You are on page 1of 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA QUẢN TRỊ
***

BÀI TIỂU LUẬN

Buổi thảo luận thứ nhất: Chủ thể của pháp luật dân sự

GV bộ môn: Ths. Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Lớp: QTL44B - nhóm 1

Tác giả: Nguyễn Long Thiện

MSSV: 1953401020213

Năm 2020
1.Bài tập 1: Năng lực hành vi dân sự cá nhân

- Tóm tắt bản án số 11/2017/QĐDS-ST Ngày 18/7/2017.


+ Chủ thể: 1. Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Bà Vủ Thị H.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn P.
+ Nội dung: bà Vủ Thị H yêu cầu tuyên bố ông Lê Văn P có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi; mục đích yêu cầu là để giải quyết vụ
án ly hôn giữa bà Vủ Thị H và ông Lê Văn P.
+ Quyết định của Tòa án: chấp nhận đơn yêu cầu của bà Vủ Thị H về
việc: Yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi.
Căn cứ theo kết luận giám định pháp y tâm thần số: 286/KLGĐTC, ngày
22/5/2017 đối với ông Lê Văn P của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực
Miền Trung kết luận: tại thời điểm hiện tại:
 Về mặt y học: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại thuyên
giảm (F13.7).
 Về mặt pháp luật: Khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi.
Tòa án chỉ định bà Huỳnh Thị T là người có quan hệ nuôi dưỡng làm
người giám hộ cho ông P khi Tòa án tuyên bố ông P có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.

1.1.Câu số 1: Hoàn cảnh của công P như trong Quyết định được bình
luận có thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự không? Vì
sao?

− Hoàn cảnh của công P như trong Quyết định được bình luận không
thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự.
− Vì:
+ Thứ nhất:
Căn cứ điều 22 bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi một người do
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan có liên quan; Tòa án ra quyết định tuyên bố người
này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần.”

Theo kết luận giám định pháp tâm thần số: 286/KLGĐTC, ngày
22/05/2017 đối với ông Lê Văn P của Trung tâm Pháp y tâm thần kh vực
Miền Trung kết luận, tại thời điểm hiện tại:
 Về mặt y học: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tạm thuyên
giảm(F13.7).
 Về mặt pháp luật: Khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi.

1
Do vậy, ông Lê Văn P không rơi vào trường hợp mất năng lực hành vi dân
sự.

+ Thứ hai:
Căn cứ điều 23 bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên do
tình thần hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của
người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức và chỉ định
người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người dám hộ.”

Theo kết luận bản án số 11/2017/QĐDS-ST ngày 18/07/2017 của Tòa án


nhân dân Thị xã Điện Biên, tỉnh Quảng Nam: Chấp nhận đơn yêu cầu của
bà Vủ Thị H về việc tuyên bố ông Lê Văn P có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.

Do đó, ông Lê Văn P rơi vào trường hợp có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi.
− Kết luận : Từ ý thứ nhất và ý thứ hai ta thấy được ông Lê Văn P không
là người mất năng lực hành vi dân sự mà chỉ rơi và trường hợp người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

1.2.Câu số 2: Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng
lực hành vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự.

Căn cứ điều 22, điều 24 bộ Luật Dân sự năm 2015, Người mất năng lực
hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự:

− Giống nhau:
+ Về đối tượng: Họ là những người từng có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ. Nhưng một người bị xem là mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự khi và chỉ khi có Quyết định của Tòa án tuyên
bố người đó mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Cơ sở để tòa ra QĐ: phỉa có yêu cầu tư người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan.
+ Khi không có căn cứ cho rằng họ bị mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ có quyền được khôi phục
lại hành vi dân sự của mình.
+ Cá nhân không thể tự mình tham gia các giao dịch liên quan đến tài
sản. giao dịch phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
+ Cần có người đại diện pháp lý.
− Khác nhau:

2
Người hạn chế năng lực, Người mất năng lực,
Phương diện
hành vi dân sự hành vi dân sự
Người nghiện ma túy, nghiện Người bị bệnh tâm thần hoặc
các chất kích thích khác dẫn mắc bệnh khác mà không thể
Đối tượng
đến phá tán tài sản của gia nhận thức, làm chủ được hành
đình. vi.
Theo yêu cầu của người có
Theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc
quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu
của cơ quan, tổ chức hữu
quan, Tòa ánra quyết định
Cơ sở để quan, Tòa án có thể ra quyết
tuyên bố người này là người
Tòa án ra định tuyên bố người này là
mất năng lực mất năng lực
quyết định người bị hạn chế năng lực
hành vi hành vi dân sự trên cơ
hành vi dân sự (Khoản 1,
sở kết luận giám định pháp y
Điều 24 – Bộ Luật Dân sự
tâm thần (Khoản 1, Điều 22 –
năm 2015).
Bộ Luật Dân sự năm 2015).
Giao dịch do người hạn chế Giao dịch do người mất năng
năng lực hành vi dân sự thực lực hành vi dân sự thực hiện,
hiện, xác lập là không có hiệu xác lập là không có hiệu lực
lực pháp luật (bị vô hiệu), trừ pháp luật (bị vô hiệu). “Giao
Hệ quả trường hợp được sự đồng ý dịch dân sự của người mất
pháp lý của người đại diện hoặc giao năng lực hành vi dân sự do
dịch phục vụ cho nhu cầu sinh người đại diện theo pháp luật
hoạt hàng ngày (Khoản 2, xác lập, thực hiện” (Khoản
Điều 24 – Bộ Luật Dân sự 2, Điều 22 – Bộ Luật Dân
năm 2015). sự năm 2015).
Có thể là cá nhân hoặc pháp
nhân và được gọi là người
Người đại diện của người hạn giám hộ
Người
chế năng lực hành vi dân sự Có thể được chỉ định hoặc
đại diện
do Tòa án chỉ định. đương nhiên trở thành người
đại diện theo quy định của
pháp luật.

1.3.Câu số 3: Trong Quyết định được bình luận, ông P có thuộc trường
hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?

− Hoàn cảnh của công P như trong Quyết định được bình luận không
thuộc trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
− Vì:
+ Thứ nhất:
Căn cứ điều 24 bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người nghiện ma
túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tài sản của gia đình thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ

3
chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.”

Theo kết luận giám định pháp tâm thần số: 286/KLGĐTC, ngày
22/05/2017 đối với ông Lê Văn P của Trung tâm Pháp y tâm thần kh vực
Miền Trung kết luận, tại thời điểm hiện tại:
 Về mặt y học: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tạm thuyên
giảm(F13.7).
 Về mặt pháp luật: Khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi.

Do vậy, ông Lê Văn P không rơi vào trường hợp hạn chế năng lực hành vi
dân sự.

+ Thứ hai:
Căn cứ điều 23 bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên do
tình thần hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của
người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức và chỉ định
người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người dám hộ.”

Theo kết luận bản án số 11/2017/QĐDS-ST ngày 18/07/2017 của Tòa án


nhân dân Thị xã Điện Biên, tỉnh Quảng Nam: Chấp nhận đơn yêu cầu của
bà Vủ Thị H về việc tuyên bố ông Lê Văn P có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.

Do đó, ông Lê Văn P rơi vào trường hợp có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi.

− Kết luận : Từ ý thứ nhất và ý thứ hai ta thấy được ông Lê Văn P không
là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chỉ rơi và trường hợp
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

1.4.Câu số 4: Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị mất năng lực hành vi
dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Khác nhau giữa người bị mất năng lực hành vi dân sự và người có khó
khăn trong nhận thức:

4
Người hạn chế năng lực, Người mất có khó khăn trong
Phương diện
hành vi dân sự nhận thức, làm chủ hành vi
Người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi phải là
người thành niên nhưng do
tình trạng sức khỏe hoặc tinh
Người mất năng lực hành vi thần dẫn đến khả năng nhận
dân sự là người “do bị bệnh thức của họ cũng sẽ bị hạn
tâm thần hoặc mắc bệnh khác chế. Những người có khó
Đối tượng mà không thể nhận thức, làm khăn trong việc nhận thức,
chủ được hành vi”. làm chủ hành vi sẽ gặp khó
khăn trong việc thể hiện ra
bên ngoài ý chí đích thực của
mình so với những người có
năng lực nhận thức bình
thường.
Những cá nhân bị mất năng Người có khó khăn trong nhận
lực hành vi dân sự thì chỉ có thức, làm chủ hành vi có
“người có quyền, lợi ích liên quyền tự yêu cầu Tòa án tuyên
Cơ sở Tòa ra
quan, hoặc cơ quan, tổ chức bố họ có khó khăn trong nhận
quyết định
hữu quan” mới có quyền yêu thức và làm chủ hành vi để
cầu điều đó. bảo vệ tốt nhất quyền lợi của
của mình.

1.5.Câu số 5: Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thuyết phục không? Vì sao?

− Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi là hoàn toàn thuyết phục.
− Xét thấy ông P đủ các điều kiện để Tòa ra quyết định ông P là người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
+ Thứ nhất:
Bà Vủ Thị H gửi lên Tòa đơn yêu cầu tuyên bố ông Lê Văn P có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi. Bà H là vợ ông P thì đương nhiên bà H
là người có quyền, lợi ích liên quan. Vì mục đích của yêu cầu là giải quyết
vụ ly hôn giữa bà Vủ Thị H và ông Lê Văn P.
+ Thứ hai:
Theo kết luận giám định pháp tâm thần số: 286/KLGĐTC, ngày
22/05/2017 đối với ông Lê Văn P của Trung tâm Pháp y tâm thần kh vực
Miền Trung kết luận, tại thời điểm hiện tại: ông P mắc bệnh rối loạn cảm

5
xúc lưỡng cực, hiện tạm thuyên giảm(F13.7). Mà “bệnh rối loạn cảm xúc
lưỡng cực là một rối loạn tại não bộ gây ra sự biến đổi cảm xúc không ổn
định. Người bệnh chuyển từ cảm xúc hưng phấn (hưng cảm) sang cảm xúc
ức chế ( trầm cảm). Bệnh có tính chất chu kỳ xen kẽ giữa hưng phấn và ức
chế.” Bệnh này không thể đánh đồng với bệnh tâm thần hoặc một số bệnh
mà người bệnh không thể nhận thức, làm chủ được hành vi.
+ Thứ ba:
Căn cứ điều 23 bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên do
tình thần hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của
người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức và chỉ định
người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người dám hộ.”
− Kết luận, tuy ông P mắc bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng tính nhưng vẫn
chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Việc Tòa ra quyết định ông P
thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là
có căn cứ và thuyết phục.

1.6.Câu số 6: Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P có


thuyết phục không? Vì sao?

− Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P là hoàn toàn


thuyết phục.
− Vì:
+ Thứ nhất:
Căn cứ khoản 2 điều 46 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp
người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của
mình tại thời điểm yêu cầu.”
Trong lúc diễn ra vụ xét xử ông P đã yêu cầu Tòa án chỉ định bà Huỳnh
Thị T làm người giám hộ cho mình và bà T cũng đồng ý làm người giám
hộ cho ông P, cho nên ngoài bà T ra thì không ai còn đủ điều kiện làm
người giám hộ cho ông P.
+ Thứ hai:
Bà Vủ Thị H là vợ của ông Lê Văn P, theo quyết định tại khoản 1 điều 53
của bộ Luật Dân sự thì bà H là người giám hộ đương nhiên của ông P. Tuy
nhiên, ly do, mục đích bà H yêu cầu tuyên bố ôn P có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi là để giải quyết vụ án ly hôn giữa bà H và ông P mà
tòa thụ lý, Do đó, bà H không đủ điều kiện làm người giám hộ cho ông P.
− Kết luận: từ các ý trên việc Tòa ra quyết định không để bà H làm
người giám hộ cho ông P là hoàn toàn hợp lý.

1.7.Câu số 7: Việc Tòa để bà T là người giám hộ ông P có thuyết phục

6
không? Vì sao?

− Việc Tòa để bà T là người giám hộ ông P là hoàn toàn thuyết phục.


− Vì:
+ Thứ nhất:
Căn cứ điều 23 bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên do
tình thần hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của
người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức và chỉ định
người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người dám hộ.”
Theo kết luận bản án số 11/2017/QĐDS-ST ngày 18/07/2017 của Tòa án
nhân dân Thị xã Điện Biên, tỉnh Quảng Nam: Chấp nhận đơn yêu cầu của
bà Vủ Thị H về việc tuyên bố ông Lê Văn P có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.
Nên ông P cần phải có người giám hộ.
+ Thứ hai:
Căn cứ điều 53 bộ Luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Trường hợp
không có người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật
này thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự
được xác định như sau:
1. Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người
giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người
giám hộ.
2. Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người
mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm
người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không
có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện
làm người giám hộ là người giám hộ.
3. Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ,
chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm
người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.”
Nhưng vợ ông P là bà H không đủ điều kiện làm người giám hộ vì bà yêu
cầu Tòa tuyên bố ông P là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, vì bà H muốn ly dị với ông P. Ngoài ra, ông P không có con và ba
ông thì mất, mẹ ông thì đã bỏ đi được khoảng 20 năm không quay về địa
phương lần nào, hiện nay không biết bà ở đâu, còn sống hay đã chết nên
mẹ của ông P cũng không đủ điều kiện trở thành người giám hộ cho ông.
Do đó, ông P không có người giám hộ đương nhiên. Nên căn cứ khoản 2,
điều 60 – Bộ Luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Nếu không có người
giám hộ đương nhiên thì việc cử, chỉ định người giám hộ được thực hiện
theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật này.”
+ Thứ ba:

7
Căn cứ khoản 2 điều 46 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp
người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của
mình tại thời điểm yêu cầu.”
Trong lúc diễn ra vụ xét xử ông P đã yêu cầu Tòa án chỉ định bà Huỳnh
Thị T làm người giám hộ cho mình và bà T cũng đồng ý làm người giám
hộ cho ông P, nên bà T là người giám hộ cho ông P là phù hợp.
+ Thứ tư:
Xét về nhân thân thì sau khi bà H(mẹ ông P) bot đi thì bà Huỳnh Thị T đến
sống như vợ chồng với ông Lê Văn H cho đến khi ông H chết, đồng thời là
người nuôi dưỡng ông Lê Văn P thừ nhỏ đến tuổi trưởng thành. Hiện nay
ông P cũng đang sống chung nhà với bà T tại thôn Đ, xã Đ.
− Kết luận:
Từ các ý trên, tòa chỉnh định bà Huỳnh Thị T là người nuôi dưỡng làm
người giám hộ cho ông P khi Tòa án tuyên bố ông P có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi là hợp lý và thuyết phục.

1.8.Câu số 8: Với vai trò của người giám hộ, bà T được đại diện ông P
trong những giao dịch nào? Vì sao?

Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ Luật Dân sự quy định: “Người giám hộ của
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền theo quyết
định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1 Điều này.”
Nhưng theo kết luận bản án số 11/2017/QĐDS-ST ngày 18/07/2017 của
Tòa án nhân dân Thị xã Điện Biên, tỉnh Quảng Nam, thì không có điều
khoản nào qui định phạm vi đại diện giao dịch dân sự của bà T đối với ông
P.
Vì vậy, theo tôi hiểu thì bà T có thể đại diện ông P giao dịch theo khoản 1
điều 58 Bộ Luật Dân sự năm 2015.

1.9.Câu số 9: Suy nghĩ cảu anh/chị về chế định người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi mới được bổ sung trong Bộ Luật Dân sự
năm 2015.

Trước đây theo Bộ Luật Dân sự năm 2005, căn cứ vào khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi mà được phân ra nhiều mức độ khác nhau.
Cá nhân khi đủ độ tuổi và không thuộc trường hợp mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự thì họ là những người có năng lực pháp luật đầy đủ, là
người tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự bằng hành vi của họ và
tự chịu trách nhiệm, tự thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của họ.
Điều này không phù hợp và không đảm bảo yếu tố công bằng về quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các quan hệ dân sự. Bởi trong
trường hợp nếu cá nhân bị khuyết thiếu mà ảnh hưởng đến nhận thức và
làm chủ hành vi của họ (ví dụ người già, người tàn tật có khả năng nhận

8
thức không sáng suốt dẫn tới không làm chủ và thực hiện được hành vi)
nhưng không thuộc trường hợp mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự
mà phải thực hiện và chịu trách nhiệm như một người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ thì rất bất hợp lý. Vì trên thực tế không phải mức độ năng
lực hành vi dân sự của cá nhân lúc nào cũng chỉ trong hai thái cực: hoàn
toàn đầy đủ hoặc mất mà có rất nhiều người tuy khả năng nhận thức và
làm chủ không đầy đủ nhưng chưa đến mức mất hoàn toàn năng lực hành
vi dân sự nên việc bổ sung thêm đối tượng người có khó khăn trong nhận
thức và làm chủ hành vi là một điều cần thiết.

Sự bổ sung này hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ mà Hiến pháp 2013 cũng
như Bộ Luật Dân sự năm 2015 là bảo vệ tối đa quyền con người, quyền
công dân.

2.Bài tập 2: Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý

− Tóm tắt bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/9/2012 của Tòa án nhân


dân TP. Hồ Chí Minh.
+ Chủ thể: 1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Hùng.
2. Bị đơn: Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường.
+ Nội dung liên quan: tranh chấp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng,
yêu cầu kháng cáo của Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường
tại TP. HCM.
+ Quyết định của Tòa án: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của
Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và môi trường thành phố Hồ Chí
Minh.
2.1.Câu số 1: Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp
nhân (nêu rõ từng điều kiện).

Căn cứ điều số 74 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:


“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường
hợp luật có quy định khác.”

2.2.Câu số 2: Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường,


Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp

9
nhân không? Đoạn nào của Bản án có câu trả lời.

Trong bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/9/2012 của Tòa án nhân


dân TP. Hồ Chí Minh, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, thì Cơ quan
đại diện của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại TP. Hồ Chí Minh có tư
cách pháp nhân không đầy đủ.
Đây là trích dẫn một phần của nội dung bản án.
“Như vậy Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và môi trường thành phố Hồ
Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại
diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp
của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách của Nhà nước và phân cấp
của Bộ Tài nguyên và Môi trường chứ không phải là một cơ quan hạch toán
độc lập. Mặc dù trong quyết định 1367 nói trên có nội dung “Cơ quan đại
diện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng” nhưng là Cơ
quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ nên cơ quan nầy có tư cách pháp
nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ”

2.3.Câu số 3: Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại
diện của Bộ tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?

Trong Bản án số 1117, Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân vì:
Căn cứ khoản 1,2,5,6 điều 84 Bộ Luật Dân sự năm 2015 có quy định:
“1. Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân,
không phải là pháp nhân.
2. Chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của
pháp nhân.
5. Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ theo
ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.
6. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do
chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện.”
Ta thấy Cơ quan đại diện có không tư cách pháp nhân,tuy cơ quan có con
dấu và tài khoản riêng nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ
nên cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không
đầy đủ. Nên không thể xem cơ quan này có tư cách pháp nhân.

2.4.Câu số 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

− Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa Án là hoàn toàn phù hợp với pháp
luật.
− Bởi vì,
+ Thứ nhất:

10
Căn cứ theo Điều 84 Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Điều 74 Bộ Luật
Dân sự năm 2015 , tổ chức muốn trở thành pháp nhân thì phải đáp
ứng đủ các điều kiện sau:
“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện
sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường
hợp luật có quy định khác.”
+ Thứ hai:
Căn cứ khoản 1,5 điều điều 84 Bộ Luật Dân sự năm 2015 có quy định:
“1. Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân,
không phải là pháp nhân.
5. Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ theo
ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.”

2.5.Câu số 5: Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp


luật dân sự ? Nêu cơ sở khi trả lời (nhất là trên cơ sở Bộ Luật Dân sự
năm 2005 và Bộ Luật Dân sự năm 2015).
Căn cứ điều 16, điều 86 Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì ta thấy được các
điểm khác như sau:

Phương Năng lực pháp luật dân sự Năng lực pháp luật dân sự
diện của cá nhân của pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự của pháp
Quyền nhân là khả năng của pháp nhân có
và Năng lực pháp luật dân sự của cá các quyền, nghĩa vụ dân sự.
nghĩa nhân là khả năng của cá nhân có Năng lực pháp luật dân sự của pháp
vụ dân quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. nhân không bị hạn chế, trừ trường
sự hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan có liên quan quy định khác.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp
nhân phát sinh từ thời điểm được cơ
Năng
quan nhà nước có thẩm quyền
lực
Mọi cá nhân đều có năng lực pháp thành lập hoặc cho phép thành lập;
pháp
luật dân sự như nhau. nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt
luật dân
động thì năng lực pháp luật dân sự
sự
của pháp nhân phát sinh từ thời
điểm ghi vào sổ đăng ký.
Năng lực pháp luật dân sự 11
của cá Năng lực pháp luật dân sự của pháp
Thời
nhân có từ khi người đó sinh ra và nhân chấm dứt kể từ thời điểm
hạn
chấm dứt khi người đó chết. chấm dứt pháp nhân.
2.6.Câu số 6: Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh
pháp nhân có ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ điều 87 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:


“Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.”

 Khi người đại diện theo pháp luật thực hiện các hành vi nhân danh pháp
nhân thì hành vi của người đó đã làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp
nhân, đồng thời cũng làm phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân.
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân cũng phát sinh trong các trường hợp
hoạt động của pháp nhân mà không dựa trên quan hệ hợp đồng. Pháp nhân
còn phải chịu trách nhiệm dân sự do hành vi của các thành viên khác của
pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao.

2.7.Câu số 7: Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam
Hà có ràng buộc Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Căn cứ Điều 84 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân,
không phải là pháp nhân.
2. Chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng
của pháp nhân.
3. Văn phòng đại diện có nhiệm vụ đại diện trong phạm vi do pháp nhân
giao, bảo vệ lợi ích của pháp nhân.
4. Việc thành lập, châm dứt chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân
phải được đăng ký theo quy định của pháp luật và công bố công khai.
5. Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ
theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.
6. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do
chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện.”

Theo đó ta thấy trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam
Hà có ràng buộc Công ty Bắc SơnTrong tình huống trên, hợp đồng ký kết
với Công ty Nam Hà có ràng buộc Công ty Bắc Sơn

3.Bài tập 3: Trách nhiệm dân sự của pháp nhân

− Tóm tắt bản án:


+ Chủ thể:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Dịch vụ – Xây dựng – Thương mại
Ngọc Bích. Đại diê ̣n theo ủy quyền là ông Nguyễn Anh Trí

12
2. Bị đơn: Công ty TNHH Xuất nhâ ̣p khẩu Thương Mại Xuyên Á,
giám đốc ông Trần Ngọc Phong;
Người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng: ông Trần Ngọc Phong, bà
Võ Thị Thanh Hiền;
Người đại diê ̣n theo ủy quyền: bà Hồ Hoàng Phượng.
+ Nô ̣i dung: xét xử vụ án thụ lý số: 01/2016/TLPT-KDTM ngày
26/01/2016 về viê ̣c tranh chấp “ Hợp đồng mua bán hàng hóa”. Do bản
án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2015/KDTM-ST ngày
27/10/2015 của Tòa án nhân dân Tri Tôn bị kháng cáo.
Công ty Ngọc Bích yêu cầu công ty Xuyên Á thanh toán nợ gốc
77.000.752 đ và yêu cầu tính lãi từ ngày 16/ 06/2011 đến nay theo mức
lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà Nước. Ông Phong và bà Hiền
không đồng ý với bản án sơ thẩm nên kháng cáo.
3.1.Câu số 1: Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành
viên và trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp
nhân.

− Trách nhiê ̣m của pháp nhân đối với các thành viên:
Căn cứ khoản 1,2 Điều 87 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:
“ 1. Pháp nhân phải chịu trách nhiê ̣m dân sự về viê ̣c thực hiê ̣n quyền,
nghĩa vụ dân sự do người đại diê ̣n xác lâ ̣p, thực hiê ̣n nhân danh pháp
luâ ̣t
Pháp nhân chịu trách nhiê ̣m dân sự về nghĩa vụ do sáng lâ ̣p viên hoă ̣c
đại diê ̣n của sáng lâ ̣p viên xác lâ ̣p, thực hiê ̣n để thành lâ ̣p, đăng kí pháp
nhân, trừ trường hợp có thỏa thuâ ̣n khác hoă ̣c luâ ̣t có quy định khác.
2. Pháp nhân chịu trách nhiê ̣m dân sự bằng tài sản của mình, không
chịu trách nhiê ̣m thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân
sự do người của pháp nhân xác lâ ̣p, thực hiê ̣n không nhân danh pháp
nhân, trừ trường hợp luâ ̣t có quy định khác.”
− Trách nhiê ̣m các thành viên đối với pháp nhân:
Căn cứ khỏan 3 Điều 87 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định:
“Người của pháp nhân không chịu trách nhiê ̣m dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lâ ̣p, thực hiê ̣n, trừ
trường hợp luâ ̣t có quy định khác.”

3.2.Câu số 2: Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của
Công ty Xuyên Á không? Vì sao?

Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại Xuyên Á giải thể theo
thông báo về việc doanh nghiệp giải thể ngày 17/3/2014 của Sở Kế
hoạch và Đầu tư tỉnh An Giang. Trước khi giải thể (ngày 17/3/2014),
bà Hiền là một thành viên của Công ty Xuyên Á với số vốn góp là

13
26,04%. Ngày diễn ra giao dịch được đề cập trong bản án là
13/6/2011, lúc này bà Hiền vẫn là thành viên của Công ty Xuyên Á.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2015/KDTM-ST ngày
27/10/2015 của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, lúc này công ty
Xuyên Á đã giải thể nên bà Hiền không còn là thành viên của công
ty khi tư cách pháp nhân của công ty đã chấm dứt. Tương tự như vậy,
ngày 17/3/2016 xét xử phúc thẩm thì bà Hiền cũng không còn là thành
viên của công ty Xuyên Á.
Công ty Xuyên Á là công ty TNHH nên thành viên công ty chỉ chịu
TNHH với phần vốn góp của mình trước thi công ty giải thể.

3.3.Câu số 3: Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công
ty Xuyên Á hay của bà Hiền? Vì sao?

Căn cứ theo Khoản 3 – Điều 93 – Bộ Luật Dân sự năm 2005:


“Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện”
thì nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty
Xuyên Á vì nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích được xác lập lúc công
ty Xuyên Á còn là pháp nhân chưa bị giải thể nên bấy giờ không thể
xem đây là nghĩa vụ của bà Hiền khi mà bà Hiền chỉ là một thành viên
của công ty.’

[Nay là Khoản 3 – Điều 87 – Bộ Luật Dân sự năm 2015: “Người của


pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với
nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật
có quy định khác”].

3.4.Câu số 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ
thẩm và Tòa cấp phúc thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty
Ngọc Bích.
− Xét về mặt xác định tư cách pháp nhân:
Căn cứ khoản 4 – Điều 84 – Bộ Luật Dân sự năm 2005:
“Pháp nhân là một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các
điều kiện sau đây:
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.”
[nay là Điểm d - Khoản 1 - Điều 74 - Bộ Luật Dân sự năm 2015].

Bản án sơ thẩm của TAND huyện Tri Tôn đã xác định chính xác tư
cách pháp nhân của 2 công ty: Công ty TNHH Dịch vụ - Xây dựng -
Thương mại Ngọc Bích và công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương
mại Xuyên Á.
− Về mặt xác định trách nhiệm dân sự của pháp nhân:
Việc tòa sơ phẩm yêu cầu giải quyết nợ đối với các thành viên của một

14
pháp nhân đã giải thể là chưa đúng với quy định tại Khoản 3 – Điều
84: “Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản đó” và Khoản 3 – Điều 93 – Bộ Luật Dân sự năm
2005: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay
cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực
hiện.” [nay là Điểm c – Khoản 1 – Điều 74 và Khoản 3 – Điều 87 – Bộ
Luật Dân sự năm 2015].
− Về mặt thanh toán tài sản của pháp nhân bị giải thể:
Thấy rằng, Công ty Xuất nhập khẩu Thương mại Xuyên Á đã giải thể
theo thông báo về việc doanh nghiệp giải thể ngày 17/03/2014 của Sở
Kế hoạch và Đầu tư tỉnh An Giang. Việc này chứng minh pháp nhân
đã được giải thể trước ngày thụ lý hồ sơ vụ việc 27/10/2015, tuy vậy
cấp sơ thẩm không thu thập chứng cứ làm rõ để xác định lý do giải thể,
tài sản của Công ty khi giải thể và nghĩa vụ về tài sản của công ty…

− Kết luận:
+ Cấp sơ thẩm chưa áp dụng triệt để các điều luật quy định về pháp
nhân tại Bộ Luật Dân sự năm 2005 dẫn đến những sai sót không thể
khắc phục và kết quả là phải hủy bản án.
+ Cấp phúc thẩm sau khi nghiên cứu kĩ các quy định về trách nhiệm
dân sự của pháp nhân đã có quyết định đúng đắn khi hủy án và đề nghị
giải quyết lại vụ án.

3.5.Câu số 5: Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích
khi Công ty Xuyên Á đã bị giải thể?

Công ty Ngọc Bích đã giao cho Công ty Xuyên Á 1094 thùng gạch
loại 25x40 trong thời hạn yêu cầu và không nhận được bất kì thông tin
phản hồi nào về chất lượng sản phẩm. Đồng nghĩa, sản phẩm được
giao đã đáp ứng đúng yêu cầu và Công ty xuyên Á phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán đầy đủ chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng mua
bán.
Vào ngày 10/6/2011 Công ty Xuyên Á mở ủy nhiệm chi cho thấy đã
chuyển vào Ngân hàng Sacombank với số tiền 77.000.752đ khiến
Công ty Ngọc Bích tin tưởng rằng Công ty Xuyên Á tuân theo hợp
đồng và đã trích tiền ra để thanh toán cho hợp đồng mua bán nhưng
thực tế là không có chuyển tiền. Vậy số tiền 77.000.752đ hiện tại đang
ở đâu?
Việc công ty Xuyên Á thanh lý nợ và chỉ đồng ý trả cho công ty Ngọc
Bích số tiền là 36.170.500đ, với lý do sai phạm từ phía công ty Ngọc
Bích khiến công ty Xuyên Á thiệt hại 40.829.500đ. Điều này không có
căn cứ chứng minh. Chứng tỏ, công ty Xuyên Á đã không minh bạch
trong việc trả nợ.

15
Từ đó, có thể nói công ty Xuyên Á đã có hành vi khai gian khi không
đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác theo
Khoản 2, Điều 157, Luật Doanh nghiệp 2005, nhằm tiến hành trục lợi
riêng cho doanh nghiệp.
Chiếu theo Khoản 4 và 5, Điều 40, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP về
Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, có
quy định:
“4. Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội
đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ
doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp
danh chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể
doanh nghiệp.
5. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo.”
Những người quy định tại Khoản 4 Điều này phải liên đới chịu trách
nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi
của người lao động chưa được giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân
trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 03 năm, kể từ
ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư”.
+ Vậy ông Phong và bà Hiền phải chịu các trách nhiệm do mình gây
ra.
+ Theo Khoản 1 Điều 94 BLDS 2015: Tài sản của pháp nhân bị giải
thể được thanh toán theo thứ tự là chi phí giải thể pháp nhân, các
khoản nợ lương, các loại bảo hiểm xã hội, nợ thuế và các khoản nợ
khác. Khi Công ty Xuyên Á giải thể, vấn đề tài sản của pháp nhân, một
phần do BLDS 2005 không có quy định cụ thể về việc thanh toán tài
sản pháp nhân khi bị giải thể, một phần do không có chứng từ cụ thể
để xác minh rằng sau khi trả những khoảng chi phí cần thiết, nếu tài
sản của pháp nhân còn có thể chi trả cho khoản nợ hợp đồng nhưng
các thành viên quản lý công ty không chịu trả nợ, thì các thành viên
công ty đã vi phạm hợp đồng. Dù pháp nhân bị giải thể tuy nhiên nếu
trong quá trình giải thể diễn ra có sai sót các thành viên vẫn phải liên
đới cùng nhau chịu trách nhiệm trả nợ cho công ty.

Các tài liệu được sử dụng trong quá trình làm bài:

+ Bộ luật dân sự 2005;


+ Bộ luật dân sự 2015;
+ Bộ Luật danh nghiệp năm 2005;
+ Đỗ Văn Đại và Nguyễn Thanh Thư, “Vấn đề bảo hộ người mất năng
lực hành vi dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2011 (được cung
cấp cùng với đề cương);
+ Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015”–

16
PGS.TS. Đỗ Văn Đại (Chủ biên);
+ Lê Minh Hùng, Giáo trình “Những vấn đề chung về Luật dân sự”
của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam 2018.

17
LỜI CẢM ƠN !
Em xin chân thành cảm ơn thầy đã đọc bài tiểu luận, không tránh
khỏi những thiếu sót mong thầy bỏ qua và góp ý để em sẽ hoàn
thiện mình hơn vào những bài sau.

Tác giả
Nguyễn Long Thiện

18

You might also like