Professional Documents
Culture Documents
BÀI TẬP THẢO LUẬN DÂN SỰ
BÀI TẬP THẢO LUẬN DÂN SỰ
Khác:
Tiêu chí Hạn chế năng lực hành vi
Mất năng lực hành vi dân sự
dân sự
Căn cứ pháp lý Điều 24 Bộ Luật dân sự 2015 Điều 22 Bộ Luật dân sự 2015
Người nghiện ma túy, nghiện Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
Đối tượng các chất kích thích dẫn đến bệnh khác mà không thể nhận
phá tán tài sản của gia đình. thức, làm chủ được hành vi.
- Theo yêu cầu của người có
Căn cứ Tòa án ra Theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của
quyền, lợi ích liên quan hoặc
cơ quan, tổ chức hữu quan.
quyết định của cơ quan, tổ chức hữu
- Trên cơ sở kết luận giám định
quan.
pháp y tâm thần.
Người đại diện Tòa án quyết định. Người đại diện theo pháp luật.
Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi?
Người có khó khăn trong
Người bị hạn chế năng lực
Tiêu chí nhận thức làm chủ hành
hành vi dân sự
vi
Người thanh niên do tình
trạng thể chất hoặc tinh
Người nghiện ma túy,
thần mà không đủ khả
nghiện các chất kích thích
Đối tượng năng nhận thức, làm chủ
khác dẫn đến phá tán tài sản
hành vi nhưng chưa đến
gia đình.
mức mất năng lực hành vi
dân sự.
Thời điểm xác định thuộc Khi Tòa án ra quyết định
Khi Tòa án ra quyết định.
đối tượng tuyên bố.
1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có các
quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu
thiết yếu của người được giám hộ;
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và
thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền theo
quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1 Điều này."
Bộ luật Dân sự 2015 chia nghĩa vụ của người giám hộ theo từng trường hợp như
sau:
Theo Điều 55 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ đối với người được giám hộ chưa
đủ mười lăm tuổi. cụ thể:
"Điều 55. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm
tuổi
1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ.
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật
quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ.
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ."
Tại Điều 56 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ đối với người được giám hộ
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, cụ thể:
"Điều 56. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi
1. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật
quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự.
2. Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ."
Theo Điều 57 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ đối với người được giám hộ
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
cụ thể:
"Điều 57. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;
d) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ
theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này."
Căn cứ Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách
nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực
hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người
được giám hộ.
Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch
dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý
của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác.
Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài
sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi
ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý
tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm vi được quy định
tại khoản 1 Điều này."
Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của
ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được
hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Toà án nhân
dân tối cao về vấn đề vừa nêu.
- Theo quy định và tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của ông
Chảng là bà Bích không được tham gia vào việc chia di sản thừa kế vì sau khi xét xử
phúc thẩm, UBND phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, TP Hà Nội có Công văn số
31/UBND-TP ngày 8/3/2019 xác nhận: "Qua kiểm tra xác minh sổ đăng kí kết hôn năm
2001 của phường cho thấy không có trường hợp đăng kí kết hôn nào có tên ông Lê Văn
Chảng và bà Nguyễn Thị Bích". Mặt khác, tại Công văn số 62 ngày 21/1/2020, cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, TP Hà Nội xác định hành vi không xác minh
tình trạng hôn nhân, không lập hồ sơ theo quy định về đăng kí hộ tịch, nhưng vẫn kí xác
nhận giấy đăng kí kết hôn và trình lãnh đạo UBND phường Yên Nghĩa, của ông Bùi Viết
Tánh (cán bộ tư pháp UBND phường Yên Nghĩa) có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Căn cứ
các tài liệu này, thể hiện “Giấy đăng kí kết hôn - Đăng kí lại” ngày 15/10/2001 giữa bà
Bích và ông Chảng, do bà Bích xuất trình là không đúng thực tế và không có việc đăng kí
kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng. Như vậy, tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án bà
Bích không phải là vợ hợp pháp nên bà Bích không thể tham gia vào việc chia di sản thừa
kế của ông Chảng. Nhưng tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với
ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác
định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987.
Trường hợp này, bà Chung và ông Chảng được công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy
định tại điểm a, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về
việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình. Tuy nhiên mặc dù là vợ hợp pháp của ông
Chảng nhưng không được Tòa xác định là người đại diện hợp pháp của ông Chảng, nên
bà Chung không thực hiện được quyền kháng cáo để bảo vệ quyền lợi của ông Chảng.
- Theo tôi, hướng xử lý của TAND Tối cao là hợp lý vì vẫn còn rất nhiều khuất tất trong
vụ án, cần phải đưa vụ án ra TAND TP. Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy
định của pháp luật.
(Tài liệu tham khảo: https://ngaymoionline.com.vn/nguoi-giam-ho-bo-mac-quyen-
loi-cua-nguoi-duoc-giam-ho-he-luy-tu-mot-ban-an-19780.html )