You are on page 1of 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
---------------

BÀI THẢO LUẬN THỨ NHẤT VÀ THỨ HAI


MÔN: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: LÊ THỊ MẬN
LỚP: 118-HC45B1
THÀNH VIÊN NHÓM:
STT Họ và tên MSSV
1 Tạ Hoàng Ý Nhi 2053801014288
2 Trần Thị Nhung 2053801014203
3 Lê Thị Như Quỳnh 2053801014228
4 Nguyễn Thị Thanh Thảo 2053801014245
5 Võ Nguyễn Hà Duyên 1751101030020

TPHCM, ngày…tháng…năm…
MỤC LỤC

I. Lý thuyết: Trả lời/ phân tích/ làm sáng tỏ các nội dung sau:....................................1
Câu 1. Tóm lược các điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành và nêu một số
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng........................................................................1
Câu 2. Xác định người đang có vợ, có chồng. Cho ví dụ về các trường hợp
người chưa đăng ký kết hôn cũng được xác định “đang có vợ, có chồng” theo quy
định của pháp luật..................................................................................................2
Câu 3. Xác định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn..................................3
Câu 4. Đường lối giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật? Phân tích các
trường hợp ngoại lệ thừa nhận kết hôn trái pháp luật trên cơ sở pháp lý................4
Câu 5. Quy định của pháp luật về các trường hợp nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn và hậu quả pháp lý của hành vi chung
sống như vợ chồng? Phân tích các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như
vợ chồng đồng thời vi phạm điều kiện kết hôn và trách nhiệm dân sự, hình sự và
hành chính có thể được xác định............................................................................5
II. Tình huống..................................................................................................................10
III. Đọc bản án và trình bày quan điểm..........................................................................19
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN: KẾT HÔN, HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT –
GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VIỆC CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG

I. Lý thuyết: Trả lời/ phân tích/ làm sáng tỏ các nội dung sau:
Câu 1. Tóm lược các điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành và nêu một số
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
*Các điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành bao gồm: điều kiện cho phép kết
hôn và trường hợp cấm.
a) Điều kiện cho phép (3 điều kiện):
- Về độ tuổi: nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, nam từ đủ 20 tuổi trở lên (điểm a khoản
1 điều 8 Luật Hôn nhân Gia đình 2014).
- Tự nguyện kết hôn (điểm b khoản 1 điều 8 Luật Hôn nhân Gia đình 2014). Tự
quyết định việc kết hôn và không bị tác động bởi bất kì ai. Nam, nữ cùng trực
tiếp kí giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng kí kết hôn.
- Không mất năng lực hành vi dân sự khi kết hôn (điểm c khoản 1 điều 8 Luật
Hôn nhân Gia đình 2014 và điều 22 Bộ luật Dân sự 2015).
b) Trường hợp cấm kết hôn:
- Kết hôn giả tạo (Cấm kết hôn)
- Tảo hôn, cưỡng ép, lừa dối, cản trở (Cấm kết hôn)
- Đang có vợ chồng (Cấm kết hôn và chung sống như vợ chồng)
- Quan hệ trực hệ, họ ba đời (Cấm kết hôn và chung sống như vợ chồng)
- Cha mẹ nuôi – con nuôi (Cấm kết hôn và chung sống như vợ chồng)
- Cha mẹ con do hôn nhân (Cấm kết hôn và chung sống như vợ chồng)
*Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng:
- Về tuổi kết hôn:
Việc Luật Hôn nhân và gia đình quy định tuổi kết hôn của nữ là đủ 18 tuổi,
tuổi kết hôn của nam là đủ 20 tuổi về cơ bản là sự kế thừa của pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam, góp phần làm cho việc kết hôn và quan hệ hôn nhân được
lành mạnh, góp phần thực hiện tốt chức năng xã hội của hôn nhân.
Tuy nhiên, việc quy định tuổi kết hôn chênh lệch của nam và nữ cũng đặt ra
vấn đề về bảo đảm bình đẳng giới, về sự đồng bộ với năng lực hành vi dân sự của
người thành niên trong Bộ luật Dân sự. Thực tiễn áp dụng quy định về tuổi kết
hôn cho thấy tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra phổ biến ở khu vực miền núi, dân tộc
thiểu số. Bà con vùng đồng bào dân tộc hiểu quy định của pháp luật về tuổi kết
hôn nhưng do phong tục, tập quán đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu
đời, các gia đình thường dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm, nên mặc dù việc
kết hôn không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên
gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán, họ hàng hai bên, cộng
đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên công nhận đó là một cặp vợ chồng.
- Về năng lực hành vi dân sự trong kết hôn:
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì người bị mất năng lực hành
vi dân sự không được kết hôn và theo Điều 22 Bộ luật Dân sự thì một người chỉ
bị mất năng lực hành vi dân sự khi tòa án tuyên bố. Do đó, trong thực tiễn áp
dụng vẫn còn có ý kiến cho rằng, người chưa bị tòa án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự mặc dù mắc bệnh tâm thần hay bệnh khác không làm chủ được
hành vi thì vẫn được kết hôn, nhưng khi giải quyết quan hệ nhân thân có liên
quan, một số tòa án lại tuyên bố là việc kết hôn trái pháp luật.
Câu 2. Xác định người đang có vợ, có chồng. Cho ví dụ về các trường hợp
người chưa đăng ký kết hôn cũng được xác định “đang có vợ, có
chồng” theo quy định của pháp luật.
Người đang có vợ, có chồng được quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 5 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014: “c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng
mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;”.
Xác định về người đang có vợ, có chồng được quy định tại Khoản 4 Điều 2
Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP như
sau:
“4. Người đang có vợ hoặc chồng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật
hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ
chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà
chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ
chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn
nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly
hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không
bị tuyên bố là đã chết.

2
Ví dụ về các trường hợp người chưa đăng ký kết hôn cũng được xác định
“đang có vợ, có chồng” theo quy định của pháp luật.
- Anh A và chị B làm đám cưới trở thành vợ chồng vào năm 1970. 08 tháng sau,
anh A đi công tác và sống chung như vợ chồng với chị C ở quê của chị. Trong
trường hợp này, anh A đang có vợ là chị B (sống chung như vợ chồng trước ngày
03/07/1987), anh A và chị B chưa ly hôn và chưa được Tòa án tuyên bố ly hôn,
chị B cũng chưa chết và bị Tòa án tuyên bố chết nên anh A đã vi phạm điều cấm
tại điểm c, khoản 2, Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3/1/1987: Căn cứ Nghị
quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì trường hợp nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng trước ngày 3/1/1987 vẫn được Pháp luật công nhận vợ chồng
hợp pháp kể từ ngày hai bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng
mặc dù không đăng ký kết hôn.
- Anh A đã đăng ký kết hôn với chị B và việc kết hôn này là hợp pháp. 02 năm
sau, anh A sống chung với chị C như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn.
Vậy, anh A đã vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cụ thể
tại điểm c, khoản 2, Điều 5. Nếu trong thời gian 02 năm, anh A và chị B chưa ly
hôn và chưa được Tòa án tuyên bố ly hôn; chị B cũng chưa chết và bị Tòa án
tuyên bố chết
Câu 3. Xác định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn.
Về thẩm quyền đăng ký kết hôn: Theo quy định tại Điều 17 Nghị định
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch và Điều 12
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi
cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân
Việt Nam với nhau tại Việt Nam. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự
Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với
nhau ở nước ngoài. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương thực hiện việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Thông qua các quy
định trên cho thấy, tùy từng trường hợp mà cơ quan đăng ký kết hôn có thể là ủy
ban nhân dân cấp cơ sở, ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan ngoại giao, cơ
quan lãnh sự. Nhưng dù việc đăng ký kết hôn thuộc cơ quan nào thì cũng phải
tiên hành đầy đủ các thủ tục và nghi thức mà pháp luật đã quy định

3
Câu 4. Đường lối giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật? Phân tích các
trường hợp ngoại lệ thừa nhận kết hôn trái pháp luật trên cơ sở pháp
lý.
 Trả lời: Khoản 6 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ
2014) qui định: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện
kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”.
 Các điều kiện kết hôn được quy định tại điều Khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014
gồm:
 Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
 Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
 Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
 Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
như: Kết hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết
hôn…
 Như vậy, nếu có sự vi phạm một trong những điều kiện kết hôn trên, thì bị coi là
hôn nhân trái pháp luật. Do đó, cần có biện pháp xử lý đối với những trường hợp
này góp phần đảm bảo các điều kiện kết hôn được tuân thủ chặt chẽ
 Đường lối giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật đó là: Khi xử lý yêu cầu
hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình có hiệu lực tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác
định việc kết hôn có trái pháp luật hay không. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu
xử lý việc kết hôn trái pháp luật được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình và pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực tại thời điểm giải quyết.
(CSPL: Khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch số 52/2014/QH13 của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình)
Phân tích các trường hợp ngoại lệ thừa nhận kết hôn trái pháp luật
 Các trường hợp ngoại lệ thừa nhận kết hôn trái pháp luật:
+ Trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc từ 20/7/1954 đến
25/3/1977, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc.
+ Hiện tượng đa thê, đa phu trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc và trước 25/3/1977
ở miền Nam vẫn được công nhận quan hệ hôn nhân.
 Cở sở pháp lý: Thông tư số 60/TATC ngày 22-02-1978 của Tòa án nhân dân tối
cao “Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra
Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác”.

4
 Phân tích:
+ TH1: Sở dĩ cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc từ 20/7/1954 đến
25/3/1977, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc
được thừa nhận bởi vì:
Đây là loại việc mang tính chất đặc biệt. Nhân dân ta vừa trải qua một cuộc chiến
tranh ác liệt, kéo dài. Đất nước bị chia cắt hơn hai chục năm ròng. Nhiều gia đình
vợ chồng sống xa nhau quá lâu, không biết tin tức của nhau, hoặc tin tức không
xác thực, từ đó sinh ra nhiều cảnh éo le trong quan hệ gia đình. Xét thấy đây là
hậu quả của chiến tranh, một vấn đề xã hội phức tạp, vấn đề tình cảm, hạnh phúc
gia đình nhất là của các người vợ và con cái. Xem xét từ hiện thực khách quan
của đất nước lúc bấy giờ nên pháp luật đã thừa nhận những cuộc hôn nhân này
sao cho thấu tình đạt lý nhất.
+ TH2: Hiện tượng đa thê trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc và trước 25/3/1977 ở
miền Nam vẫn được công nhận quan hệ hôn nhân. Bởi lẽ: Luật HN-GĐ năm
1959 ra đời trong bối cảnh đất nước bị chia cắt 2 miền, miền Bắc đi lên chủ nghĩa
xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc chiến tranh dân tộc. Vì thế, Luật HN-GĐ năm
1959 chính thức có hiệu lực vào ngày 13/1/1960 ở miền Bắc và từ ngày
25/3/1977 đối với miền Nam (do đến năm 1975 nước ta mới hoàn toàn độc lập và
thống nhất). Từ đây mới chính thức đặt ra nguyên tắc hôn nhân 1 vợ 1 chồng
trong hôn nhân. Chính vì vậy, hiện tượng đa thê xảy ra trước khi luật HN-GĐ
năm 1959 có hiệu lực vẫn được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Câu 5. Quy định của pháp luật về các trường hợp nam nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn và hậu quả pháp lý của
hành vi chung sống như vợ chồng? Phân tích các trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng đồng thời vi phạm điều kiện kết
hôn và trách nhiệm dân sự, hình sự và hành chính có thể được xác
định.
 Quy định của pháp luật về các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn và hậu quả pháp lý của hành vi chung sống như
vợ chồng:
Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (sau đây gọi là: “Luật
HNGĐ”) quy định: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc
sống chung và coi nhau là vợ chồng”.
Tại khoản 5 Điều 3 Luật HNGĐ quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập
quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn”. Như vậy, chỉ khi thực hiện xong thủ tục và có Giấy chứng

5
nhận đăng ký kết hôn thì mối quan hệ chung sống như vợ chồng mới được pháp
luật thừa nhận, bảo vệ.
Từ đó suy ra, trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận. Mối quan hệ này
cũng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau. Hậu quả
pháp lý của hành vi này được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật HNGĐ:
“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp
đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của
Luật này”.
 Phân tích các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng đồng thời
vi phạm điều kiện kết hôn và trách nhiệm dân sự, hình sự và hành chính có thể
được xác định:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ về điều kiện kết hôn:
“a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.”
Qua phân tích và thảo luận, nhóm đã tìm ra các trường hợp nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng đồng thời vi phạm điều kiện kết hôn như sau:
* Trường hợp thứ nhất: Chung sống như vợ chồng khi một bên hoặc cả hai bên
dưới tuổi luật định (tảo hôn)
Ví dụ: Anh A (20 tuổi) và chị B (16 tuổi) lấy nhau theo sự mai mối, sắp xếp
của hai gia đình. Cán bộ hộ tịch xã không đồng ý làm thủ tục đăng ký kết hôn vì
chị B chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định. Tuy nhiên, hai anh chị vẫn được gia
đình tổ chức đám cưới và về sống chung.
Khoản 8 Điều 3 Luật HNGĐ quy định: “Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi
một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 8 của Luật này”.
Điểm b khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ quy định về các hành vi bị cấm, bao gồm:
“Tảo hôn…”
6
Như vậy, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi chưa đủ tuổi kết
hôn thuộc trường hợp bị cấm, đồng thời vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định
điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật HNGĐ.
- Các trách nhiệm pháp lý khác:
 Trách nhiệm hành chính: theo Điều 58 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định:
“1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy
vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi duy trì quan
hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án”.

 Nếu sau khi xử phạt vi phạm hành chính mà hành vi tảo hôn vẫn tiếp tục diễn ra,
người tổ chức hành vi này sẽ bị xử lý hình sự, cụ thể theo Điều 183 Bộ luật hình
sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 (sau đây gọi là “BLHS”) quy định:
“Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết
hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị
phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến 02 năm.”
* Trường hợp thứ hai: Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng do bị gia
đình ép buộc; một trong hai người bị mất năng lực hành vi dân sự
Ví dụ: Tòa án đã ra quyết định tuyên bố anh C là người mất năng lực hành vi
dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Gia đình anh C thương con
nên quyết định bỏ ra một số tiền để lấy chị D về làm vợ anh. Chị D không đồng
ý, tuy nhiên gia đình ép buộc nên chị phải tổ chức đám cưới và về chung sống
với anh C.
Khoản 8 Điều 3 Luật HNGĐ quy định: “Cưỡng ép kết hôn, ly hôn là việc đe
dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác
để buộc người khác phải kết hôn hoặc ly hôn trái với ý muốn của họ”.
Điểm b khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ quy định về các hành vi bị cấm, bao gồm:
“… cưỡng ép kết hôn…”
Như vậy, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không phải do nam
nữ tự nguyện quyết định mà do bị cưỡng ép là hành vi bị cấm, đồng thời, việc kết
hôn với người mất năng lực hành vi dân sự vi phạm điều kiện kết hôn theo quy
định điểm b và điểm c khoản 1 Điều 8 của Luật HNGĐ.

7
- Các trách nhiệm pháp lý khác
 Trách nhiệm hành chính: khoản 2 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định:
“1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau:

c) Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly
hôn;”

 Nếu sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính, hành vi này vẫn tiếp tục, người thực
hiện hành vi sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 181 BLHS:
“Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở
người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng
ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh
thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.”
* Trường hợp thứ ba: Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ mà một bên
hoặc cả hai bên đang có vợ, chồng
Ví dụ: anh D kết hôn với chị E được 2 năm. Sau đó, anh D gặp chị F (độc
thân), chị F biết rõ anh D đã có vợ nhưng vẫn nảy sinh tình cảm và đồng ý chung
sống với anh D.
Theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ quy định về các hành vi bị cấm, bao
gồm: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;”
Như vậy, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi một trong hai
bên đã có vợ hoặc có chồng thuộc trường hợp bị cấm, đồng thời vi phạm điều
kiện kết hôn theo quy định điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật HNGĐ.
- Các trách nhiệm pháp lý khác
 Trách nhiệm hành chính: theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 59 Nghị
định 82/2020/NĐ-CP:
“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau:

8
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc
chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc
đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người
khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà
mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;”
- Nếu sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính, hành vi này vẫn tiếp tục, hoặc việc
chung sống như vợ chồng dẫn đến các hậu quả khác, người thực hiện hành vi sẽ
bị xử lý hình sự vì vi phạm chế độ một vợ một chồng theo quy định tại Điều 182
BLHS:
“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ
đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc
chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan
hệ đó.”
* Trường hợp thứ tư: Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi
với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng;
Đây là hành vi bị cấm theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ và
việc chung sống như vợ chồng này còn vi phạm quy định về điều kiện kết hôn
theo quy định điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật HNGĐ.
- Các trách nhiệm pháp lý khác

9
 Trách nhiệm hành chính:
 Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP:
“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau:

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi
với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng
của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;”

 Theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP:
“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau:
a) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
b) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;

II. Tình huống


Câu 1. Anh Điệp là chủ tịch Ủy ban nhân dân xã K (huyện H tỉnh LĐ) cư trú
tại xã K. Chị Lan là phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B (huyện M tỉnh
LĐ) cư trú tại xã B. Năm 2020, anh Điệp và chị Lan dự định xác lập
quan hệ vợ chồng. Hãy xác định các cơ quan đăng ký hộ tịch mà các
bên có thể nộp hồ sơ đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về
hộ tịch? Cơ sở pháp lý?
- Các cơ quan đăng ký hộ tịch mà các bên có thể nộp hồ sơ đăng ký kết hôn theo
quy định của pháp luật về hộ tịch là: Ủy ban nhân dân xã K hoặc Ủy ban nhân
dân xã B
- Nên đến xã B dki vì bên Lan chỉ là phó chủ tịch nên chủ tịch xã B sẽ kí giấy
chứng nhận
- Cơ sở pháp lý: Điều 17 luật hộ tịch, điểm h Điều 12 luật hộ tịch

10
Câu 2. Năm 2017, anh Thuận (sinh năm 1978) kết hôn với chị Nga (sinh năm
2000). Sau hai năm xác lập quan hệ vợ chồng, sức khỏe anh Thuận suy
kiệt. Kết quả xét nghiệm từ cơ sở y tế cho thấy anh Thuận bị nhiễm
HIV mà nguồn bệnh anh bị lây nhiễm là từ vợ anh – chị Nga. Tháng
7/2020, anh Thuận chết. Tháng 12/2020, con đẻ anh Thuận với người
vợ trước của anh (đã ly hôn) là Hằng yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn
của anh Thuận và chị Nga với lý do việc kết hôn này trái pháp luật.
Theo các anh (chị) Tòa án giải quyết vụ việc trên như thế nào? Tại sao?
Ở tình huống trên, người có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp
luật của anh Thuận và chị Nga là người con (con của anh Thuận và người vợ
trước) theo quy định của pháp luật tại điểm a khoản 2 Điều 10 quy định người có
quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật: “a) Vợ, chồng của người đang có vợ,
có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người
đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;”. Do đó chị Hằng
không có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn của anh Thuận và chị Nga.
Tại thời điểm năm 2017, anh Thuận và chị Nga kết hôn trái pháp luật do chị
Nga chưa đủ 18 tuổi theo điểm c khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm
2014:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.”
Nên tại thời điểm năm 2017 anh Thuận và chị Nga kết hôn vi phạm điều cấm
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ;

11
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với
con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại,
mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô
tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc
lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục
lợi.”
Tảo hôn theo giải thích tại khoản 8 Điều 3 Luật hôn nhân gia đình năm 2014
là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo
quy định.
Bên cạnh đó hành vi tảo hôn và tổ chức tảo hôn có thể bị xử phạt hành chính
theo theo quy định tại Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020
của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tuy nhiên sau 2 năm tức là năm 2019 thì anh Thuận và chị Nga được xác lập
quan hệ vợ chồng, tại thời điểm này chị Nga đã đủ tuổi kết hôn và đăng ký kết
hôn tại cơ quan có thẩm quyền.
12/2020, con đẻ anh Thuận với người vợ trước của anh (đã ly hôn) là Hằng
yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn của anh Thuận và chị Nga, tuy nhiên vào thời
điểm này anh Thuận và chị Nga đã được xác lập quan hệ vợ chồng hợp pháp
không vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình
2014. 7/2020 anh Thuận chết do bệnh HIV mà nguồn bệnh từ chị Nga, tuy nhiên
tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính, do đó người bị nhiễm HIV/AIDS có quyền được kết
hôn như mọi người khác khi đủ các điều kiện tại Điều 8.
Vậy nên, vào thời điểm 12/2020 con trai yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn của
anh Thuận và chị Nga với lý do việc kết hôn này trái pháp luật theo tôi nghĩ Tòa
12
án hủy bỏ yêu cầu của con trai chị Hằng và công nhận anh Thuận và chị Nga là
vợ chồng hợp pháp.
Câu 3. Được gia đình hai họ đồng ý, năm 1998, ông Quang cưới bà Đại. Họ có
con chung là N sinh năm 2006. Năm 2003, với nguồn tiền được thừa kế
riêng, ông Quang mua một ngôi nhà trị giá một tỉ đồng và đứng tên chủ
sở hữu nhà. Ngày 02.02.2017, do cuộc sống chung giữa ông Quang và
bà Đại mâu thuẫn trầm trọng, ông Quang yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn và phân định tài sản. Hai bên cũng không thỏa thuận được việc
giải quyết quyền lợi con chung. Viện dẫn quy định của pháp luật để
giải quyết tranh chấp về nhân thân, tài sản và quyền lợi con chung theo
tình huống trên.
 Trả lời:
 Căn cứ khoản d Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 3 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn thi hành NGHỊ QUYẾT SỐ
35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội "về việc thi hành luật hôn
nhân và gia đình" thì năm 1998, ông Quang cưới bà Đại có sự đồng ý của hai bên
họ hàng nên quan hệ hôn nhân này được pháp luật thừa nhận.
 Năm 2003, với nguồn tiền được thừa kế riêng, ông Quang mua một ngôi nhà trị
giá một tỉ đồng và đứng tên chủ sở hữu nhà. Đây là thời điểm Luật HN-GĐ năm
2000 đang có hiệu lực nên căn cứ Điều 32 luật này về tài sản riêng của vợ, chồng
thì xác định căn nhà là tài sản riêng của ông Quang.
 Ngày 02.02.2017, ông Quang yêu cầu giải quyết ly hôn, phân định tài sản, giải
quyết quyền lợi con chung
+ Thứ nhất, quan hệ hôn nhân giữa ông Quang và bà Đại là hợp pháp nên sẽ giải
quyết ly hôn theo đúng quy định của pháp luật.
+ Thứ hai, như đã xác định ở trên thì căn nhà trị giá một tỉ đồng mà ông Quang
đang đứng tên chủ sở hữu nhà là tài sản riêng của ông Quang nên nó thuộc về
ông Quang.
+ Thứ ba, do cuộc sống chung giữa ông Quang và bà Đại mâu thuẫn trầm trọng
dẫn đến ly hôn nên việc chia tài sản chung của hai vợ chồng sẽ được chia đôi căn
cứ vào khoản 2 Điều 59 Luật HN-GĐ năm 2014.
+ Thứ tư, con chung là N sinh năm 2006, đến ngày 2/2/2017 đang là người chưa
thành niên. Do ông Quang và bà Đại không thỏa thuận được quyền lợi con chung
nên căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật HN-GĐ năm 2014 thì Tòa án quyết định giao
con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và do N

13
đã trên 7 tuổi nên phải xem xét nguyện vọng của N muốn sống cùng ai để đưa ra
quyết định sau cùng.
 Đồng thời khi Tòa tuyên bố cha hoặc mẹ là bên trực tiếp nuôi dưỡng N thì bên
còn lại được quyền và phải thực hiện nghĩa vụ của bên không trực tiếp nuôi con
theo Điều 82 Luật HN-GĐ năm 2014 như sau:
“1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được
sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây
ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con
của người đó.”
 Mặt khác, bên trực tiếp nuôi dưỡng con cũng có quyền và phải thực hiện nghĩa
vụ đối với bên không trực tiếp nuôi dưỡng con thoe quy định tại Điều 83 Luật
HN-GĐ năm 2014 như sau:
“1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con
thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người
không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi
con của mình.
2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con.”
 Như vậy, vụ tranh chấp ly hôn giữa ông Quang và bà Đại đã được giải quyết
xong

14
Câu 4. Anh Tâm định cư tại Cộng hoà liên bang Đức từ năm 2000. Năm 2013,
trong chuyến về thăm quê hương, anh Tâm cùng chị Trà (sinh ngày
12.09.1988) quyết định “kết nghĩa vuông tròn”. Ngày 07.08.2015, Ủy
ban nhân dân phường T, quận Y thành phố H nơi chị Trà cư trú đã
cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho anh Tâm và chị Trà. Tháng 11. 2016,
anh Tâm bàn với chị Trà mua nhà số 11/6 đường TH, phường T, quận
Y trị giá 2.7 tỷ đồng. Do hai bên chỉ có số tiền chung là 100 triệu đồng
nên anh Tâm nhờ thân nhân chuyển từ nước ngoài về số ngọai tệ của
anh - tương đương 2.6 tỷ đồng để mua nhà này (có chứng cứ xác định
việc chuyển tiền qua ngân hàng vào tài khoản ngoại tệ của anh Tâm
mở tại Việt Nam). Cho rằng hành vi kết hôn giữa anh Tâm và chị Trà
trái pháp luật, ngày 05.02.2019, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố H yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn này.
- Từ góc độ pháp lý, anh, chị hãy phân tích và lý giải đường hướng xử của
Tòa án có thẩm quyền trước yêu cầu của Hội Phụ nữ thành phố H biết rằng
trong quá trình tố tụng, chị Trà có nguyện vọng công nhận hôn nhân còn
anh Tâm đề nghị giải quyết cho ly hôn.
- Giả thiết anh Tâm và chị Trà tranh chấp nhà số 11/6 đường TH, phường
T, quận Y thì Tòa án phải phân định vấn đề này ra sao cho phù hợp, biết
rằng anh Tâm có đồng ý để chị Trà đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và thực tế, chị Trà đang đứng tên chủ sở hữu nhà tại thời điểm
tranh chấp phát sinh.

15
Từ góc độ pháp lý, anh, chị hãy phân tích và lý giải đường hướng xử của Tòa
án có thẩm quyền trước yêu cầu của Hội Phụ nữ thành phố H biết rằng trong
quá trình tố tụng, chị Trà có nguyện vọng công nhận hôn nhân còn anh Tâm
đề nghị giải quyết cho ly hôn.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008: “Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú,
sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Chiếu theo tình huống, anh Tâm định cư tại
Cộng hòa liên bang Đức từ năm 2000, do đó, anh Tâm là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài.
Theo quy định tại khoản 25 Điều 3 Luật HNGĐ:
“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia
đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân
Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật
nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoài.”
Như vậy, quan hệ hôn nhân và gia đình của anh Tâm và chị Trà là quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài vì anh Tâm là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 Luật hộ tịch 2014 quy định về thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc đăng ký hộ tịch. Theo đó, thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn đối với việc kết hôn có yêu tố nước ngoài
thuộc về Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện. Cụ thể, trong tình huống này, thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho anh Tâm và chị Trà là Ủy ban nhân dân
quận Y thành phố H chứ không phải là Ủy ban nhân dân phường T, quận Y thành
phố H. Do đó, việc đăng ký kết hôn của anh Tâm và chị Trà là không đúng thẩm
quyền.
Theo quan điểm của nhóm, Tòa án nên giải quyết việc này như sau:
1. Bác bỏ yêu cầu hủy việc kết hôn của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố H
Vì, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 10 Luật HNGĐ, Hội Liên hiệp Phụ
nữ chỉ có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết
hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật HNGĐ.

16
Theo phân tích ở trên, việc kết hôn của anh Tâm và chị Trà không vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ mà chỉ là hành vi kết hôn không đúng
thẩm quyền. Do đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố H không có thẩm quyền yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn này.
2. Chấp nhận đề nghị giải quyết ly hôn của anh Tâm
Theo khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP quy định:
“3. Trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc kết hôn đăng ký tại
không đúng cơ quan có thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết
hôn hay không) mà có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu
cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố
không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ đồng thời hủy Giấy chứng nhận kết
hôn và thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để xử lý theo quy định
tại Điều 13 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về
quyền, nghĩa vụ đối với con; tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải
quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình”.
Chiếu theo tình huống, anh Tâm và chị Trà đã đăng ký kết hôn không đúng cơ
quan có thẩm quyền và anh Tâm có đề nghị giải quyết ly hôn. Do đó, áp dụng
theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP, Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa
anh Tâm và chị Trà đồng thời hủy Giấy chứng nhận kết hôn.
Giả thiết anh Tâm và chị Trà tranh chấp nhà số 11/6 đường TH, phường T,
quận Y thì Tòa án phải phân định vấn đề này ra sao cho phù hợp, biết rằng
anh Tâm có đồng ý để chị Trà đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà và thực tế, chị Trà đang đứng tên chủ sở hữu nhà tại thời điểm tranh
chấp phát sinh.
Theo tình huống, trị giá căn nhà là 2,7 tỷ đồng:
+ Anh Tâm có chứng cứ xác định rằng mình được người thân chuyển 2,6 tỷ
đồng từ nước ngoài về Việt Nam để mua nhà
+ Anh Tâm và chị Trà có số tiền chung là 100 triệu đồng
Do đó, tài sản chung để phân chia trong trường hợp này là 100 triệu đồng, 2,6
tỷ đồng còn lại là tài sản riêng của anh Tâm.

17
Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật HNGĐ quy định việc giải quyết quan
hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn:
“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa
các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của
Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Chiếu theo tình huống, anh Tâm và chị Trà không thể thỏa thuận về việc chia
tài sản là ngôi nhà số 11/6 đường TH, phường T, quận Y, do đó, Tòa án sẽ áp
dụng quy định tại Bộ luật dân sự để phân chia tài sản này.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 quy định về chia tài
sản thuộc sở hữu chung:
“1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có
quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì
trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định
của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi
hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở
hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ
trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.”
Sở hữu chung của anh Tâm và chị Trà là 100 triệu đồng, như vậy, mỗi người
sở hữu 50 triệu đồng vì công sức đóng góp của hai người là ngang nhau. Trong
trường hợp này, sở hữu chung không thể chia được bằng hiện vật, do đó chị Trà
có quyền bán phần sở hữu của mình lại cho anh Tâm. Số tiền anh Tâm trả cho chị
Trà được tính theo tỉ giá nhà đất ở thời điểm mua nhà và thời điểm phân chia tài
sản.
3. Về nguyện vọng công nhận hôn nhân của chị Trà
Điều 13 Luật HNGĐ quy định về xử lý việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm
quyền:
“Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có yêu
cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn
theo quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng
ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ
hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước.”

18
Do đó, nếu chị Trà có nguyện vọng công nhận hôn nhân, sau khi Tòa án tuyên
bố hủy Giấy chứng nhận kết hôn, chị nên thương lượng giải quyết với anh Tâm.
Nếu hai người quyết định tiếp tục hôn nhân, anh chị nên thực hiện lại việc đăng
ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là Ủy ban nhân dân quận
Y thành phố H.

III. Đọc bản án và trình bày quan điểm


Tóm tắt Bản án số 04/2019/HNGĐ-ST về “Hủy kết hôn trái pháp luật, giải
quyết việc nuôi con chung” ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh C:
Trong bản án trên nguyên đơn là chị Trần Thị A, sinh năm 1992 và bị đơn là
anh Đoàn Văn B, sinh năm 1986.
Nội dung vụ án như sau:
Chị A và anh B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, trước kết hôn
thì hai người có thời gian tự tìm hiểu và yêu nhau nhau. Sau đó, hai bên kết hôn,
có tổ chức lễ cưới theo phong tục và đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường
T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C vào ngày 07 tháng 7 năm 2008, giấy
chứng nhận kết hôn chị sinh ngày 27/12/1992 và anh B sinh ngày 15/3/1986.
Chị và anh B chung sống với nhau được khoảng 6 năm, đến năm 2014 do mất
giấy đăng kí kết hôn năm 2008 nên chị và anh B tiếp tục đi đăng ký kết hôn lần
hai mà không khai tình trạng hôn nhân tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố
C, tỉnh C nên được cấp Giấy chứng nhận kết hôn, ở lần này Ủy ban nhân dân
phường T, thành phố C, tỉnh C ghi chị sinh ngày 27/12/1989, anh B sinh ngày
15/3/1985 là không đúng năm sinh của chị, của anh B.
Chị và anh B đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017, do mâu thuẫn và bất đồng,
cuộc sống không hạnh phúc. Tại thời điểm đăng ký kết hôn năm 2008 chị chưa từ
18 tuổi trở lên, do thiếu hiểu biết về pháp luật nên chị đã tự ý sửa năm sinh trên
bản sao giấy khai sinh của chị và không ai biết việc chị tự sửa năm sinh của chị.
Đến nay chị nhận thức được việc mình kết hôn khi chưa từ đủ 18 tuổi và lần đi
đăng kí kết hôn lại vào 2014 mà không khai rằng năm 2008 mình đã kết hôn. Tuy
nhiên, năm 2014 trong giấy kết hôn ghi sai ngày sinh của anh, chị. Đối chiếu các
giấy tờ hiện nay trong sổ hộ khẩu gia đình của chị, anh B, giấy khai sinh của chị
và giấy chứng minh nhân dân của chị, giấy chứng minh nhân dân của anh Đoàn
Văn B, xác định chị sinh ngày 27/12/1992 và anh B sinh ngày 15/3/1986 đều
19
không khớp với đăng ký kết hôn nhưng khớp với giấy khai sinh của con nên chị
tự xác định cả hai lần đăng ký kết hôn của chị và anh B đều trái quy định của
pháp luật và hiện tại vợ chồng không muốn chung sống với nhau nữa nhưng anh
B không nhất trí về việc hủy kết hôn trái pháp luật, do đó chị đã viết đơn khởi
kiện đề nghị Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị và anh Đoàn Văn B.
Về con chung thì chị A và anh B tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về tài sản chung và vay chung thì cũng không có yêu cầu nên Tòa án không cần
giải quyết.
Trình bày quan điểm và bình luận đường lối giải quyết vụ việc của Tòa án trên
cơ sở áp dụng pháp luật (có đối chiếu pháp luật hiện hành) về:
1. Căn cứ hủy hôn
 Trả lời: Về căn cứ hủy hôn, Tòa án tuyên xử hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị
Trần Thị A và anh Đoàn Văn B, chị Phương Anh và anh B phải chấm dứt quan
hệ vợ chồng là đúng pháp luật.
Theo quy định tại Điều 2 Thông tư 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP quy định về căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật như sau:
“Khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào
điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình để xem xét,
quyết định xử lý việc kết hôn trái pháp luật và lưu ý một số điểm như sau:
1. “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam đã đủ hai mươi
tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm
sinh.
Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:
a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng
sinh được xác định là tháng một của năm sinh;
b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày
sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.
Ví dụ: Chị B sinh ngày 10-01-1997, đến ngày 08-01-2015 chị B đăng ký kết hôn
với anh A tại Ủy ban nhân dân xã X. Tại thời điểm đăng ký kết hôn chị B chưa
đủ 18 tuổi (ngày chị B đủ 18 tuổi là ngày 10-01-2015), như vậy, theo quy định
tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì chị B đã đủ tuổi
kết hôn, tuy nhiên vì ngày chị B đăng ký kết hôn Luật hôn nhân và gia đình đã có

20
hiệu lực (ngày 01-01-2015) nên chị B đã vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.
2. “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định” quy định tại điểm b khoản
1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ
chồng với nhau hoàn toàn tự do theo ý chí của họ.
3. “Lừa dối kết hôn” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và
gia đình là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên
kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì
bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.
4. “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của
Luật hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ
chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà
chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ
chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của
Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân
bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc
không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên
bố là đã chết.
5. Việc xác định thời điểm “cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết
hôn” quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật. Tòa án yêu cầu đương sự xác định và cung cấp
các tài liệu, chứng cứ để xác định thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều
kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.”
Căn cứ pháp lý mà Tòa án đã sử dụng:
Chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật mà nam nữ đã kết hôn.
- Luật hôn nhân và gia đình quy định nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám
tuổi trở lên mới được kết hôn. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: Nam
bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám mà kết hôn thì coi như

21
không vi phạm điều kiện kết hôn. Như vậy, khi nam nữ chưa đến tuổi kết hôn tức
là nam chưa bước sang tuổi hai mươi, nữ chưa bước sang tuổi mười tàm mà kết
hôn; đối với trường hợp này, Tòa án có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Do
đó theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59 quyền số 01/2008 ngày 7/7/2008 của Ủy
ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C, xác định khi kết
hôn chị Trần Thị A chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn như vậy việc đăng ký kết hôn
tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C đã vi phạm khoản 1 Điều 9
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định về kiện kết hôn như sau: “Nam từ hai mươi tuổi trở lên,
nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Việc Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 là hoàn toàn hợp lý. Tại thời điểm đăng kí kết hôn xác định
chị A sinh ngày 27/12/1992 là chưa đủ tuổi kết hôn (15 tuổi 6 tháng 10 ngày).
Theo giấy chứng nhận kết hôn số 09 quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014 của Ủy
ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C xác định khi tiếp tục thực hiện đăng
ký kết hôn giữa chị và anh Đoàn Văn B, Ủy ban nhân dân phường T đã không
xác minh tình trạng hôn nhân dẫn đến thực hiện đăng ký kết hôn năm 2014 trong
khi vẫn còn tồn tại giấy đăng ký kết hôn số 59 ngày 07 tháng 7 năm 2008 mà
chưa được cơ quan có thẩm quyền xử lý việc kết hôn trái pháp luật đồng thời có
nhầm lẫn năm sinh nên có đủ căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Trần
Thị A và anh Đoàn Văn B là quan hệ không hợp pháp.
2. Chủ thể yêu cầu hủy hôn
 Trả lời: Chủ thể yêu cầu hủy hôn: nguyên đơn: Chị Trần Thị A
 Căn cứ lời khai của các đương sự, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp và do Tòa án thu thập có
đủ căn cứ xác định: Chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B kết hôn với nhau do tự
nguyện, không bị ép buộc và được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh
C cấp các giấy chứng nhận kết hôn: số 59 quyển số 01/2008 ngày 07/7/2008. Tòa
án có đủ căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn
Văn B là quan hệ không hợp pháp do vậy không được pháp luật thừa nhận và bảo
vệ.
 Việc Tòa án chấp nhận yêu cầu giải quyết vụ việc hủy kết hôn trái pháp luật của
chị A bởi lẽ chị A là một bên chủ thể thực tế của quan hệ hôn nhân đang tranh
chấp cần giải quyết, hay nói cách khác chị là nguyên đơn và chị có quyền yêu
cầu pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, căn cứ Khoản 1 Điều
10 Luật HNGĐ 2014: “1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị

22
cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn
trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của
Luật này.” Có thể thấy trong trường hợp này Chị A cố tình sửa năm sinh mà anh
B không hề hay biết việc này, có thể xem như anh B bị lừa dối kết hôn, thì theo
qui định của pháp luật về tố tụng dân sự thì anh B mới là chủ thể có quyền yêu
cầu hủy kết hôn trái pháp luật, còn chị A thì không.
Như vậy, mặc dù bên ngoài thấy rằng tòa án chấp nhận yêu cầu thụ lí giải quyết
của chị A sau đó giải quyết là hợp lí và thỏa mãn nguyện vọng của đôi bên nhưng
trong Luật HNGĐ 2014 lại có quy định có vẻ khép kín hơn. Theo tôi, hiện tại
mối quan hệ giữa Luật và thực tiễn xét xử vẫn còn nhiều điểm bất cập và chưa
tương thích.
3. Thẩm quyền giải quyết
Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình tranh chấp về việc: “Hủy kết hôn trái pháp
luật, giải quyết việc nuôi con chung” nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Cụ thể ở đây là Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh C.
Theo quan điểm của em thẩm quyền giải quyết này được Tòa án nhân dân thành
phố C, tỉnh C thụ lí là đúng. Vì theo nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các
điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình
năm là trái pháp luật, khi có yêu cầu, tòa án có quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật
đó.
Về thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy viê ̣c kết hôn trái pháp luâ ̣t đã được pháp
luâ ̣t Tố tụng dân sự quy định rất rõ ràng tại các Bô ̣ luâ ̣t Tố tụng dân sự. Cụ thể như:
- Yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuô ̣c thẩm quyền của Tòa án:
“Điều 11. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án
1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật
này và pháp luật về tố tụng dân sự.”
- Bô ̣ luâ ̣t Tố tụng dân sự năm 2015 thì quy định tại các Điều sau:
“Điều 29. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án
1. Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.”
“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
g. Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;”

23
“Điều 40. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu
cầu
b) Đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 29
của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi cư trú của một
trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết;”
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền hủy hôn nhân trái pháp luật là Tòa án nhân dân
cấp huyện, trường hợp hôn nhân có yếu tố nước ngoài thì Tòa án nhân dân cấp Tỉnh
có thẩm quyền (căn cứ Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
1. Hậu quả pháp lý việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Quyết định của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C về hậu quả pháp lí việc hủy
kết hôn trái pháp luật như sau:
1.1. Về quan hệ hôn nhân:
Hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B, chị Phương
Anh và anh B phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.
1.2. Việc nuôi con chung:
Áp dụng thêm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, ghi nhận sự thỏa thuận của chị
Trần Thị A và anh Đoàn Văn B tại phiên tòa.
Anh Đoàn Văn B và chị Trần Thị A có 02 con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày
13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015, anh B và chị Phương Anh thỏa
thuận cụ thể:
Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung
tên Đoàn Hà Linh, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Anh
Đoàn Văn B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên
Đoàn Quang Vinh, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung:
Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về quyết định của Tòa án theo em là thỏa đáng. Vì khi tòa án nhân dân hủy việc
kết hôn trái pháp luật của chị A và anh B đã giải quyết đủ các vấn đề sau:
1.4. Về quan hệ nhân thân:
Về nguyên tắc Nhà nước không thừa nhận hai người kết hôn trái pháp luật là vợ
chồng. Cụ thể ở đây là chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật mà nam
nữ đánh kết hôn (xác định khi kết hôn chị Trần Thị A, sinh ngày 27/12/1992 chưa
đủ tuổi đăng ký kết hôn (15 tuổi 06 tháng 10 ngày), như vậy việc đăng ký kết hôn

24
tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C đã vi phạm khoản 1 Điều 9
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định về kiện kết hôn như sau: “Nam từ hai mươi tuổi trở lên,
nữ từ mười tám tuổi trở lên”)
Do đó, giữa họ chưa từng phát sinh quan hệ vợ chồng. Việc họ chung sống như
vợ chồng là trái pháp luật. Vì vậy, “khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai
bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ, chồng” (Khoản 1, Điều 17). Kể từ
ngày quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật của Tòa án có hiệu lực pháp luật,
hai người phải chấm dứt cuộc sống trái pháp luật đó.
1.5. Về việc chia tài sản:
Theo Bản án “Tài sản chung, nợ chung, cho vay chung chị Trần Thị A, anh
Đoàn Văn B tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét
xử không xem xét.”
Tuy nhiên theo Khoản 3 Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền
sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu
không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng
góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.” Do hai
người kết hôn trái pháp luật nên giữa học không phát sinh quan hệ vợ chồng. Vì
vậy, tài sản mà họ tạo ra trong thời gian chung sống không phải là tài sản thuộc sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, tài
sản chung (nếu có) được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận
được thì toàn án quyết định chia trên cơ sở công sức đóng góp của mỗi bên trong
việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc sở
hữu của người đó. Tuy nhiên, người có tài sản riên phải có nghĩa vụ chứng minh
tài sản đó là tài sản riêng của mình. Nếu không chứng minh được thì tài sản đó
được coi là tài sản chung. Khi chia tài sản chung cần ưu tiên bảo vệ quyền lợi
chính đáng của phụ nữ và con.
1.6. Về quan hệ giữa cha mẹ và con:
Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được pháp luật quy định không phụ
thuộc vào hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không, còn tồn tại hay chấm dứt.
Vì vậy, hai người kết hôn trái pháp luật tuy không là vợ chồng nhưng vẫn là cha
mẹ của con chung. Khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì quyền lợi của con
được giải quyết như trường hợp của cha mẹ ly hôn” (khoản 2 Điều 17 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000).
Khi hủy việc kết hôn trái pháp luật, vấn đề con chung được giải quyết như khi
vợ chồng ly hôn là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Tòa án nhân
25
dân phải căn cứ vào điều kiện thực tế của các bên đương sự và căn cứ vào các quy
định pháp luật để giài quyết cho hợp tình, hợp lý (căn cứ vào các điều 92, 93, 94
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). So với Điều 93 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì Điều 84 của Bộ Luật HNGĐ 2014 đã có sự bổ sung và thay đổi như
sau:
 Nếu Điều 93 quy định “Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm
quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ
đủ chín tuổi trở lên.” Thì đến khoản 3 Điều 84 đã có sự thay đổi cụ thể “Việc
thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07
tuổi trở lên.”
 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự bổ sung khoản 5 Điều 84 của bộ
luật này cụ thể:
“Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên
cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi
người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”

Thảo Quỳnh Nhi Nhung Chị Duyên


Phần 1 Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5
Phần 2 Câu 1 Câu 2 câu 3 Câu 4
Phần 3 Tóm tắt Câu 1 Câu 3 câu Câu 2
bản án 4

26
27

You might also like