You are on page 1of 16

Buổi thảo luận thứ nhất: Chủ thể của pháp luật dân sự

Năng lực hành vi dân sự cá nhân

1. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân sự và
mất năng lực hành vi dân sự:

Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự


1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người
mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện
theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa
án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật
liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
 Điểm giống nhau:
- Một cá nhân bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có quyết định
của Tòa án.
1
-Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc người có
quyền, lợi ích liên quan, cơ quan tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố cá nhân bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
 Điểm khác nhau:

Hạn chế năng lực hành vi dân sự Mất năng lực hành vi dân sự

- -Hạn chế năng lực hành vi dân sự là người - -Mất năng lực hành vi dân sự là người bị
nghiện ma túy hoặc các chất kích thích mắc bệnh tâm thần hoặc các loại bệnh
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. khác mà không thể nhận thức, làm chủ
- -Tuyên bố dựa trên yêu cầu của người có được hành vi.
quyền, lợi ích liên quan, cơ quan tổ chức - -Tuyên bố dựa trên yêu cầu của người có
hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định quyền, lợi ích liên quan, cơ quan tổ chức
tuyên bố một cá nhân bị hạn chế năng lực hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
hành vi dân sự. mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận của tổ chức giám định pháp y tâm
- -Người bị tuyên bố mất năng lực hành vi thần.
dân sự được xác lập các giao dịch phục vụ - -Mọi giao dịch dân sự của người mất năng
nhu cầu hàng ngày, còn giao dịch khác lực hành vi dân sự phải do người đại diện
phải được sự đồng ý của người đại diện. theo pháp luật xác lập, thực hiện.

2. Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và là
người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:

Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự


1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa
án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật
liên quan có quy định khác.

2
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và
chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
 Điểm khác nhau
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân Người khó khăn trong nhận thức, làm
sự chủ hành vi
- -Hạn chế năng lực hành vi dân sự là- -Người thành niên do tình trạng thể chất
người nghiện ma túy hoặc các chất kích hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa
đình. đến mức mất năng lực hành vi dân sự.
- -Việc xác định người bị hạn chế năng lực- -Việc xác định người khó khăn trong
hành vi dân sự là căn cứ vào khả năng nhận thức, làm chủ hành vi dựa trên cơ
nhận thức của người này-bị tác động bởi sở kết luận giám định tâm thần.
chất ma túy hoặc các chất kích thích
khác.

3
3. Trong quyết định trên, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định năng lực hành vi dân
sự của ông Chảng như thế nào?

Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/CĐYK-KNLĐ ngày 18/12/2007, Hội
đồng giám định y khoa Trung ương -Bộ Y tế xác định ông Chảng “..... Không tự đi lại
được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn
kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ
năng lực hành vi lập di chúc. Được xác lập tỷ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật
là:91%...”, ông Chảng do tình trạng thể chất và tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, Tòa án
nhân dân tối cao đã xác định ông Chảng là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.

4. Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục hay không?
Vì sao?

Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên thuyết phục. Bởi vì theo Hội đồng
giám định y khoa Trung ương -Bộ Y tế xác định ông Chảng “.... Không tự đi lại được.
Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu
trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng
lực hành vi lập di chúc. Được xác lập tỷ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật là:91%...”,
ông Chảng do tình trạng thể chất và tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự.

5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới có thể là
người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Tòa án nhân dân tối cao như vậy có
thuyết phục không, vì sao?

Người giám hộ theo pháp luật của ông Chảng là bà Nguyễn Thị Chung.

Người không thể là người giám hộ theo pháp luật của ông Chảng là bà Nguyễn Thị Bích.

Hướng của Tòa án nhân dân tối cao hoàn toàn thuyết phục vì Tòa án cấp sơ thẩm đã căn
cứ vào “Biên bản giám định khả năng lao động” nêu trên và “Giấy chứng nhận kết hôn –
Đăng ký lại” ngày 15/10/2001 do bà Bích xuất trình để xác định bà Bích là vợ ông Chảng,
đồng thời là người giám hộ của ông Chảng là không đúng theo quy định tại khoản 1 Điều
22, Điều 58, Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên, sau khi xét xử phúc thẩm, Ủy
ban nhân dân phường Yên Nghĩa, thành phố Hà Nội có Công văn số 31/UBND-TP ngày
08/3/2019 xác nhận:”.. Qua kiểm tra xác minh số đăng kí kết hôn năm 2001 của phường
cho thầy không có trường hợp đăng ký kết hôn nào có tên ông Lê Văn Chảng và bà
Nguyễn Thị Bích...”. Mặt khác, tại Công văn số 62 ngày 21/01/2020, Cơ quan Cảnh sát
4
điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xác định hành vi không xác minh tình
trạng hôn nhân, không lập hồ sơ theo quy định về đăng ký hộ tịch, nhưng vẫn xác nhận
giấy đăng ký kết hôn và trình Lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường Yên Nghĩa ký của ông
Bùi Viết Lách ( cán bộ tư pháp Ủy ban nhân dân phường Yên Nghĩa) có dấu hiệu vi phạm
pháp luật. Với tài liệu này thể hiện chứng cứ “Giấy chứng nhận kết hôn – Đăng ký lại”
ngày 15/10/2001 giữa bà Bích và ông Chảng do bà Bích xuất trình là không đúng thực tế
và không có việc đăng ký kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng. Như vậy, tại thời điểm Tòa
án giải quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng. Do đó, bà Bích
không đủ điều kiện được cử làm người giám hộ cho ông Chảng theo quy định tại khoản 1
Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005. Đây là tình tiết mới, quan trọng của vụ án có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của Bản án mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải
quyết vụ án, theo quy định tại Điều 351, khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Ngoài ra, tài liệu trong vụ án thể hiện bà Chung chung sống với ông Chảnh từ năm 1975,
có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác định bà Chung và ông Chảnh
chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987, trường hợp này bà Chung
và ông Chảnh là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại điểm a mục 3 Nghị quyết số
35/2000/NQ-QH10) ngày 09/6/2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia
đình. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Bích là vợ hợp pháp của ông Chành, từ đó bà Bích là
người giám hộ cho ông Chảng là không đúng.

6. Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người được
giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý).

 Quyền của người giám hộ đối với tài sản của người được giám hộ:
Theo Khoản 1 Điều 58 BLDS năm 2015, người giám hộ của người chưa thành niên,
mất năng lực hành vi dân sự có các quyền sau đây:
“1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
có các quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những
nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người
được giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.”

Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền theo
quyết định của Tòa án trong số các quyền nêu trên.

5
“Theo Điều 59 BLDS năm 2015 về Quản lý tài sản của người được giám hộ:

1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách
nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được
giám hộ.

Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch
dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của
người giám sát việc giám hộ.

Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các
giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của
người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của
người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý tài
sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm vi được quy định tại
khoản 1 Điều này.”

 Nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người được giám hộ:

- Theo Điều 56 BLDS, nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:

“Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật
quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự.

Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.”

Theo điều 57 BLDS Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1. Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:

a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;
d) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

6
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ theo
quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này.

7. Theo quy định và Tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của
ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được
hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối
cao về vấn đề vừa nêu.

- Theo quy định và Tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của ông Chảng
được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được hưởng). Vì ông Chảng là
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được Tòa án tuyên bố, theo khoản 1
Điều 23 trong Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa
vụ của người giám hộ. Vậy nên, người giám hộ của ông Chảng được tham gia vào việc
chia di sản thừa kế thay cho ông Chảng (nhưng không được hưởng di sản thừa kế mà ông
Chảng được hưởng).
- Hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu rất hợp lý và thuyết phục:
+ Về tố tụng, Tòa án giải quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông
Chảng sau đó do có căn cứ, Tòa án công nhận ông Chảng và bà Chung là vợ chồng
hợp pháp theo quy định tại điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Tòa án cấp sơ
thẩm xác định bà Bích là vợ hợp pháp của ông Chảng, từ đó cử bà Bích làm người
giám hộ cho ông Chảng là không đúng.
+ Về nội dung, vì xác định không đúng người đại diện của ông Chảng đã làm ảnh
hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông trong vụ án chia tài sản chung và chia thừa
kế. Tòa án cấp sơ thẩm không xác định bà Chung là vợ hợp pháp của ông Chảng nên
không xem xét công sức đóng góp của bà Chung trong việc trông nom, bảo quản nhà
đất là không đảm bảo quyền lợi của bà Chung. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định công
sức đóng góp của bà Chung có thể được giải quyết bằng một vụ án khác trong phạm
vi giá trị tài sản mà ông Chảng được sở hữu và được chia thừa kế là không giải quyết
triệt để vụ án.

Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý

1. Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng điều
kiện).

Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

- Được thành lập hợp pháp:

“Theo điều 82 BLDS 2015:


7
1. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký
khác theo quy định của pháp luật.
3. Việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai.”

- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ:

“Theo điều 83 BLDS 2015:

1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của
cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân
hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy
định của pháp luật.”

- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó:

“Theo khoản 2 và 3 điều 87 BLDS 2015:

1. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách
nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp
nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy
định khác.
2. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối
với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy
định khác.”

- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập:

“Theo điều 86 BLDS 2015:

1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn
chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải
đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời
điểm ghi vào sổ đăng ký.
3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt
pháp nhân.”

8
2. Trong Bản án số 117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào của Bản án có câu trả
lời.

- Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân. Căn cứ vào đoạn “xét theo quy định
1364/QĐ-BTMNT ngày 8/7/2008 của Bộ Trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường quyết
định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện là
tổ chức của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường giúp Bộ trưởng theo dõi, … “Cơ quan đại diện
có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng” nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải
có hoạch toán báo sổ nên cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân
không đầy đủ”.

3. Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và
môi trường không có tư cách pháp nhân?

- Vì theo như quy định tại Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005:

“…2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện
theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và được thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các lợi ích
đó…

4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là tư cách pháp nhân. Người đứng đầu
Văn phòng đai diện, chi nhánh thực hiện nhiêm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong
phạn vi và thời hạn được ủy quyền

5. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do Văn phòng
đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.”

Tòa án đã tuyên bố cơ quan đại diện Bộ là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân là Bộ Tài
Nguyên và Môi Trường nhưng ông Hùng là nguyên đơn và Hội đồng xét xử sơ thẩm xác
định bị đơn trong vụ án là cơ quan đại diện Bộ Tài Nguyên và Môi Trường thành phố Hồ
Chí Minh là xác định không đúng qu định của luật về pháp nhân của bị đơn.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Tôi đồng tình với hướng giải quyết của Tòa án vì:

- Tòa án nhân dân quận 1 và nguyên đơn – ông Nguyễn Ngọc Hùng đều xác định bị đơn
trong vụ tranh chấp này là Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố
Hồ Chí Minh. Việc xác định như vậy là chưa phù hợp với quy định của điều 92 Bộ
luật dân sự năm 2005, đưa cơ quan đại diện của Bộ tham gia tố tụng là không đúng mà

9
phải đưa Bộ Tài nguyên và Môi trường vào tham gia với tư cách bị đơn mới đúng. Vì
cơ quan đại diện không có tư cách pháp nhân, chỉ được nhân danh pháp nhân xác lập,
thực hiện các giao dịch trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền. Các giao dịch do cơ
quan đại diện xác lập thực hiện nhân danh pháp nhân, trong phạm vi và thời hạn ủy
quyền của pháp nhân thì làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với pháp nhân.
- Và về án phí lao động phúc thẩm: án phí này sẽ được hoàn trả cho cơ quan đại diện Bộ
Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là hợp lý theo khoản 2 điều
12 nghị định số 70/CP ngày 12/06/1997: “Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí
phúc thẩm nếu tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm, hủy một phần
hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm” vì Tòa án đã chấp nhận hủy bản án Lao
động sơ thẩm số 07/2012/LĐ-ST ngày 25/5/2012.

5. Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015)

BLDS 2005

Điều 14. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự.

2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.

3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người
đó chết.

Điều 15. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

Cá nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự sau đây:

1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản;

2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản;

3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó

BLDS 2015

Điều 16. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự.

10
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.

3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người
đó chết.

Điều 17. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.

2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.

3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.

BLDS 2005

Điều 86. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền,
nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình.

2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành
lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.

3. Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân
danh pháp nhân trong quan hệ dân sự.

BLDS 2015

Điều 86. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền,
nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường
hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động
thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.

3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.

Như vậy theo BLDS 2005 năng lực dân sự của cá nhân và pháp nhân khác nhau ở chỗ:

̶ Tuy đều được định nghĩa là khả năng có các quyền và nghĩa vụ nhưng pháp nhân
còn phải phù hợp vào mục đích hoạt động còn cá nhân thì không.

11
̶ Năng lực dân sự của cá nhân được phát sinh từ khi được sinh ra và mất khi chết
đi còn pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt
khi chấm dứt pháp nhân.

Còn theo BLDS 2015 năng lực dân sự của cá nhân và pháp nhân khác nhau ở chỗ:

̶ Tuy đều được định nghĩa là khả năng có các quyền và nghĩa vụ nhưng năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.
̶ Năng lực dân sự của cá nhân được phát sinh từ khi được sinh ra và mất khi chết
đi còn pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập hoặc cho
phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật
dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký và chấm dứt kể
từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.

6. Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có ràng
buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời

- Giao dịch dân sự do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có
ràng buộc pháp nhân.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 điều 7 BLDS 2015 “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân
danh pháp nhân.

Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng
lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.”

7. Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc Công ty
Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời

- Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc Công ty Bắc
Sơn vì bên kí kết hợp đồng mua bán với Công ty Nam Hà là chi nhánh của Công ty
Bắc Sơn. Theo Khoản 3, 4, 5 Điều 92 bộ luật Dân sự năm 2005:

“...3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ
hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền.

4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn
phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong
phạm vi và thời hạn được ủy quyền.

12
5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn
phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.”

Vì vậy chi nhánh của Công ty Bắc Sơn không có tư cách pháp nhân nên Công ty Bắc
Sơn phải có trách nhiệm khi có xảy ra tranh chấp giữa 2 bên.

Trách nhiệm dân sự của pháp nhân

1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm

của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.

- “Điều 87 Bộ luật dân sự 2015

1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của
sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm
thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác
lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với
nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định
khác.”

2.Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty Xuyên Á
không? Vì sao?

Trong Bản án được bình luận, bà Hiền là thành viên của công ty TNHH Xuất nhập khẩu
Thương mại Xuyên Á bởi vì Bà Hiền chỉ có góp (sở hữu) 26,05% vốn điều lệ của công ty
Xuyên Á.
3.Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á hay của bà
Hiền? Vì sao?

- Nghĩa vụ đối với công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của công ty Xuyên Á, không phải của
Hiền. Vì:

1. Ông Trần Ngọc Phong là Giám Đốc của công ty Xuyên Á, là người đại diện theo
pháp luật của công ty Xuyên Á. Còn bà Hiền chỉ là cổ đông, là thành viên của pháp
nhân.

13
2. Hợp đồng mua bán hàng hoá (cụ thể là mua bán gạch men) giữa công ty Xuyên Á và
công ty Ngọc Bích được xác lập với tư cách là 2 pháp nhân, do đại diện theo pháp
luật của 2 công ty ký kết. Như vậy pháp nhân mới là đối tượng phải chịu trách nhiệm
dân sự, không phải bà Hiền theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 điều 87 BLDS
2015. Cụ thể:
-Theo Khoản 1 Điều 87: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ quân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự do sang lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên
xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc luật có quy định khác.”
- Khoản 3 điều 87: “Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không
chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ do người của pháp
nhân xác lập, thực hiện không thông qua pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy
định khác.”

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và Tòa cấp phúc
thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.

1. Về hướng giải quyết của Toà sơ thẩm.


Toà sơ thẩm đã không tuân thủ đúng quy định của BLDS về việc quy kết trách nhiệm
dân sự của pháp nhân tại điều 87 BLDS 2015 (hay điều 87 BLDS 2005 – bộ luật đang
có hiệu lực tại thời điểm xét xử là ngày 17/3/2016). Buộc bà Võ Thị Thanh Hiền phải
cùng với ông Trần Ngọc Phong thanh toán nợ cho công ty Ngọc Bích là không hợp lý.
2. Về hướng giải quyết của Toà phúc thẩm.
Đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của bản án sơ thẩm. Như:
Thu thập chứng xác nhận công ty Xuyên Á đã thật sự giải thể vào ngày 17/3/2014 theo
thông báo về việc doanh nghiệp giải thể của Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh An Giang
(BL78). Và xác định việc đưa bà Hiền ra tham gia tố tụng tại Toà là chưa đúng. Đồng
thời việc Toà phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Toà án huyện Tri Tôn giải
quyết lại vụ án là một quyết định đúng dựa trên những sai sót, hạn chế trên.

14
5. Biện pháp bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên Á đã bị giải
thể:

Công ty Ngọc Bích phải xác định xem công ty Xuyên á có thật sự đã giải thể hay
chưa.Nếu công ty Xuyên Á đã thật sự giải thể trong khi chưa thanh toán hết nợ thì bên
công tyXuyên Á đang có hành vi cố tình không kê khai các khoản nợ chưa thanh toán khi
làm hồ sơ giải thể nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, hồ sơ giải thể không đảm bảo
tính trung thực và tính chính xác. Có thể thấy công ty Xuyên Á đã vi phạm khoản 2 điều
93 của Bộ luật dân sự: “Trước khi giải thể, pháp nhân phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
về tài sản”.

- Sau đó khởi kiện ra Toà công ty Xuyên Á và những người có liên đới theo điều 204
Luật Doanh Nghiệp 2014 và khoản 1 điều 94 BLDS 2015. Cụ thể, điều 204 Luật Doanh
Nghiệp 2014 quy định:

“2. Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặcTổng
giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp.

3. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, những người quy định tại khoản 2
Điều này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh toán, số thuếchưa nộp
và quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước
pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể
doanh nghiệp đến Cơ quan đăng ký kinh doanh.”

Khoản 1 điều 94 BLDS 2015:

“1. Tài sản của pháp nhân bị giải thể được thanh toán theo thứ tự sau đây:

a) Chi phí giải thể pháp nhân;

b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với

người lao động theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao

động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;

c) Nợ thuế và các nợ khác.”

15
16

You might also like