Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời? Trả Lời: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị được thể hiện ở Điều 633_ BLDS 2015_Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này”. Điều kiện để lập di chúc theo thể thức này là: Người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn sáng suốt vào thời điểm lập di chúc. Người lập di chúc phải là người bình thường không bị khiếm khuyết thể chất liên quan đến các chức năng đọc, viết, nghe, nói, ký tên, điểm chỉ (như câm, điếc, mù,cụt tay, mù chữ). Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời? Trả Lời: - Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm chứng di chúc của ông Này không phải là người làm chứng hợp pháp. - Căn cứ vào Điều 632_ BLDS 2015_Người làm chứng cho - Và Điều 651_BLDS 2015_Người thừa kế theo pháp luật:việc lập di chúc: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.” “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”. - Mà theo Bản án số 83/2009/DSPT, những người đã làm chứng di chúc cho ông Này là cha, em gái và em trai ông Này. Và ba người này rơi vào trường hợp không được làm chứng di chúc theo Khoản 1_Điều 632_BLDS 2015, họ là những người thừa kế theo pháp luật của ông Này. Cha ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất, em trai và em gái thuộc hàng thừa kế thứ hai, căn cứ theo Điều 651_BLDS 2015. Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao? Trả Lời: - Di chúc của ông Này là di chúc do ông tự viết tay. - Vì di chúc đã tuân thủ theo những quy định về hình thức được quy định tại Điều 633_ BLDS 2015: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Thêm vào đó, lúc lập di chúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay. Trả Lời: - Hướng giải quyết trên của tòa án hoàn toàn hợp lý. - Bởi vì di chúc của ông Này tự tay viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng tuân theo quy định tại Điều 631_BLDS 2015_ Nội dung của di chúc: “1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau a) Ngày, tháng, năm lập di chúc; b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di sản. 2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác. 3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xoá, sửa chữa”. Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào? Trả lời: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau: Ngày 25/11/1998, di chúc là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy (là mẹ của ông Vũ) ký tên, làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã ai Lâm xác nhận. Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả lời? Trả lời: - Cụ Hựu không biết chữ. - Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 có câu: “Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”. Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật? Trả Lời: - Đối với người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc do bị mù chữ thì pháp luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản, theo thủ tục công chứng, chứng thực. Đồng thời phải lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có người làm chứng thì di chúc mới có hiệu lực. Theo Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 về di chúc hợp pháp: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”. - Và Khoản 1 của điều luật này: “Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật”. Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu? Trả Lời: Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: - Di chúc của cụ Hựu đã được lập thành văn bản (do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết). - Di chúc của cụ Hựu đã được công chứng hoặc chứng thực (được trưởng thôn là ông Thưởng và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận). Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu? Trả Lời: Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao? Trả lời: Theo nhóm, di chúc trên chưa hoàn toàn thỏa mãn các điều kiện về hình thức. Vì qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Thêm vào đó, người làm chứng và người mang đi công chứng là hai người khác nhau. Do vậy, không có đủ yếu tố xác đinh di chúc này thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu. Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ Trả Lời: - Quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ còn rất sơ sài, chưa quy định kĩ. - BLDS quy định về việc công chứng và chứng thực của di chúc nhưng không nêu người đi công chứng hoặc chứng thực là ai. Vì vậy, nên bổ sung thêm quy định này vào chế định di chúc của người không biết chữ. Theo đó, người đi công chứng hoặc chứng thực phải là người lập di chúc hoặc là người thể hiện ý chí của người lập di chúc thành văn bản để đảm bảo sự rõ ràng, chính xác của di chúc, để tránh sự thay đổi di chúc không đúng với ý chí của người lập di chúc. Từ đó, tránh các tranh chấp sảy ra trên thực tế. Bài 2 : Tài sản được định đoạt theo di chúc Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả lời? Trả lời: - Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý. - Quyết định số 359 có đoạn ghi rằng: “Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ ăn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người chon là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc được công chứng tại phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009. Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương? Trả lời: Trong Quyết định có ghi là: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả lời? Trả lời: - Tòa án đã công nhận một phần di chúc. Cụ thể là một phần đối với tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất). - Quyết định ghi rằng: “Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí)… Câu 4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. Trả lời: - Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm về việc chia di sản của cụ Quý là phù hợp với quy định pháp luật. - Dưới góc độ của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 612 của Bộ luật này quy định về di sản:“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, tài sản thuộc sở hữu chung của cả hai người. Trước khi chết, cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên chỉ có phần tài sản trong tài sản chung với cụ Quý của cụ Hương mới được coi là di sản. Cụ Hương chỉ có quyền định đoạt phần đó. Vì vậy, việc Tòa xác định chỉ có 1 / 2 nhà đất được chia cho 5 người thừa kế là phù hợp với quy định trên của pháp luật. - Khoản 1 Điều 644 của Bộ luật này cũng quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: 1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; 2. Con thành niên mà không có khả năng lao động”. - Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 620 và Khoản 1, Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được cụ Hương là người lập di chúc cho hưởng di sản. Vì vậy, việc Tòa án xác định chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn phù hợp. Câu 5 :Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cở sở pháp lý khi trả lời. - Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì toàn bộ phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý đối với phần tài sản của cụ Hương được hưởng từ phần thừa kế theo pháp luật khi cụ Quý chết. Vì căn cứ theo Khoản 1, Điều 33, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.” Theo đó, sau khi cụ Quý chết, đối với tài sản chung của vợ chồng thì 1 / 2 còn lại là của cụ Quý. Căn cứ vào quy định của Điểm a, Khoản 1, Điều 650, BLDS 2015 về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật: “1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: a. Không có di chúc;” - Và quy định của Điểm a, khoản 1, điều 651, BLDS 2015 về Hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: b. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;” - Theo đó, cụ Quý chết trước cụ Hương và không có để lại di chúc, do vậy phần tài sản của cụ Quý sẽ được chia đều cho cụ Hương và các con của cụ Quý – là những người thuộc thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật. Như vậy, tài sản của cụ Hương là phần đươc hưởng thừa kế theo pháp luật và 1 / 2 trong số tài sản chung với cụ Quý; sau khi cụ Hương chết, thì cụ Hương có quyền lập di chúc để lại di sản cho những người chỉ định trong di chúc với phần tài sản của mình. Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao? Trả lời: - Trong trường hợp tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lí. - Về hình thức, bản di chúc này có công chứng của Phòng công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn. - Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có gia trị pháp lí vì tài sản lúc này thuộc chỉ sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ có quyền định đoạt theo Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015:“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.Nếu tài sản là sở hữu chung với cụ Quý thì di chúc chỉ có giá trị pháp lý một phần. Đó là phần tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương. - Vì vậy, đồng thời căn cứ vào Khoản 1, Điều 630 và Điều 609 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì di chúc của cụ Hương lúc này hoàn toàn có giá trị pháp lí Câu 7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết? Trả lời: Trong phần “Nhận định của Tòa án” của Quyết định 58 có ghi: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21- 7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.” Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm? Trả lời: Trong phần “Nhận định của Tòa án” của Quyết định 58 cho thấy: “Ngày 16-12- 2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại một phần tài sản là bất động sản tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 nêu trên cho con trai tôi (ông Nguyễn Văn D1). Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội dung để lại phần tài sản của mình tại thửa đất nêu trên cho ông D1, Khi Nhà nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất thì ông D1 được đứng tên và nhận tiền.”. Hướng xác định vừa nêu trên của Tòa giám đốc thẩm là có căn cứ và rất hợp lý. Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm? Trả lời: Phần “Nhận định của Tòa án” của Quyết định 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi là: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ- UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.” Hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là có cơ sở pháp lý nên hoàn toàn hợp lý. Bài 3: Di chúc chung của vợ chồng Câu 1: Đoạn nào của bán án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng? Trích bản án: “Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015.” Câu 2: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015 tuy BLDS 2015 điều luật nào tương tự Điều 663 BLDS 2005. Thay vào đó, Tòa án xét đến nội dung của bản di chúc và các điều kiện khác được quy định trong BLDS 2015. Trích bản án: “Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 BLDS 2015. Xử: Công nhận du chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp”. Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015. Hướng giải quyết của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015 là hợp lý tuy BLDS này không có quy định cụ thể về trường hợp này như BLDS 2005. So với các điều kiện để di chúc được xem là hợp pháp theo BLDS 2015 thì: Thứ nhất, nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 630 BLDS 2015. Thứ hai, người lập di chúc, ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt tại thời điểm lập. Điều này được thể hiện rõ trong bản án qua sự thừa nhận của các bên đương sự và phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015. Thứ ba, hình thức di chúc phù hợp với quy định của pháp luật về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ thể, di chúc này là do ông X tự viết và được vợ chồng ông cùng tự ký tên vào. Theo Kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính xác là chữ viết tay của ông X. Việc không xác nhận chữ ký của bà H là do bà còn sống tại thời điểm xảy ra tranh chấp. Thứ tư, di chúc chung này nhằm định đoạt tài sản chung của vợ chồng ông X, bà H. Điều này là phù hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, Tòa án chỉ công nhận di chúc trên là hợp pháp chứ không đề cập đến hiệu lực của di chúc. Điều này là hợp lý do đây là di chúc chung của vợ chồng ông X, bà H nhưng chỉ có ông X qua đời trước nên chưa đến thời điểm mở thừa kế theo Điều 611 BLDS 2015. Vậy, tuy BLDS 2015 không đề cập đến quy định về di chúc chung của vợ chồng nhưng do thỏa các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được quy định nên việc Tòa án công nhận di chúc chung của ông X, bà H là hợp lý. Bài tập 4 : Di sản dùng vào việc thờ cúng Câu 1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.. Trả lời: Căn cứ vào Điều 670 BLDS 2005": 1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúngnếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao nhận di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.. Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. 2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng." Ta thấy, để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý thì di sản đó cần thỏa mãn những điều kiện sau: Thứ nhất, di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa lại. Thứ hai, người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Thứ ba, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản. Tóm lại, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ có giá trị pháp lý khi thỏa mãn các điều kiện nêu trên. Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng? Trả lời: Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ củng là: "Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đông thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh được đồng ý chia di sản và giao cho anh được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận. Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được | thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không? Trả lời: Căn cứ vào Điều 670 BLDS 2005 thì điều kiện để di sản được dùng vào việc thừa kế là Tài sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa lại. Di chúc không định đoạt toàn bộ di sản chỉ dùng vào việc thờ cúng. Trong vụ việc đang nghiên cứu, hai điều kiện trên được thỏa mãn. Cụ thể: Trong vụ việc không nói đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản của bà Lùng nên có thể xem như nghĩa vụ đó không có hoặc đã được thực hiện xong. Phần tài sản bà Lùng để lại dùng vào việc thờ cúng là nhà đất, đây không phải là toàn bộ di sản của bà. Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Trả lời: Trong vụ tranh chấp này, có 5/7 người con(tức người thừa kế theo di chúc của bà Lùng để lại) đồng ý chia di sản.Cụ thể là: anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được. Còn 2 người không đồng ý chia di sản là anh Tân và chị Hương. Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý." Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Trả lời: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ củng. Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn Được đối với anh Phan Văn Tần, chị Phan Thị Hương và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân, anhh Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”. Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kể cho anh Tân và chị Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi bốn ngàn đồng). Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu. Trả lời: Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương. Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định của BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được, căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng nêu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ chỉ được quản lý. Tuy nhiên Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản phân thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản ra, đánh mất bản chất chi quản lý để thờ cúng mà không định đoạt