
phủ”.

2. Đặc điểm.

- Cá nhân, hộ gia đình nghèo được bảo đảm bằng tín chấp phải là thành viên của
một trong các tổ chức chính trị xã hội theo quy định tại điều 50 nghị định của Chính
phủ số 163/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 12 năm 2006 về giao dịch đảm bảo đó là:

+ Hội nông dân Việt Nam

+ Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam

+ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh


+ Hội Cựu chiến binh Việt Nam

+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

- Hợp đồng cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản, trong
đó phải ghi rõ số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất, quyền và nghĩa vụ
trách nhiệm của người vay cũng như của bên cho vay và người bảo đảm.

Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.

3.1 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức chính trị xã hội

- Quyền của tổ chức chính trị - xã hội: tổ chức chính trị - xã hội có quyền từ chối
bảo đảm bằng tín chấp, nếu xét thấy cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng
sử dụng vốn vay để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín
dụng.

- Nghĩa vụ của tổ chức chính trị - xã hội:

+ Xác nhận theo yêu cầu của tổ chức tín dụng về điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân,
hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó.

+ Chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn, tạo
điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn; giám sát việc sử dụng vốn vay
đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín dụng.

3.2. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng

- Quyền của tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu tổ chức chính trị -
xã hội bảo đảm bằng tín chấp phối hợp trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay và đôn
đốc trả nợ
- Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phối hợp với tổ chức
chính trị - xã hội bảo đảm bằng tín chấp trong việc cho vay và thu hồi nợ.

3.3. Nghĩa vụ của bên vay vốn

Bên vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết, tạo điều kiện thuận
lợi cho tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị - xã hội kiểm tra việc sử dụng vốn vay.
trả nợ đầy đủ gốc và lãi vay đúng hạn cho tổ chức tín dụng.

Ký quỹ

Khái niệm

Theo qui định tại Điều 360 Bộ luật dân sự 2005: '' Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ
gửi một khoản tiền,kim khí,đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong tỏa
của một ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự ”.

Đặc điểm

Như vậy , từ qui định tại Điều 360 Bộ luật dân sự 2005 ta có thể rút ra một số nhận
xét sau:

Mục đích.

Ký quỹ cũng như một số hình thức khác: cầm cố tài sản,bảo lãnh,ký cược,tín
chấp,đặt cọc đều nhằm mục đích bảo đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự khi bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với người có
quyền.

Tính chất.
Nghĩa vụ phát sinh từ biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự theo hình thức ký quỹ là
nghĩa vụ phụ (phụ thuộc vào nghĩa vụ chính). Không phát sinh khi nghĩa vụ chính
được thực hiện.

=>Nó là một quan hệ pháp luật dân sự.

Đối tượng

Theo khoản 1 Điều 360 đó là: Tiền, kim khí, đá quý, giấy tờ khác nghĩa là đây là
những lợi ích vật chất.

Khoản tiền, kim khí, đá quý hoặc giấy tờ co giá được gửi vào ngân hàng có thể giá
trị của nó sẽ lớn hơn rất nhiều lần phạm vi nghĩa vụ phải thực hiện nhưng khi mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hay thực hiện không đúng thì cũng chỉ sử
dụng giá trị các tài sản này để giải quyết trong phạm vi nghĩa vụ phát sinh còn số
giá trị tài sản còn lại khi đã thực hiện xong nghĩa vụ thì vẫn thuộc quyền sở hữu của
người có nghĩa vụ.

Biện pháp bảo đảm bằng hình thức ký quỹ phát sinh khi có sự thỏa thuận giữa bên
có quyền và bên có nghĩa vụ.

Sự thỏa thuận này không chỉ được thể hiện ở chỗ giữa người có quyền và nghĩa vụ
đã thỏa thuận biện pháp bảo đảm là ký quỹ mà còn được thể hiện ở chỗ:

Đối tượng ký quỹ là tài sản gì ( tiền, vàng, giấy tờ có giá, hay các vật có giá trị
khác) hai bên có thể thỏa thuận để đi tới thống nhất dùng loại tài sản nào để ký quỹ
ký quỹ ở ngân hàng nào và ký quỹ bao nhiêu.

Đặc trưng của biện pháp bảo đảm bằng ký quỹ :


Biện pháp ký quỹ có mặt của một chủ thể trung gian trong quan hệ pháp luật dân sự
này. Đó là sự có mặt của ngân hàng.

Mục đích : Nhằm đảm bảo độ an toàn cao cho các bên. Nghĩa là đảm bảo quyền lợi
của các bên được thực hiện.

Chính vì vậy, khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ hoặc thực hiện
không đúng thì khi đó vai trò của ngân hàng là đứng ra dùng tài sản đã được ký
cược trước đó để thanh toán cho bên có quyền. Khi đó ngân hàng cũng có quyền thu
một khoản chi phí dịch vụ ngân hàng từ tài khoản đã được ký cược.

Ví dụ:

Ngày 1/5/2011,anh A có mua của B một bộ bình cổ có giá trị 20 triệu đồng nhưng
do lúc đó anh A chưa có tiền mặt, đã thỏa thuận với anh B đến 1/8/2011 sẽ giao cho
anh B toàn bộ số tiền trên và để tạo sự tin tưởng cho B,A đã dùng 5 chỉ vàng đến
ngân hàng C mở tài khoản để đưa số vang này vào tài khoản tại ngân hàng.

Phân tích:

Trong tình huống trên mục đích của việc ký quỹ tại ngân hàng của anh A nhằm đảm
bảo việc hoàn trả lại số tiền cho anh B đúng ngày 1/8/2011.

Đối tượng của ký quỹ là : Vàng

số lượng:5 chỉ

ký quỹ ở ngân hàng C

=>việc thỏa thuận giữa A và B


Nếu đến ngày 1/8/2011,anh A đã trả cho anh B số tiền 20 triệu đồng thì biện pháp
bảo đảm nghĩa vụ bằng ký quỹ không phát sinh.

Nếu đến ngày 1/8/2011,anh A không thực hiện việc giao trả cho anh B 20 triệu
đồng,khi đó ngân hàng C có nhiệm vụ dùng 5 chỉ vàng này để đảm bảo quyền lợi
cho B,cùng với đó ngân hàng C sẽ thu một khoản chi phí từ giá trị của 5 chỉ vàng
của anh A,nếu sau khi đã thanh toán cho anh B và ngân hàng cũng thu chi phí dịch
vụ thì số tiền còn dư sẽ trả lại cho anh A.

Đặt cọc

1. Khái niệm

Theo khoản 1 Điều 358 BLDS năm 2005 “ Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia
một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài
sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự”.

2. Nội dung

- Đối tượng của đặt cọc là những vật mà một bên giao trực tiếp cho bên kia. Đối
tượng của đặt cọc vừa mang chức năng bảo đảm, vừa mang chức năng thanh toán.
Do vậy việc đặt cọc phải được lập thành văn bản, trong đó xác định rõ số tiền đặt
cọc hay số tài sản đặt cọc, …

- Khi hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiên thì tài sản đặt cọc được trả lại cho
bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền.

+ Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt
cọc thuộc về bên nhận đặt cọc.
+ Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả
cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt
cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

- Trong trường hợp một bên trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền mà các
bên không xác định rõ là tiền đặt cọc hoặc tiền trả trước thì số tiền này được coi là
tiền trả trước.

=> Bản chất: Đặt cọc chính là việc giao vật trong một thời hạn để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.

You might also like