You are on page 1of 86

BÀI TẬP 1: HÌNH

THỨC CỦA DI CHÚC


Câu 1: Điều kiện về hình
thức để di chúc tự viết tay có
giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
Trả Lời:
Điều kiện về hình thức để di
chúc tự viết tay có giá trị
được thể hiện ở Điều 633_
BLDS
2015_Di chúc bằng văn bản
không có người làm chứng:
“Người lập di chúc phải tự
tay
viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn
bản không có người làm
chứng
phải tuân theo quy định tại
Điều 631 của Bộ luật này”.
Điều kiện để lập di chúc theo
thể
thức này là: Người lập di
chúc phải có năng lực lập di
chúc và phải minh mẫn sáng
suốt
vào thời điểm lập di chúc.
Người lập di chúc phải là
người bình thường không bị
khiếm
khuyết thể chất liên quan đến
các chức năng đọc, viết,
nghe, nói, ký tên, điểm chỉ
(như
câm, điếc, mù,cụt tay, mù
chữ).
Câu 2: Nếu di chúc của ông
Này là di chúc phải có người
làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc
của ông Này có là người làm
chứng hợp pháp không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả Lời:
- Nếu di chúc của ông Này là
di chúc phải có người làm
chứng thì những người đã
làm
chứng di chúc của ông Này
không phải là người làm
chứng hợp pháp.
- Căn cứ vào Điều 632_
BLDS 2015_Người làm
chứng cho - Và Điều
651_BLDS
2015_Người thừa kế theo
pháp luật:việc lập di chúc:
“Mọi người đều có thể làm
chứng
cho việc lập di chúc, trừ
những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật của
người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ
tài sản liên quan tới nội dung
di chúc.
3. Người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn
trong
nhận thức, làm chủ hành vi.”
“1. Những người thừa kế theo
pháp luật được quy định theo
thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con
nuôi của người chết
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm:
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm:
cụ nội, cụ ngoại của người
chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột,
cô ruột, dì ruột của người
chết; cháu ruột của người
chết mà người chết là bác
ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột; chắt ruột của người chết
mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
2. Những người thừa kế cùng
hàng được hưởng phần di sản
bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa
kế sau chỉ được hưởng thừa
kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết,
không có quyền hưởng di
sản, bị truất quyền hưởng di
sản hoặc
từ chối nhận di sản”.
- Mà theo Bản án số
83/2009/DSPT, những người
đã làm chứng di chúc cho
ông Này là
cha, em gái và em trai ông
Này. Và ba người này rơi vào
trường hợp không được làm
chứng di chúc theo Khoản
1_Điều 632_BLDS 2015, họ
là những người thừa kế theo
pháp luật của ông Này. Cha
ông Này thuộc hàng thừa kế
thứ nhất, em trai và em gái
thuộc hàng thừa kế thứ hai,
căn cứ theo Điều 651_BLDS
2015.
Câu 3: Di chúc của ông Này
có là di chúc do ông Này tự
viết tay không? Vì sao?
Trả Lời:
- Di chúc của ông Này là di
chúc do ông tự viết tay.
- Vì di chúc đã tuân thủ theo
những quy định về hình thức
được quy định tại Điều 633_
BLDS 2015: “Người lập di
chúc phải tự tay viết và ký
vào bản di chúc”. Thêm vào
đó,
lúc lập di chúc ông Này còn
minh mẫn, sáng suốt, không
bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng
ép.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị
về hướng giải quyết trên của
Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi
đây là di chúc do ông Này tự
viết tay.
Trả Lời:
- Hướng giải quyết trên của
tòa án hoàn toàn hợp lý.
- Bởi vì di chúc của ông Này
tự tay viết và ký vào bản di
chúc. Việc lập di chúc bằng
văn
bản không có người làm
chứng tuân theo quy định tại
Điều 631_BLDS 2015_ Nội
dung
của di chúc:
“1. Di chúc gồm các nội dung
chủ yếu sau
a) Ngày, tháng, năm lập di
chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của
người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ
chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di
sản.
2. Ngoài các nội dung quy
định tại khoản 1 Điều này, di
chúc có thể có các nội dung
khác.
3. Di chúc không được viết
tắt hoặc viết bằng ký hiệu,
nếu di chúc gồm nhiều trang
thì
mỗi trang phải được ghi số
thứ tự và có chữ ký hoặc
điểm chỉ của người lập di
chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy
xóa, sửa chữa thì người tự
viết di chúc hoặc người làm
chứng di chúc phải ký tên
bên cạnh chỗ tẩy xoá, sửa
chữa”.
Câu 5: Di chúc của cụ Hựu
đã được lập như thế nào?
Trả lời:
Di chúc của cụ Hựu đã được
lập như sau: Ngày
25/11/1998, di chúc là do cụ
Hựu đọc
cho ông Vũ viết, cụ Hựu
điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ
Thị Quy (là mẹ của ông Vũ)
ký tên,
làm chứng, sau đó ngày
04/01/1999 bà Lựu mang di
chúc đến cho ông Hoàng Văn
Thưởng (là Trưởng thôn) và
Ủy ban nhân dân xã ai Lâm
xác nhận.
Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ
không? Đoạn nào của Quyết
định 874 cho câu trả lời?
Trả lời:
- Cụ Hựu không biết chữ.
- Trong phần Xét thấy của
Quyết định số 874 có câu:
“Ông Quang xác định cụ Hựu

người không biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người
không biết chữ phải thỏa mãn
các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy
định của pháp luật?
Trả Lời:
- Đối với người để lại di sản
không thể tự mình viết di
chúc do bị mù chữ thì pháp
luật
quy định người này phải lập
di chúc bằng văn bản, theo
thủ tục công chứng, chứng
thực.
Đồng thời phải lập, công
chứng, chứng thực di chúc
phải có người làm chứng thì
di chúc
mới có hiệu lực.
Theo Khoản 3 Điều 630
BLDS 2015 về di chúc hợp
pháp: “Di chúc của người bị
hạn
chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải
được người làm chứng lập
thành văn
bản và có công chứng hoặc
chứng thực”.
- Và Khoản 1 của điều luật
này: “Di chúc hợp pháp phải
có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh
mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc; không bị lừa dối, đe
doạ,
cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc
không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã
hội;
hình thức di chúc không trái
quy định của luật”.
Câu 8: Các điều kiện nào nêu
trên đã được đáp ứng đối với
di chúc của cụ Hựu?
Trả Lời: Các điều kiện đã
được đáp ứng đối với di chúc
của cụ Hựu là:
- Di chúc của cụ Hựu đã
được lập thành văn bản (do
cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết).
- Di chúc của cụ Hựu đã
được công chứng hoặc chứng
thực (được trưởng thôn là
ông
Thưởng và Uỷ ban nhân dân
xã Mai Lâm xác nhận).
Câu 9: Các điều kiện nào nêu
trên đã không được đáp ứng
đối với di chúc của cụ
Hựu?
Trả Lời: Các điều kiện không
được đáp ứng đối với di chúc
của cụ Hựu là: Qua giám
định dấu vân tay của cụ Hựu
tại bản di chúc thì Viện khoa
học hình sự Tổng cục cảnh
sát
kết luận dấu vân tay mờ
không thể hiện rõ các đặc
điểm riêng nên không đủ yếu
tố giám
định.
Câu 10: Theo anh/chị, di
chúc nêu trên có thỏa mãn
điều kiện về hình thức
không?
Vì sao?
Trả lời: Theo nhóm, di chúc
trên chưa hoàn toàn thỏa mãn
các điều kiện về hình thức.

qua giám định dấu vân tay
của cụ Hựu tại bản di chúc
thì Viện khoa học hình sự
Tổng
cục
cảnh sát kết luận dấu vân tay
mờ không thể hiện rõ các đặc
điểm riêng nên không đủ yếu
tố giám định. Thêm vào đó,
người làm chứng và người
mang đi công chứng là hai
người
khác nhau. Do vậy, không có
đủ yếu tố xác đinh di chúc
này thể hiện đúng ý chí của
cụ
Hựu.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị
về các quy định trong BLDS
liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết
chữ
Trả Lời:
- Quy định trong BLDS liên
quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ còn
rất
sơ sài, chưa quy định kĩ.
- BLDS quy định về việc
công chứng và chứng thực
của di chúc nhưng không nêu
người
đi công chứng hoặc chứng
thực là ai. Vì vậy, nên bổ
sung thêm quy định này vào
chế
định di chúc của người không
biết chữ. Theo đó, người đi
công chứng hoặc chứng thực
phải là người lập di chúc
hoặc là người thể hiện ý chí
của người lập di chúc thành
văn
bản để đảm bảo sự rõ ràng,
chính xác của di chúc, để
tránh sự thay đổi di chúc
không
đúng với ý chí của người lập
di chúc. Từ đó, tránh các
tranh chấp sảy ra trên thực tế.
Bài 2 : Tài sản được
định đoạt theo di chúc
Câu 1: Cụ Hương đã định
đoạt tài sản nào? Đoạn nào
của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
Trả lời:
- Cụ Hương đã định đoạt
toàn bộ nhà đất là tài sản
chung của cụ Hương và cụ
Quý.
- Quyết định số 359 có
đoạn ghi rằng: “Ngày
06/04/2009 cụ Nguyễn Văn
Hương
chết, để lại di chúc có nội
dung chia toàn bộ ăn nhà
và đất số 302 Nguyễn
Thượng
Hiền, phường 5, quận Phú
Nhuận cho 5 người chon
là: Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc
Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng,
Quảng Thị Kiều (vợ
Nguyễn
Hữu Trí), di chúc được
công chứng tại phòng công
chứng số 4 thành phố Hồ
Chí
Minh ngày 16/01/2009.
Câu 2: Đoạn nào của
Quyết định số 359 cho thấy
tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản
chung của vợ chồng cụ
Hương?
Trả lời:
Trong Quyết định có ghi là:
“Tuy nhiên, về nội dung thì
di chúc chỉ có giá trị một
phần bởi nhà đất trên là tài
sản chung của vợ chồng cụ
Hương và cụ Quý.
Câu 3: Tòa án đã công
nhận phần nào của di chúc?
Đoạn nào của Quyết định
số 359 cho câu trả lời?
Trả lời:
- Tòa án đã công nhận một
phần di chúc. Cụ thể là một
phần đối với tài sản của
cụ Hương (1/2 nhà đất).
- Quyết định ghi rằng: “Vì
vậy, Tòa án cấp sơ thẩm
xét xử di chúc của cụ
Nguyễn Văn Hương có
hiệu lực một phần đối với
tài sản của cụ Hương (1/2
nhà
đất) nên được chia đều cho
5 người con là các ông bà
Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc
Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng,
Quảng Thị Kiều (vợ
Nguyễn
Hữu Trí)…
Câu 4: Suy nghĩ của anh
chị về hướng giải quyết
trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Trả lời:
- Hướng giải quyết trên của
Tòa giám đốc thẩm về việc
chia di sản của cụ Quý
là phù hợp với quy định
pháp luật.
- Dưới góc độ của Bộ luật
Dân sự năm 2015, Điều
612 của Bộ luật này
quy định về di sản:“Di sản
bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài
sản của người chết trong tài
sản chung với người khác”.
Trong trường hợp
của cụ Quý và cụ Hương,
tài sản thuộc sở hữu chung
của cả hai người.
Trước khi chết, cụ Hương
cũng không có tài sản riêng
nên chỉ có phần tài
sản trong tài sản chung với
cụ Quý của cụ Hương mới
được coi là di sản. Cụ
Hương chỉ có quyền định
đoạt phần đó. Vì vậy, việc
Tòa xác định chỉ có
1
/
2
nhà đất được chia cho 5
người thừa kế là phù hợp
với quy định trên của pháp
luật.
- Khoản 1 Điều 644 của Bộ
luật này cũng quy định về
Người thừa kế
không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc:“Những
người sau đây vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp
luật nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được
người lập di chúc cho
hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn
hai phần ba suất đó:
1. Con chưa thành niên,
cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con thành niên mà
không có khả năng lao
động”.
- Cụ Quý không thuộc
trường hợp tại Điều 620 và
Khoản 1, Điều 621 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Khi cụ Hương chết, cụ Quý
là vợ của cụ Hương
cũng không được cụ
Hương là người lập di chúc
cho hưởng di sản. Vì vậy,
việc Tòa án xác định chia
cho cụ Quý 2/3 suất thừa
kế theo pháp luật là hoàn
toàn phù hợp.
Câu 5 :Nếu cụ Quý chết
trước cụ Hương, phần nào
của di chúc có giá trị
pháp lý? Nêu cở sở pháp lý
khi trả lời.
- Nếu cụ Quý chết trước cụ
Hương thì toàn bộ phần di
chúc của cụ Hương có giá
trị pháp lý đối với phần tài
sản của cụ Hương được
hưởng từ phần thừa kế theo
pháp luật khi cụ Quý chết.
Vì căn cứ theo Khoản 1,
Điều 33, Luật Hôn nhân và
gia
đình 2014 quy định:“Tài
sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng
tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất, kinh doanh,
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng và thu nhập
hợp pháp khác trong thời
kỳ hôn nhân, trừ trường
hợp
được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài
sản mà vợ chồng được thừa
kế chung hoặc được tặng
cho chung và tài sản khác
mà vợ chồng thỏa thuận là
tài
sản chung
Quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ
hoặc chồng được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua
giao dịch bằng tài sản
riêng.”
Theo đó, sau khi cụ Quý
chết, đối với tài sản chung
của vợ chồng thì
1
/
2
còn lại là
của cụ Quý. Căn cứ vào
quy định của Điểm a,
Khoản 1, Điều 650, BLDS
2015 về
Những trường hợp thừa kế
theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật
được áp dụng trong những
trường hợp sau đây:
a. Không có di chúc;”
- Và quy định của Điểm a,
khoản 1, điều 651, BLDS
2015 về Hàng thừa kế thứ
nhất theo pháp luật:
“1. Những người thừa kế
theo pháp luật được quy
định theo thứ tự sau đây:
b. Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người
chết;”
- Theo đó, cụ Quý chết
trước cụ Hương và không
có để lại di chúc, do vậy
phần
tài sản của cụ Quý sẽ được
chia đều cho cụ Hương và
các con của cụ Quý – là
những người thuộc thuộc
hàng thừa kế thứ nhất theo
pháp luật. Như vậy, tài sản
của cụ Hương là phần đươc
hưởng thừa kế theo pháp
luật và
1
/
2
trong số tài sản
chung với cụ Quý; sau khi
cụ Hương chết, thì cụ
Hương có quyền lập di
chúc để
lại di sản cho những người
chỉ định trong di chúc với
phần tài sản của mình.
Câu 6: Nếu tài sản được
định đoạt trong di chúc chỉ
thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng
4/2009 thì di chúc của cụ
Hương có giá trị pháp lý
không? Vì sao?
Trả lời:
- Trong trường hợp tài sản
được định đoạt trong di
chúc chỉ thuộc sở hữu
của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc
của cụ Hương có giá trị
pháp lí.
- Về hình thức, bản di chúc
này có công chứng của
Phòng công chứng số
4, thành phố Hồ Chí Minh.
Tại thời điểm lập di chúc,
cụ Hương có giấy
chứng nhận sức khỏe của
bệnh viện Phú Nhuận xác
nhận cụ Hương minh
mẫn.
- Về nội dung, toàn bộ
phần di chúc đều có gia trị
pháp lí vì tài sản lúc
này thuộc chỉ sở hữu của
cụ Hương vào đầu tháng
4/2009 nên cụ có quyền
định đoạt theo Điều 609 Bộ
luật Dân sự 2015:“Cá nhân
có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản
của mình; để lại tài sản của
mình cho người thừa
kế theo pháp luật; hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật”.Nếu tài
sản là sở hữu chung với cụ
Quý thì di chúc chỉ có giá
trị pháp lý một phần.
Đó là phần tài sản thuộc sở
hữu của cụ Hương.
- Vì vậy, đồng thời căn cứ
vào Khoản 1, Điều 630 và
Điều 609 của Bộ luật Dân
sự năm 2015 thì di chúc
của cụ Hương lúc này hoàn
toàn có giá trị pháp lí
Câu 7: Quyết định số 58,
đoạn nào cho thấy quyền
sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi
hai cụ chết?
Trả lời:
Trong phần “Nhận định
của Tòa án” của Quyết
định 58 có ghi: “Ngoài
ra, di sản
của cụ D, cụ C để lại là
quyền sử dụng đất tại thửa
đất số 38, Tờ bản đồ số 13
đã bị
thu hồi theo Quyết định số
1208/QĐ-UBND ngày 21-
7-2010 của Ủy ban nhân
dân
thành phố V nhưng giá trị
quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn
được
pháp luật bảo đảm theo quy
định của Luật Đất đai nên
hai cụ có quyền lập di chúc
định đoạt tài sản trên cho
ông D1.”
Câu 8: Đoạn nào của Quyết
định số 58 cho thấy Tòa
giám đốc thẩm xác định
di sản của cụ C và cụ D là
quyền sử dụng đất? Suy
nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa
giám đốc thẩm?
Trả lời:
Trong phần “Nhận định
của Tòa án” của Quyết
định 58 cho thấy: “Ngày
16-12-
2009, cụ C lập di chúc với
nội dung để lại một phần
tài sản là bất động sản tại
thửa
đất số 38, tờ bản đồ số 13
nêu trên cho con trai tôi
(ông Nguyễn Văn D1).
Ngày
15-01-2011, cụ D lập di
chúc tại Phòng công chứng
M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội
dung để lại phần tài sản của
mình tại thửa đất nêu trên
cho ông D1, Khi Nhà nước
thu hồi, bồi thường bằng tái
định cư (hoặc nhận tiền) và
bồi thường tài sản trên đất
thì ông D1 được đứng tên
và nhận tiền.”. Hướng xác
định vừa nêu trên của Tòa
giám đốc thẩm là có căn cứ
và rất hợp lý.
Câu 9: Đoạn nào của Quyết
định số 58 cho thấy Tòa
giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được
định đoạt theo di chúc giá
trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi? Suy
nghĩ của anh/chị về hướng
vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm?
Trả lời:
Phần “Nhận định của Tòa
án” của Quyết định 58 cho
thấy Tòa giám đốc thẩm
theo
hướng cụ C và cụ D được
định đoạt theo di chúc giá
trị quyền sử dụng đất bị
Nhà
nước thu hồi là: “Ngoài ra,
di sản của cụ D, cụ C để lại
là quyền sử dụng đất tại
thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-
UBND ngày 21-7-2010 của
Ủy ban nhân dân thành phố
V nhưng giá trị quyền sử
dụng đất của người có đất
bị thu hồi vẫn được pháp
luật bảo đảm theo quy định
của Luật Đất đai nên hai cụ
có quyền lập di chúc định
đoạt tài sản trên cho ông
D1.” Hướng vừa nêu của
Tòa giám đốc thẩm là có cơ
sở pháp lý nên hoàn toàn
hợp lý.
Bài 3: Di chúc chung
của vợ chồng
Câu 1: Đoạn nào của bán án
số cho thấy di chúc có tranh
chấp là di chúc chung của
vợ chồng?
Trích bản án: “Quan hệ pháp
luật: Ông Hoàng Minh X và
bà Hoàng Thị H là vợ chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân ông
bà tạo dựng được khối tài sản
chung như biên bản thẩm
định ngày 21/8/2017. Tháng
01/2016 ông X chết và có để
lại một bản di chúc chung của
vợ chồng viết ngày
10/8/2015.”
Câu 2: Theo Tòa án, di chúc
chung của vợ chồng có giá trị
pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn
nào của bản án cho câu trả
lời.
Theo Tòa án, di chúc chung
của vợ chồng có giá trị pháp
lý khi áp dụng BLDS 2015
tuy
BLDS 2015 điều luật nào
tương tự Điều 663 BLDS
2005. Thay vào đó, Tòa án
xét đến
nội dung của bản di chúc và
các điều kiện khác được quy
định trong BLDS 2015.
Trích bản án: “Nội dung
trong bản di chúc không vi
phạm điều cấm của luật,
không trái
đạo đức xã hội phù hợp với
quy định tại Điều 630 BLDS
2015.
Xử: Công nhận du chúc
chung của ông Hoàng Minh
X và bà Hoàng Thị H viết
ngày
10/8/2015 là hợp pháp”.
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị
về hướng giải quyết trên của
Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan
hệ với BLDS 2015.
Hướng giải quyết của Tòa án
về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với
BLDS 2015 là hợp lý tuy
BLDS này không có quy định
cụ thể về trường hợp này như
BLDS 2005. So với các điều
kiện để di chúc được xem là
hợp pháp theo BLDS 2015
thì:
Thứ nhất, nội dung của di
chúc không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo
đức xã
hội phù hợp với quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 630
BLDS 2015.
Thứ hai, người lập di chúc,
ông X và bà H hoàn toàn tự
nguyện, minh mẫn, sáng suốt
tại
thời điểm lập. Điều này được
thể hiện rõ trong bản án qua
sự thừa nhận của các bên
đương sự và phù hợp với
điểm a khoản 1 Điều 630
BLDS 2015.
Thứ ba, hình thức di chúc
phù hợp với quy định của
pháp luật về di chúc bằng văn
bản
không có người làm chứng
tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ
thể, di chúc này là do ông X
tự
viết và được vợ chồng ông
cùng tự ký tên vào. Theo Kết
luận giám định số
1700/KLGĐ
ngày 28/8/2017 thì đây chính
xác là chữ viết tay của ông X.
Việc không xác nhận chữ ký
của bà H là do bà còn sống
tại thời điểm xảy ra tranh
chấp.
Thứ tư, di chúc chung này
nhằm định đoạt tài sản chung
của vợ chồng ông X, bà H.
Điều
này là phù hợp với quy định
tại Điều 609 BLDS 2015 về
việc cá nhân có quyền định
đoạt
tài sản của mình. Tuy nhiên,
Tòa án chỉ công nhận di chúc
trên là hợp pháp chứ không
đề
cập đến hiệu lực của di chúc.
Điều này là hợp lý do đây là
di chúc chung của vợ chồng
ông X, bà H nhưng chỉ có
ông X qua đời trước nên chưa
đến thời điểm mở thừa kế
theo
Điều 611 BLDS 2015.
Vậy, tuy BLDS 2015 không
đề cập đến quy định về di
chúc chung của vợ chồng
nhưng
do thỏa các điều kiện về nội
dung, hình thức, chủ thể được
quy định nên việc Tòa án
công nhận di chúc chung của
ông X, bà H là hợp lý.
Bài tập 4 : Di sản dùng
vào việc thờ cúng
Câu 1. Trong điều kiện nào
di sản dùng vào việc thờ cúng
có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời..
Trả lời: Căn cứ vào Điều 670
BLDS 2005":
1. Trong trường hợp người
lập di chúc có để lại một
phần di sản dùng vào việc thờ
cúng
thì phần di sản đó không
được chia thừa kế và được
giao cho một người đã được
chỉ định
trong di chúc quản lí để thực
hiện việc thờ cúngnếu người
được chỉ định không thực
hiện
đúng di chúc hoặc không
theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những
người thừa
kế có quyền giao nhận di sản
dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ
cúng. Trong trường hợp
người để lại di sản không chỉ
định người quản lý di sản thờ
cúng
thì những người thừa kế cử
một người quản lý di sản thờ
cúng.. Trong trường hợp tất
cả
những người thừa kế theo di
chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc
về
người đang quản lý hợp pháp
di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo
pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ
di sản của người chết không
đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không
được dành một phần di sản
dùng vào việc thờ cúng." Ta
thấy,
để di sản dùng vào việc thờ
cúng có giá trị pháp lý thì di
sản đó cần thỏa mãn những
điều
kiện sau: Thứ nhất, di sản của
người chết đã đủ thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó
và còn thừa lại. Thứ hai,
người lập di chúc có để lại
một phần di sản dùng vào
việc thờ
cúng. Thứ ba, di sản dùng
vào việc thờ cúng sẽ giao cho
người đã được chỉ định trong
di
chúc quản lý để thực hiện
việc thờ cúng, nếu người để
lại di sản không chỉ định
người
quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử một
người quản lý di sản. Tóm
lại, di
sản dùng vào việc thờ cúng
sẽ có giá trị pháp lý khi thỏa
mãn các điều kiện nêu trên.
Câu 2: Đoạn nào của bản án
cho thấy di sản có tranh chấp
được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?
Trả lời: Đoạn của bản án cho
thấy di sản có tranh chấp
được di chúc dùng vào việc
thờ
củng là: "Tại tờ di chúc ngày
08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng
để lại nhà đất cho 7 người
con đông thừa hưởng để thờ
cúng cha mẹ, anh được là
người đang quản lý di sản,
hiện tại
5/7 anh chị em của anh được
đồng ý chia di sản và giao
cho anh được sở hữu di sản là

cơ sở chấp nhận.
Câu 3: Các điều kiện để di
sản dùng vào việc thờ cúng
một cách hợp pháp có được |
thỏa mãn trong vụ việc đang
nghiên cứu không?
Trả lời: Căn cứ vào Điều 670
BLDS 2005 thì điều kiện để
di sản được dùng vào việc
thừa
kế là
Tài sản của người chết đã đủ
thanh toán nghĩa vụ tài sản
của người đó và còn thừa lại.
Di
chúc không định đoạt toàn bộ
di sản chỉ dùng vào việc thờ
cúng. Trong vụ việc đang
nghiên cứu, hai điều kiện trên
được thỏa mãn.
Cụ thể: Trong vụ việc không
nói đến vấn đề thanh toán
nghĩa vụ tài sản của bà Lùng
nên
có thể xem như nghĩa vụ đó
không có hoặc đã được thực
hiện xong. Phần tài sản bà
Lùng
để lại dùng vào việc thờ cúng
là nhà đất, đây không phải là
toàn bộ di sản của bà.
Câu 4: Ai đồng ý và ai
không đồng ý chia di sản
dùng vào việc thờ cúng trong
vụ
tranh chấp này? Đoạn nào
của bản án cho câu trả lời?
Trả lời: Trong vụ tranh chấp
này, có 5/7 người con(tức
người thừa kế theo di chúc
của bà
Lùng để lại) đồng ý chia di
sản.Cụ thể là: anh Thảo, anh
Xuân, anh Nhành, chị Hoa,
anh
Được. Còn 2 người không
đồng ý chia di sản là anh Tân
và chị Hương.
Đoạn trong bản án cho câu
trả lời là: “Ngày 08 tháng 7
năm 2004 mẹ anh lập di chúc
để
lại cho 07 anh chị em, hiện
tại anh quản lý nhà đất, năm
2005 năm anh chị em hợp lại
chia di sản của mẹ anh,
nhưng anh Tân và chị Hương
không đồng ý."
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có
chấp nhận chia di sản đã
được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào
của bản án cho câu trả lời?
Trả lời: Cuối cùng Tòa án có
chấp nhận chia di sản đã
được di chúc dùng vào việc
thờ
củng. Đoạn trong bản án cho
câu trả lời là: “Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của
anh Phan Văn Được đối với
anh Phan Văn Tần, chị Phan
Thị Hương và người có
quyền
lợi nghĩa vụ liên quan anh
Phan Văn Thảo, anh Phan
Văn Xuân, anhh Phan Văn
Nhành,
chị Phan Thị Hoa về việc
“Tranh chấp di sản thừa kế”.
Anh Được phải có trách
nhiệm thanh toán giá trị di
sản thừa kể cho anh Tân và
chị
Hương mỗi người số tiền là
37.424.000đ (bằng chữ: ba
mươi bảy triệu bốn trăm hai
mươi
bốn ngàn đồng).
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị
về chế định di sản dùng vào
việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong
vụ việc đang được nghiên
cứu.
Trả lời: Theo BLDS 2005,
căn cứ vào Điều 670 thì phần
di sản dùng vào việc thờ cúng
không được chia thừa kế mà
được giao cho một người
quản lý để thực hiện việc thờ
cúng. Trong thực tiễn xét xử
tại Tòa thì Tòa án lại chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của
anh
Được, giao cho anh Được
quyền sở hữu căn nhà và anh
phải có nghĩa vụ thanh toán
giá
trị di sản thừa kế cho anh Tân
và chị Hương. Như vậy, xét
về lý thì cách xử của Tòa có
phần không đúng với quy
định của BLDS. Nhưng xét
về tình và thực tiễn nguyện
vọng
của những người thừa kế thì
cách xử của Tòa vẫn đưa đến
được kết quả là di sản vẫn
được dùng để thờ cúng. Bởi
lẽ phần nhà đất được chia
thừa kế là chia theo giá trị,
anh
Nhành, anh Thảo, anh Xuân,
chị Hoa không nhận di sản
mà cho lại anh Được, căn nhà
vẫn được giữ nguyên và anh
Được là người quản lý căn
nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ
cúng chính. Việc bất hợp lý ở
đây đó là, di sản để thờ cúng
nêu theo di chúc thì ta xác
định là sở hữu chung của
những người thừa kế, vậy thì
không được định đoạt, chia lẻ
chỉ
được quản lý. Tuy nhiên Tòa
án lại xử chia di sản và anh
Được phải thanh toán giá trị
di
sản phân thừa kế cho hai
người, như vậy tức là đã xé lẻ
di sản ra, đánh mất bản chất
chi
quản lý để thờ cúng mà
không định đoạt

You might also like