You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ


BÀI THẢO LUẬN BUỔI THỨ BA


TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Bộ môn: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế
Lớp: 125-TMQT.A1
Giảng viên: ThS.Ngô Thị Anh Vân
Họ tên: Trần Nguyễn Khánh Đoan
MSSV: 2053801090031
 BÀI TẬP 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN

TÓM TẮT BẢN ÁN:

*Quyết định số 06/2017/QĐ-PT  ngày 11/7/2017 về “ Giải quyết việc kháng cáo đối với
Quyết định đình chỉ vụ án” của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa:
Ông Phan Hai kiện ông Phan Quốc Thái yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 23/7/1999 của Ủy ban nhân dân huyện Diên
Khánh mang tên Lương Thị Xàm cho ông Phan Hai. Lẽ ra, khi có đơn khởi kiện, Toà
án nhân dân huyện Diên Khánh phải trả lại đơn khởi kiện với lý do: vụ án không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án. Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định không chấp
nhận đơn kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hai và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

*Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 về “ Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng” của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long
Nguyên đơn là ông Võ Văn B, bà Bùi Thị H kiện bị đơn là bà Nguyễn Thị Thủy T.
Năm 2012, sau khi sửa nhà xong thì 10 ngày sau  ông B, bà H phát hiện bị mất “ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”. Sauk hi làm đơn, Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ cấp
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B, bà H, nhưng khi có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì không được nhận do Ủy ban nói có người tranh chấp. Hiện nay
bà T  là người giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B, bà H, và chỉ chấp
nhận trả lại khi nhận đủ số tiền là 120.000.000 đồng. Quyết định chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H. Buộc bà Nguyễn Thị Thủy T phải giao
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

*Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 về  “ Việc Quyết định khiếu kiện truy thu
thuế” của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre:
Nguyên đơn là ông Nguyễn Việt Cường kiện bị đơn Chi cục trưởng Chi cục thuế thành
phố Bến Tre và Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre. Ông Cường có đơn kiện yêu câu
Tòa án hủy Quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của Chi cục trưởng Chi cục
thuế thành phố Bến Tre và Quyết định số 1002/QĐ-CT ngày 18/5/2017 của Cục trưởng
Cục thuế tỉnh Bến Tre. Lý do ông Cường phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập
cá nhân khi mua bán tiền kĩ thuật số.Quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Việt Cường.

*Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 về “ Vụ án Tranh chấp chia tài sản
chung về việc mua hóa giấy nhà” của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H kiện bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L ( con của cụ T).
Đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp căn nhà số 63. Năm 1995, cụ T chết, chưa làm
thủ tục mua bán hóa giá căn nhà trên, không để lại di chúc, có lập giấy ủy quyền cho bà
L trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm với căn
1
nhà trên. Bà L đã mua hóa giá căn nhà trên sau khi có sự đồng ý của các con cụ T, tuy
nhiên, sau đó bà L cho thuê mà không bàn bạc với con cụ T. Bà H khởi kiện yêu cầu
chia tài sản chung của  căn nhà trên biên bản thỏa thuận của thanh tra Bộ quốc phòng,
Tòa án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của bà H, Tòa án phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo của bà L. Tòa án nhân dân tối cao đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và
phúc thẩm, giao lại toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án sơ thẩm xét xử lại.

Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
hoạ về giấy tờ có giá.

- Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong
giao lưu dân sự.1
- Giấy tờ có giá là một loại tài sản theo quy định của BLDS ( BLDS 2015 không định
nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nếu giấy tờ có giá là một loại tài sản theo Điều
105 BLDS 2015). Giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận
quyền tài sản của một chủ thể nhất định( tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp
lý với các chủ thể khác. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010; Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư
01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ
giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời
hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác".
* Ví dụ một vài giấy tờ có giá:
- Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định
tại Điều 1 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005;
- Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005;
- Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả
nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 Luật quản lý nợ công 2009;
- Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc
chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài
chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 (đã được sửa
đổi, bổ sung tại Luật chứng khoán sửa đổi 2010);
- Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại khoản 1 điều 2 Nghị định 52/2006/NĐ-CP
về Phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?
Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” không là giấy tờ có giá. , 2016Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ban hành
ngày 21/9/2011 “…các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy;
Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là “giấy tờ có giá”.
1
Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, Đahi học Luật TP. Hồ Chí
Minh, Nxb. Hồng Đức
2
Quyết định số 06 cho câu trả lời : “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất là văn bản chứng quyền, không phải là tài
sản và không thể xem là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”
Bản án số 39 cho câu trả lời: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý
để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với
đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số
quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.”
Như vậy, Quyết định số 06 và Bản án 09 đã cho câu trả lời “ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở không được xem là giấy tờ có giá”.

Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không? Vì sao?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” không là tài sản.
- Căn cứ theo Khoản 1 điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản.” và Khoản 16 điều 3 Luật đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để
Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với
đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài
sản khác gắn liền với đất.”
- Quyết định số 06 ghi nhận “Xét thẩm quyền vụ án: Theo điều 105 BLDS 2015 quy
định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật,là tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài
sản bao gồm bất động sản và động sản, Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện
có và tài sản hình thành trong tương lai.”; Điều 105 BLDS 2015: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác…” Như vậy, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Bản án số 39 ghi nhận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để
nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất hợp
pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, cho thấy nội dung hàm chứa
một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân
sự…”
Do đó ta có thể thấy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
chỉ chứa đựng thông tin về quyền sở hữu tài sản, chứ không phải một tài sản.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài);
Theo tôi hướng giải quyết trong Quyết định số 06 là hợp lý.Vì theo Điều 105 BLDS
2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động
sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai”. Ở đây, theo Quyêt định số 06 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà không được xem là giấy tờ có giá cũng như không được
xem là tài sản mà chỉ là văn bản chứng quyền nên không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án.

3
Câu 5: Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

Nếu áp dụng BLDS 2015 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà không phải là tài sản.
Vì theo Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Căn cứ vào Điều 115 Bộ luật dân sự 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác”.
Căn cứ vào Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để
Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với
đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài
sản khác gắn liền với đất.”
Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng Quyền sử dụng
đất.
Câu 6: Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

Hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “ giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà” là hợp lí. Vì:
Căn cứ vào khoản 1,2 , Điều 4, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự,
yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”.
“Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp
dụng”.
Qua xem xét toàn bộ lời trình bày của các đương sự và tài liệu chứng cứ do các bên
cung cấp thể hiện: Việc ông B bị mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trong lúc sửa
nhà) là hoàn toàn có thật, bởi lẽ ông đã làm đơn cớ mất và được UBND xã Thanh Đức
xác nhận ngày 18/10/2012. Theo trình bày của bà T thì do ông B thế chấp cho bà T để
vay tiền việc này ông B và bà H có biết, nhưng phía bà T không chứng minh việc này là
có thật. Phía ông B phủ nhận toàn bộ lời trình bày của bà T. Việc Hội đồng xét xử chấp
nhận xét xử đơn kiện của ông B và buộc bà T phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là hoàn toàn hợp lí và đúng với pháp luật.
Câu 7: Bitcoin là gì?
Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần
mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết
nối Internet mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào. Bitcoin là
loại tiền mã hoá điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử dụng rộng rãi nhất trong

4
thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có xu hướng muốn thanh toán bằng Bitcoin để
giảm thiểu chi phí.
Câu 8: Theo Toà án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Vì: Theo tòa án:
“Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật nào quy
định tiền ký thuật số (tiền ảo) là hàng hóa, sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng ở Việt Nam. Cụ thể: theo Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá cá quyền tài sản” và theo Điều 3 Luật Thương mại năm
2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp,
đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định chế
tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương
tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.”

Câu 9: Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết?

Bitcoin ra đời vào năm 2009 và được dự đoán như một loại tiền tệ tiềm năng có khả
năng thay thế tiền giấy. Đa số thị trường đã ủng hộ chấp nhận và lưu hành Bitcoin, một
số nước khác không ủng hộ nhưng không cấm và một số ít cho rằng giao dịch Bitcoin là
phạm pháp.Ngày 1 tháng 4 năm 2017, Nhật Bản đã công nhận Bitcoin là một phương
thức thanh toán chính thức. Sau đó, ngày 9/5/2017, Úc đã bãi bỏ việc thu thuế đối với
Bitcoin và nó được đối xử như một loại tiền tệ cho mục đích thuế. Một số quốc gia như
Mỹ, Nhật, Thụy Điển cho phép giao dịch Bitcoin nhưng bắt buộc các sàn giao dịch phải
tuân thủ một số quy định trong ngân hàng như KYC/AML và kiểm toán nội bộ.

Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Theo quan điểm của em, việc Tòa án không công nhận Bitcoin là tiền tệ, phương thức
thanh toán hợp pháp là đúng. Căn cứ: Khoản 1, Điều 105 BLDS 2015 thì" Tài sản là
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản." và Điều 3 Luật thương mại 2015 quy
định: "Hàng hóa bao gồm tất cả các loại bất động sản, động sản, kể cả bất động sản
hình thành trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai." Như vậy, Bitcoin không thể
xếp vào bất kì một hình thức tồn tại nào của hàng hóa hay tài sản. Bitcoin chỉ có thể
được xem như một loại hình kinh doanh thương mại mới và cần có thêm những quy
định cụ thể của cơ quan nhà nước để quản lý loại hình kinh doanh này.

Câu 11: Quyền tài sản là gì?


Theo Điều 115 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác.”
Câu 12: Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?

5
Quyền tài sản bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác. 2Quyền tài sản có thể được phân chia thành hai loại:
quyền đối vật và quyền đối nhân. Quyền đối vật là quyền của chủ thể được tác động
trực tiếp vào vật để thỏa mãn nhu cầu của mình như quyền sở hữu, quyền cầm cố,
quyền thế chấp, quyền hưởng hoa lợi… Quyền đối nhân là quyền của chủ thể này đối
với chủ thể khác. Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và
đầy đủ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền. Ví dụ quyền yêu cầu trả nợ, giao vật.
Như vậy, căn cứ vào pháp luật hiện hành, không có quy định pháp luật nào khẳng định
quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản.

Câu 13: Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Ở phần nhận định của Tòa án trong Quyết định số 05: “ Theo quy định tại Điều 188 và
Điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài
sản ( trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H
và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.”
Câu 14: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?

Theo tôi , hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là đúng đắn. Theo đó, nhà số
63 đường B là tài sản chung của bà H , ông T1 và bà L , bởi vì bà L chỉ được ủy quyền
khi cụ T còn sống cũng như khi cụ T chết để giải quyết các vụ việc liên quan đến ngôi
nhà (cề thủ tục), chứ không phải ủy quền cho bà L sở hữu toàn bộ căn nhà như nhận
định của Tòa án phúc thẩm ; Tòa án sơ thẩm chia cho bà L được hưởng một nủa giá trị
căn nhà,sau đó trừ đi chi phí mua nhà trong phần giá trị một nủa còn lại  rồi mới chia
đều cho bà H , ông T1 và bà L là không đúng. Theo tôi , giá trị căn nhà nên được chia
đều cho cả ba người là bà H , ông T1 và bà L theo quy định cùa pháp luật vì cả ba đều
là con của cụ T và cụ T không để lại di chúc nên phần tài sản cụ để lại phải được chia
đều cho cả ba.

 BÀI TẬP 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU

TÓM TẮT BẢN ÁN:


* Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 về vụ án “Đòi nhà” của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
- Nguyên đơn: Cụ Dư Thị hảo
- Bị đơn: Chị Nhữ Thị Vân
Nhà số 2 Hàng Bút, quâ ̣n Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nô ̣i là tài sản riêng của cụ Hảo.
Năm 1954, cụ Hảo vào sài gòn, giao nhà cho con trai là Chinh quản lý. Ông Chinh đi
công tác ở Thái Nguyên nên cho ông Khải thuê nhà, có lâ ̣p giấy tờ thuê nhà. Sau khi
ông Khải mất thì cháu gái ông là chị Vân vẫn sử dụng đến nay nhưng giấy tờ cho thuê
nhà đã bị mất. Năm 1975, cụ Hảo nhiều lần đòi nhà nhưng chị Vân không trả. Đến năm
2001, chị Vân lại bán nhà cho vợ chồng anh Sơn và chị Lan. Năm 2004, cụ Hảo khỏi
kiê ̣n đòi lại nhà. Quyết định của tòa án:
2
Bộ luật Dân sự 2015
6
Theo bản án sơ thẩm và phúc thẩm:
- Chấp nhâ ̣n yêu cầu khỏi kiê ̣n và đòi lại nhà cho thuê.
- Buô ̣c chị Vân và vợ chồng anh Sơn, chị Lan phải trả lại toàn bô ̣ diê ̣n tích nhà tầng 1
số 2 Hàng Bút, quạn Hoàn Kiếm, TP. Hà Nô ̣i
Theo Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội:
- Hủy toàn bô ̣ bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm về vụ án “Đòi nhà”, giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nô ̣i xét xưt sơ thẩm lại.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trích Quyết định số 111/2013/DS-GĐT của Tòa án nhân dân Tối cao, phần Xét thấy:
“Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu
là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên
đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ năm 1975 nhưng không có tài liệu
chứng minh...Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu...” Nếu như tính từ năm 1954 theo lời khai của chị Vân, thì
tại thời điểm 18/02/2001 là ngày chị Nhữ Thị Vân bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút, gia
đình chị Vân đã chiếm hữu nhà số 2 Hàng Bút trên 30 năm (47 năm).
Nhận xét: Khẳng định này của Tòa án là chưa thỏa đáng. Nếu xét theo lời khai của phía
Nguyên đơn, thì bên nguyên đơn có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 ,
tuy nhiên không được đáp ứng. Trong trường hợp đây là sự thật thì thời gian chiếm hữu
căn nhà số 2 Hàng Bút của gia đình chị Vân có thể không tới 30 năm, và như vậy căn
nhà vẫn là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo. Khẳng định của Tòa án như vậy đã gây bất
lợi cho phía nguyên đơn trong khi phía bị đơn cố tình chiếm hữu tài sản trái pháp luật.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Trích Quyết định số 111/2013/DS-GĐT của Tòa án nhân dân Tối cao, phần Xét thấy:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục,
công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu...”
Nhận xét: Khẳng định này của Tòa án là chưa thỏa đáng. Điều 180 BLDS 2015 quy
định: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin
rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.” Điều 181 BLDS 2015 quy định
về Chiếm hữu không ngay tình: “Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà
người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang
chiếm hữu.” Trước đó, BLDS 2005 cũng có quy định tại Điều 189: “Người chiếm hữu
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết
và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.”
Theo khai nhận của chị Nhữ Thị Vân, thì nhà số 2 Hàng Bút được ông của chị thuê của
cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính. Như vậy chị thừa nhận đây đã từng là tài
sản thuộc sở hữu của cụ Hảo, gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và trả tiền thông qua

7
con cụ là ông Chính. Không thể khẳng định đây là chiếm hữu ngay tình khi bản thân
chị biết hành động chiếm hữu này là không có căn cứ pháp luật.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Trích Quyết định số 111/2013/DS-GĐT của Tòa án nhân dân Tối cao, phần Xét thấy:
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ...Gia đình chị Vân
đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy
định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu...”
Nhận xét: Khẳng định này của Tòa án là chưa thỏa đáng. Điều 182 BLDS 2015 quy
định về ‘Chiếm hữu liên tục’: “1. Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện
trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc
có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản
được giao cho người khác chiếm hữu.” Tuy nhiên, thời điểm giải quyết vụ việc thì
BLDS 2015 chưa được áp dụng, nên Tòa án vẫn căn cứ theo BLDS 2005 đưa ra quyết
định. Điều 190 BLDS 2005 quy định: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong
một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả
khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.” Theo khai nhận, thì sau năm 1975,
phía nguyên đơn đã có yêu cầu đòi lại ngôi nhà số 2 Hàng Bút, tuy nhiên không được
sự chấp thuận của phía bị đơn là gia đình chị Vân. Như vậy thời gian chiếm hữu tài sản
này của gia đình chị Vân có thể chưa tới 30 năm và có diễn ra tranh chấp, nên chưa thể
coi là chiếm hữu liên tục trên 30 năm được.
Câu 4: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trích Quyết định số 111/2013/DS-GĐT của Tòa án nhân dân Tối cao, phần Xét thấy:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục,
công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu...”
Nhận xét: Khẳng định này của Tòa án là có căn cứ. Điều 183 BLDS 2015 quy định về
‘Chiếm hữu công khai’: “1. Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một
cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính
năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính
mình.” Đúng là gia đình chị Vân công khai chiếm hữu. Tuy nhiên, việc chiếm hữu này
chưa đảm bảo tính minh bạch.
Câu 5: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?
Trích Quyết định số 111/2013/DS-GĐT của Tòa án nhân dân Tối cao, phần Xét thấy:
“đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là
không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.”
Nhận xét: Khẳng định của Tòa án là chưa thỏa đáng. Việc xác định quyền sở hữu của
cụ Hảo với tài sản phụ thuộc vào việc Tòa án ghi nhận hành vi chiếm hữu tài sản của

8
gia đình chị Vân như thế nào. Nếu như việc chiếm hữu của gia đình chị Vân là sai
phạm thì tài sản nhiều khả năng vẫn thuộc về cụ Hảo.
Câu 6 : Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

Theo như nhận định của phía Tòa án thì gia đình chị Vân được phép xác lập quyền sở
hữu đối với tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền, bởi gia đình chị
đã chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai trên 30 năm. Tuy nhiên, một vài điểm nếu
được làm rõ nhiều khả năng sẽ không đảm bảo được điều này.
• Về tính ngay tình của tranh chấp, phía gia đình chị Vân chưa đảm bảo được yêu cầu
này: Theo khai nhận của chị Nhữ Thị Vân, thì nhà số 2 Hàng Bút được ông của chị thuê
của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính. Như vậy chị thừa nhận đây đã từng là
tài sản thuộc sở hữu của cụ Hảo, gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và trả tiền thông qua
con cụ là ông Chính. Không thể khẳng định đây là chiếm hữu ngay tình khi bản thân
chị biết hành động chiếm hữu này là không có căn cứ pháp luật.
• Về tính liên tục của tranh chấp: Nếu căn cứ theo Điều 182 BLDS 2015, thì gia đình
chị Vân thỏa được yêu cầu này. Tuy nhiên ở thời điểm giải quyết vụ việc, BLDS 2015
chưa được áp dụng và Tòa án vẫn căn cứ theo BLDS 2005. Điều 190 BLDS 2005 quy
định: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có
tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người
khác chiếm hữu.”. Lúc này rõ ràng không thể khẳng định chắc chắn gia đình chị Vân
liên tục chiếm hữu, vì theo lời khai phía nguyên đơn, phía nguyên đơn có liên hệ đòi lại
nhà sau năm 1975 và bị phía bị đơn khước từ.
• Về tính công khai của tranh chấp: Đúng là gia đình chị Vân công khai việc chiếm hữu
ngôi nhà số 2 Hàng Bút, tuy nhiên cần xác định lại tính minh bạch của hành vi chiếm
hữu này.
Như vậy, gia đình chị Vân chưa thỏa các điều kiện để được xác lập quyền sở hữu đối
với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền. Ngoài ra, cũng
cần phải xem xét ngôi nhà số 2 Hàng Bút có thuộc quản lý của Nhà nước hay không.
 BÀI TẬP 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Bà Dung phải chịu rủi ro đối với tài sản theo qui định của BLDS.
- Cơ sở pháp lí:
- “Điều 162. Chịu rủi ro về tài sản
1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền
của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.”
- “Điều 441. Thời điểm chịu rủi ro
1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua
chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác.

9
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký
quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua
chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.”
Câu 2: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

Tại thời điểm cháy chợ, Bà Dung là chủ số xoài.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 161 BLDS 2015 “...Thời điểm tài sản được chuyển giao
là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản....”
Câu 3: Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Khoản 1 Điều 161 BLDS 2015 quy định “thời điểm tài sản được chuyển giao là thời
điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản”. Trước khi
rủi ro xảy ra thì bà Dung đã chiếm hữu ghe xoài của bà Thủy, trở thành chủ sở hữu số
tài sản đó. Khoản 1 Điều 162 BLDS 2015 quy định “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài
sản của mình”. Do bà Dung đã là chủ sở hữu của ghe xoài khi sự cố xảy ra, bà là người
phải chịu rủi ro, cùng đó vẫn có nghĩa vụ phải thanh toán tiền mua ghe xoài cho bà
Thủy là 16.476.250 đồng.

10

You might also like