You are on page 1of 7

- Tóm tắt quyết định số 52/2020/DS-GDT ngày 11/9/2020 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao:


+ Bản án sơ thẩm số 10/2008/DSST ngày 31/1/2008, do Tòa án nhân dân Thành phố Hà
Nội xét xử vụ án do ông Lê Văn Tiếu khởi kiện ông Lê Văn Chỉnh (trai trưởng) và ông
Lê Văn Chảng (em ruột ông Chỉnh) đi chia thừa kế nhà, đất của cụ Lê Bá Cơ gồm ngôi
nhà cổ năm gian mái ngói có diện tích 685m 2 và 1 cái ao diện tích 385m2. Theo đó ông
Lê Văn Chảng và vợ là bà Nguyễn Thị Chung (vợ hợp pháp của ông Chảng) là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Thế nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã kết luận bà Chung
không phải là vợ chính thức của ông Chảng mà thừa nhận việc ông Lê Văn Chảng kết
hôn với bà Nguyễn Thị Bích ngày 15/10/2001 và đưa bà Bích trở thành người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bác bỏ quyền và nghĩa vụ chính đáng theo pháp luật của
bà Chung.
+ Bản án sơ thẩm số 10/2008 bị kháng cáo bởi bà Chung và ông Chỉnh, địa phúc thẩm –
Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử phúc thẩm lại Bản án số 07/2009/DSPT ngày
14/1/2009
+ Sau khi Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao ra Bản án số 07/2009/DSPT nêu trên,
con ruột của bà Chung và ông Chảng (bà Lê Thị Bích Thủy) đã có đơn đề nghị xem xét
giám đốc thẩm bản án trên tại Tòa án nhân dân tối cao. Do có những tình tiết mới có thể
làm thay đổi vụ án như xác định bà Bích không phải vợ hợp pháp của ông Chảng mà bà
Chung mới là vợ hợp pháp của ông, xét xử sai của tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm:
chia không đồng đều nên Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân
sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định
của pháp luật.
*Năng lực hành vi dân sự cá nhân:
 Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân
sự và mất năng lực hành vi dân sự?
Giống:
- Họ là những người từng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Một người chỉ được coi là bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành
vi dân sự khi có quyết định tuyên bố của Tòa án. Đồng thời, khi không còn căn cứ cho
việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án cũng phải ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố trước đó.
- Khi một cá nhân đã bị Tòa án tuyên bố hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì
không thể tự mình tham gia các giao dịch dân sự mà bắt buộc phải được thực hiện bởi
người đại diện hợp pháp của người này.

Khác:
Tiêu chí Hạn chế năng lực hành vi
Mất năng lực hành vi dân sự
dân sự
Căn cứ pháp lý Điều 24 Bộ Luật dân sự 2015 Điều 22 Bộ Luật dân sự 2015
Người nghiện ma túy, nghiện Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
Đối tượng các chất kích thích dẫn đến bệnh khác mà không thể nhận
phá tán tài sản của gia đình. thức, làm chủ được hành vi.
- Theo yêu cầu của người có
Căn cứ Tòa án ra Theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của
quyền, lợi ích liên quan hoặc
cơ quan, tổ chức hữu quan.
quyết định của cơ quan, tổ chức hữu
- Trên cơ sở kết luận giám định
quan.
pháp y tâm thần.
Người đại diện Tòa án quyết định. Người đại diện theo pháp luật.

- Phải có sự đồng ý của người


Thực hiện giao dịch đại diện theo pháp luật.
- Trừ giao dịch nhằm phục vụ Do người đại diện theo pháp luật
dân sự nhu cầu sinh hoạt hàng ngày xác lập, thực hiện.
hoặc luật liên quan có quy
định khác.

 Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi?
Người có khó khăn trong
Người bị hạn chế năng lực
Tiêu chí nhận thức làm chủ hành
hành vi dân sự
vi
Người thanh niên do tình
trạng thể chất hoặc tinh
Người nghiện ma túy,
thần mà không đủ khả
nghiện các chất kích thích
Đối tượng năng nhận thức, làm chủ
khác dẫn đến phá tán tài sản
hành vi nhưng chưa đến
gia đình.
mức mất năng lực hành vi
dân sự.
Thời điểm xác định thuộc Khi Tòa án ra quyết định
Khi Tòa án ra quyết định.
đối tượng tuyên bố.

Người đại diện theo pháp Người giám hộ do Tòa án


Người đại diện
luật. chỉ định.
Khi không còn căn cứ
Khi không còn căn cứ tuyên tuyên bố một người có khó
bố một người bị hạn chế khăn trong nhận thức, làm
năng lực hành vi dân sự thì chủ hành vi thì Tòa án ra
Trường hợp chấm dứt
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định hủy bỏ quyết
quyết định tuyên bố hạn chế định tuyên bố người có
năng lực hành vi dân sự. khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.
(Nguồn: Đỗ Văn Đại, Những quy định chung về luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức)
 Trong quyết định số 52, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định năng lực hành vi
dân sự của ông Chảng như thế nào ?
- Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày18/12/2007,
Hội đồng giám định y khoa Trung ương – Bộ Y tế xác định ông Chảng: “Không tự đi
lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ
tròn kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại
không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được xác định tỉ lệ mất khả năng lao động do
bệnh tật là: 91%...”.
- Do đó, dựa trên biên bản giám định Tòa án tối cao xác định ông Chảng mất năng lực
hành vi dân sự.
 Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì
sao?
- Theo tôi hướng giải quyết của tòa án trong câu hỏi trên rất thuyết phục.
- Vì sai sót khi chia tài sản cho ông Chỉnh và ông Chảng vậy nên đã gây thiệt hại cho
ông Chỉnh về vấn đề chia tài sản.Vấn đề bà Chung mặc dù là vợ hợp pháp của ông
Chảng nhưng lại không được tòa án xác nhận là người đại diện hợp pháp vậy nên
quyết định ”kháng nghị tái thẩm số 4/2020/KN-DS ngày 23/6/2020” của chánh án tòa
án nhân dân tối cao, hủy “bản án dân sự phúc thẩm số 7/2009/DSPT ngày
14/01/2009” của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án” dân sự
sơ thẩm số10/2008/DSST ngày 31/01/2008” của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
và “quyết định giao hồ sơ cho tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại” là thuyết
phục.
 Theo Tòa án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới có thể là
người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Tòa án nhân dân tối cao như vậy có
thuyết phục không, vì sao?
- Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào “Biên bản giám định khả năng lao động” và“Giấy
chứng nhận kết hôn - Đăng kí lại” ngày 15 tháng 10 năm 2001, do bà Bích xuất trình
để xác định bà Bích là vợ và người giám hộ hợp pháp của ông Chảng là không đúng
qui định tại khoản 1 Điều 22, Điều 58, Điều 62 Bộ luật dân sự 2005.
- Với những tài liệu thể hiện chứng cứ giữa bà Bích và ông Chảng do bà Bích xuất trình
là không thực tế và không có việc đăng ký kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng. Tại
thời điểm Tòa án giải quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng.
Do đó, bà Bích không đủ điều kiện được cử làm người giám hộ cho ông Chảng theo
quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005.
- Ngoài ra, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với ông Chảng
từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác định bà
Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987,
trường hợp này bà Chung và ông Chảng được công nhận là vợ chồng hợp pháp theo
quy định tại điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 06 năm
2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
- Hướng của Tòa án nhân dân tối cao không thuyết phục ở giai đoạn sơ thẩm và phúc
thẩm không rõ ràng về việc xác định người giám hộ cho ông Chảng.
- Tại thời điểm việc phân chia tài sản gây thiệt hại cho ông Chảng nhưng bà Bích
(người tự xưng là giám hộ của ông Chảng và được Tòa sơ thẩm và phúc thẩm đồng ý)
không kháng cáo yêu cầu chia lại, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Chảng
không đươc pháp luật bảo vệ.
- Còn bà Chung, mặc dù là vợ hợp pháp nhưng không được Tòa xác định là người đại
diện hợp pháp của ông Chảng, nên bà Chung không thực hiện được quyền kháng cáo
để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ông Chảng. Tuy nhiên, bị kháng cáo nên Tòa phúc
thẩm tại Bản án số 07/2009/DSPT ngày 14 tháng 01 năm 2009 đã quyết định bà
Nguyễn Thị Chung là vợ hợp pháp của ông Lê Văn Chảng nên hướng giải quyết của
Tòa được thuyết phục hơn. Từ việc xác định không đúng người đại diên hợp pháp của
ông Chảng, đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Chảng.
 Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người được
giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý)
 Theo Điều 58 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

"Điều 58. Quyền của người giám hộ

1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có các
quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu
thiết yếu của người được giám hộ;
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và
thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền theo
quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1 Điều này."
 Bộ luật Dân sự 2015 chia nghĩa vụ của người giám hộ theo từng trường hợp như
sau:

Theo Điều 55 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ đối với người được giám hộ chưa
đủ mười lăm tuổi. cụ thể:

"Điều 55. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm
tuổi
1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ.
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật
quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ.
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ."
 Tại Điều 56 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ đối với người được giám hộ
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, cụ thể:
"Điều 56. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi
1. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật
quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự.
2. Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ."
 Theo Điều 57 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ đối với người được giám hộ
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
cụ thể:
"Điều 57. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;
d) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ
theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này."
 Căn cứ Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

"Điều 59. Quản lý tài sản của người được giám hộ

1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách
nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực
hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người
được giám hộ.
Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch
dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý
của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác.
Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài
sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi
ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý
tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm vi được quy định
tại khoản 1 Điều này."
 Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của
ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được
hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Toà án nhân
dân tối cao về vấn đề vừa nêu.
- Theo quy định và tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của ông
Chảng là bà Bích không được tham gia vào việc chia di sản thừa kế vì sau khi xét xử
phúc thẩm, UBND phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, TP Hà Nội có Công văn số
31/UBND-TP ngày 8/3/2019 xác nhận: "Qua kiểm tra xác minh sổ đăng kí kết hôn năm
2001 của phường cho thấy không có trường hợp đăng kí kết hôn nào có tên ông Lê Văn
Chảng và bà Nguyễn Thị Bích". Mặt khác, tại Công văn số 62 ngày 21/1/2020, cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, TP Hà Nội xác định hành vi không xác minh
tình trạng hôn nhân, không lập hồ sơ theo quy định về đăng kí hộ tịch, nhưng vẫn kí xác
nhận giấy đăng kí kết hôn và trình lãnh đạo UBND phường Yên Nghĩa, của ông Bùi Viết
Tánh (cán bộ tư pháp UBND phường Yên Nghĩa) có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Căn cứ
các tài liệu này, thể hiện “Giấy đăng kí kết hôn - Đăng kí lại” ngày 15/10/2001 giữa bà
Bích và ông Chảng, do bà Bích xuất trình là không đúng thực tế và không có việc đăng kí
kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng. Như vậy, tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án bà
Bích không phải là vợ hợp pháp nên bà Bích không thể tham gia vào việc chia di sản thừa
kế của ông Chảng. Nhưng tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với
ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác
định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987.
Trường hợp này, bà Chung và ông Chảng được công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy
định tại điểm a, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về
việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình. Tuy nhiên mặc dù là vợ hợp pháp của ông
Chảng nhưng không được Tòa xác định là người đại diện hợp pháp của ông Chảng, nên
bà Chung không thực hiện được quyền kháng cáo để bảo vệ quyền lợi của ông Chảng.
- Theo tôi, hướng xử lý của TAND Tối cao là hợp lý vì vẫn còn rất nhiều khuất tất trong
vụ án, cần phải đưa vụ án ra TAND TP. Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy
định của pháp luật.
(Tài liệu tham khảo: https://ngaymoionline.com.vn/nguoi-giam-ho-bo-mac-quyen-
loi-cua-nguoi-duoc-giam-ho-he-luy-tu-mot-ban-an-19780.html )

You might also like