You are on page 1of 32

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT DÂN SỰ


THẢO LUẬN NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG


VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

GVHD: Lê Thanh Hà
Nhóm: 8 DS45.1

Danh sách thành viên:

STT Họ và tên MSSV

1 Đỗ Nguyễn Hoàng Anh 2053801012009

2 Hà Kiều Anh 2053801012012

3 Nguyễn Tưới Anh 2053801012022

4 Trần Tuyết Anh 2053801012026

5 Bùi Công Dân 2053801012044

6 Nguyễn Thành Đạt 2053801012049

7 Lê Quỳnh Bảo Nhi 1853801012147

Năm học 2020 - 2021


Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

I. TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ


& Tóm tắt quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT
- Nguyên đơn: công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel; do ông Lâm Văn
Hùng – Tổng Giám đốc làm đại diện
- Bị đơn: công ty cổ phần kim khí Hưng Yên; do Dương Văn Đích đại diện theo
giấy uỷ quyền
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Lê Thị Ngọc Lan, Lê Văn Dũng, Lê
Văn Mạnh
- Nội dung: Công ty kim khí Hưng Yên (bên A) ký hợp đồng mua bán phôi thép
với công ty Vinausteel (bên B). Theo như thoả thuận trong hợp đồng, bên B đã
thực hiện đúng với thoả thuận còn bên A vi phạm hợp đồng. Vì vậy, bên B yêu
cầu bên A bồi thường thiệt hại. Tại phiên toà sơ thẩm, bên B đề nghị toà án buộc
bên A bồi thuờng tiền gốc, tiền chênh lệch tiền phạt do vi phạm hợp đồng và
tiền lãi. Tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hoà giải, biên bản phiên toà; bên
A không đồng ý vì trách nhiệm trả nợ thuộc về ông Dũng, bà Lan (thời điểm bên
A và bên B ký hợp đồng là thời kỳ bà Lan đang làm tổng giám đốc còn ông
Dũng là chủ sở hữu toàn bộ tài sản và nghĩa vụ của công ty). Bên A có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do bản áo sơ thẩm có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng. Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm sô
102/2009/KDTM-PT, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã
quyết định huỷ bán án.

Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện

- Nhìn chung, BLDS 2015 kế thừa các quy định về đại diện trong BLDS 2005.
Tuy nhiên, so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã có một số sửa đổi, bổ sung về vấn
đề đại diện.
- Chủ thể của quan hệ đại diện
 Pháp nhân đại diện
Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 quy định: “Đại diện là việc một người (sau đây
gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là
người đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”
Quy định trên cùng với việc khoản 5 Điều 139 BLDS 2005 quy định “người đại
diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” (khái niệm chỉ áp dụng cho cá

1
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

nhân) nên dẫn tới là toà án không thừa nhận khả năng đại diện của pháp nhân
không có quy định cụ thể cho phép pháp nhân đại diện người khác.
Ngày nay, khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 quy định: “Đại diện là việc cá nhân,
pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của
cá nhân, pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người đại diện) xác lập và
thực hiện giao dịch dân sự”. Nội dung này cho thấy pháp nhân hoàn toàn có
thể đại diện cho cá nhân, pháp nhân khác….
 Số người đại diện
BLDS 2005 theo hướng đại diện là việc của “một” người. Với quy định này
BLDS không bao quát được trường hợp bên đại diện là nhiều người như cha,
mẹ đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên.
BLDS 2015 đã khắc phục điểm trên và thiết kế lại khái niệm về người đại diện
tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015. Theo đó, có thể là một người hay nhiều
người đại diện.
- Phân loại đại diện
 Đại diện theo pháp luật của cá nhân

Về các loại đại diện, nếu như BLDS 2005 phân loại dựa vào tiêu chí căn cứ xác lập
quyền (theo pháp luật hay theo ủy quyền) thì BLDS 2015 phân loại dựa vào cả căn
cứ xác lập quyền và chủ thể đại diện.

Điều 136 BLDS 2015 đã bổ sung trường hợp người giám hộ của người khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án
chỉ định " vì BLDS 2015 đã quy định mới về người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi nên đã ghi nhận thêm về trường hợp này

Đồng thời, BLDS 2015 đã bổ sung quy định: người do Tòa san chỉ định trong
trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này.

 Đại diện theo pháp luật của pháp nhân:


Điều 137 BLDS 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Ở đây,
BLDS 2015 đã bổ sung một trường hợp mới là “người do Tòa án chỉ định trong
quá trình tố tụng tại Tòa án”
Đồng thời, BLDS 2015 cũng chính thức khẳng định: Một pháp nhân có thể có
2
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

nhiều người đại diện theo pháp luật. Việc quy định mới này xuất phát từ thực
tiễn hoạt động của pháp nhân (chủ yếu là doanh nghiệp) và để đảm bảo tính
thống nhất với các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Doanh nghiệp
2014. "
Đại diện theo ủy quyền: Điều 138 BLDS 2015 quy định về đại diện theo ủy
quyền, điểm mới của Điều luật này chính là nội dung liên quan đến hộ gia đình
và tổ hợp tác. Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân thì thành viên của họ có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác
đại diện theo ủy quyền xác lập. thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
chung Ngoài ra , khoản 1 cũng có sự thay đổi . Trước đây, khoản 1 Điều 143
quy định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền người
khác xác lập , thực hiện giao dịch dân sự thì ngày nay đã được thay bằng pháp
nhân có thể ủy quyền cho cá nhân , pháp nhân khác xác lập , thực hiện giao dịch
dân sự , Quy định mới này là toàn diện , chính xác hơn : Chủ thể ủy quyền là
pháp nhân chứ không phải là người đại diện của pháp nhân ”
Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho
Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?

Trong Quyết định số 08, trong phần Xét thấy . Tòa án đã nhận định : “ Bởi lẽ , ngày
20/11/2006 , bà Lê Thị Ngọc Lan có Giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh - Phó
Tổng Giám đốc Công ty kim khí Hưng Yên được thay mặt Công ty thực hiện các
giao dịch kinh tế trong phạm vi ngành nghề kinh doanh ( trong thời gian này bà Lê
Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện theo pháp luật của Công ty kim khi Hưng Yên )
nên ngày 16/01/2007 , ông Mạnh đã đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên Kỷ
Hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐTP/2007/NA- HY với Công ty Vinausteel . 

Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán , ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không ?

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm phải đơn phương bồi
thường các khoản nợ đối với Vinausteel . Trong phần Xét thấy của Quyết định số
08, Hội đồng thẩm phán đã nhận định : “ ... việc ông Mạnh cam kết chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của Công ty liên danh sản xuất thép Vinausteel là việc nội
bộ của Công ty kim khí Hưng Yên . Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên phải có

3
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường cho Công ty Vinausteel chứ
không phải cá nhân ông Mạnh , ông Dũng ... " , 

Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh / chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này ? Có
thuyết phục không?)

Đầu tiên, cần xác định rõ là tuy không có quy định cụ thể trong BLDS nhưng Tòa
giám đốc thẩm đã theo hướng ông Mạnh, với tư cách là người đại diện , không phải
chịu trách nhiệm về giao dịch dân sự được lập một cách hợp lệ . Đây là hướng giải
quyết hợp lý vì: Thứ nhất, Tòa giám đốc thẩm xác định ông Mạnh không phải là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan . Điều này là thuyết phục vì mặc dù người đại
diện là người trực tiếp giao dịch với bên Vinausteel nhưng ông Mạnh tham gia dưới
danh nghĩa là bên được đại diện , công ty Hưng Yên chứ không phải cá nhân mình .
Nói cách khác, hợp đồng trong bản án là hợp đồng giữa 2 pháp nhân chứ không
phải hợp đồng giữa người đại diện và pháp nhân còn lại. Thứ hai, Bộ nguyên tắc
châu Âu cùng theo hướng này và đã quy định rõ hơn chúng ta tại Điều 3 : 302 , theo
đó " người đại diện không bị ràng buộc đối với người thứ ba " . ? Tuy không có quy
định nào tương tự trong BLDS 2015 nhưng có thể thấy hướng giải quyết này là có
cơ sở 

Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán , Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không ?

Theo Hội đồng thẩm phán , công ty Hưng Yên có trách nhiệm phải bồi thường các
khoản nợ đối với Vinausteel Trong phần Xét thấy của Quyết định số 08 , Hội đồng
thẩm phán đã nhận định : " ... việc ông Mạnh cam kết chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của Công ty liên danh sản xuất thép Vinausteel là việc nội bộ của Công ty
kim khí Hưng Yên . Do đó , Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh
toán các khoản nợ và bồi thường cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân
ông Mạnh , ông Dũng ... "

Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh / chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nếu trên.

4
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lí vì : Thứ nhất , hướng giải quyết
này là phù hợp về mặt pháp lý Cụ thể , khoản 1 Điều 141 BLDS 2015 quy định "
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập , thực hiện với người thứ ba làm phát
sinh quyền , nghĩa vụ đối với người được đại diện ” Bộ nguyên tắc châu Âu cũng
theo hướng này tại Điều 3 : 302 , theo đó " khi người đại diện hành động trong
phạm vi Điều 3 : 201 , các giao dịch của người đại diện ràng buộc trực tiếp người
được đại diện và người thứ ba ” . Thứ hai , căn cứ vào khoản 1 Điều 141 BLDS
2015 quá trình giao kết hợp đồng giữa ông Mạnh với Vinausteel hoàn toàn nằm
trong phạm vi đại diện , ông Mạnh không vượt quá phạm vi đại diện Cụ thể , nội
dung giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh là nhằm thực hiện các giao dịch dân sự ,
kinh tế và thương mại trong phạm VÌ ngành kinh doanh của Công ty . Theo đó , hợp
đồng mua bán phôi thép giữa Công ty Vinausteel và Công ty kim khí Hưng Yên do
ông Mạnh ký kết hoàn toàn thuộc phạm vi đại diện . Vì vậy , hợp đồng này làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ đối với Công ty kim khí Hưng Yên Thứ ba , việc Công ty
kim khí Hưng Yên và bà Lan từ chối nhận nghĩa vụ và trách nhiệm do không biết
hoặc không nắm là hoàn toàn không có căn cứ . Bởi lẽ , sau khi ký kết hợp đồng với
Công ty Vinausteeel , Công ty kim khí Hưng Yên tại Công văn đề nghị ngày
30/01/2007 về việc xin lùi thời gian giao hàng . Hơn nữa , Công ty kim khi Hưng
Yên thừa nhận nhận được số tiền do Công ty Vinausteel hực hiện nghĩa vụ chuyển
tiền mà có . Có thể thấy , Công ty kim khí Hưng Yên đã biết về nghĩa vụ chuyển
tiền từ Công ty Vinausteel nên không thể cho rằng Công ty này hay bà Lan hoàn
toàn không biết việc ông Mạnh ký kết hợp đồng trong phạm vi đại diện . Vậy , có
thể thấy việc từ chối thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được xác lập trên cơ
chê đại diện và cho rằng quan hệ đó là do người ký thực hiện dưới từ cách cá nhân
là không phù hợp với quy định của pháp luật . Trong trường hợp này , trạc nhiệm
thuộc về các bên trong hợp đồng được ký kết , hai pháp nhân với các quyền và
nghĩa vụ phát sinh.

Câu 7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp
đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng Yên không
Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng
Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập)
phải được giải quyết tại Tòa án.

5
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Trong trường hợp này, thỏa thuận trên vẫn ràng buộc Công ty Hưng Yên . Bởi lẽ :
Thứ nhất , cần xác định Điều lệ pháp nhân chỉ mang ý chỉ đơn phương của pháp
nhân đó trong khi hợp đồng có nguyên tắc cơ bản là dựa trên tính tự nguyện , bình
đẳng và ý chí song hoặc đa phương . Việc áp dụng Điều lệ của Công ty Hưng Yên
đối với cả những giao dịch dân sự, tranh chấp có liên quan đến pháp nhân khác là
không hợp lý Thứ hai, điểm 1 khoản 2 Điều 77 BLDS 2015 có quy định Điệu lệ
pháp nhân bao gồm nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ. Có thể thấy, tranh chấp
phát sinh giữa Công ty Hưng Yên và Công ty Vinausteel không còn nằm trong nội
bộ của Công ty Hưng Yên nữa mà còn có sự tham gia của một pháp nhân khác. Thứ
ba, có thể thấy, ngay cả trong trường hợp việc thỏa thuận tranh chấp được giải quyết
nhờ trọng tài bị vô hiệu cũng không làm ảnh hưởng đến phần còn lại của hợp đồng.
Do đó, theo Điều 130 BLDS 2015 thì giao dịch này chỉ có thể bị vô hiệu một phần
và vẫn sẽ phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với Công ty Hưng Yên.

II. TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ


& Tóm tắt quyết định số 10:
Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, bị đơn là công ty cổ
phần xây dựng 16-Vinaconex. Ngày 14/5/2001 Ngân hàng đã cho Xí nghiệp xây
dựng 4 Công ty xây dựng số II nay là Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex
vay 2 tỷ đồng. Nay xí nghiệp xây dựng 4 không có khả năng trả nợ nên Ngân
hàng đã xử lí phát mại một phần tài sản thế chấp. Do xí nghiệp xây dựng 4 thuộc
Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex nên ngân hàng yêu cầu công ty phải có
trách nhiệm thanh toán khoản nợ nêu trên và xử lí tài sản thế chấp, bảo lãnh để
thu hồi nợ.
Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với
Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để
xác lập)?

Trích từ phần Xét thấy của Quyết định:

“Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 064CV/XDII.TCKT gửi Chi


nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng
Công thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ
An vay vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của Công ty kể từ ngày 06/4/2001...” và
“Các văn bản của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ

6
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

An ban hành trước ngày 06/4/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân hàng
vẫn ký Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền”.

Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách
nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không?
Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với
Ngân hàng về hợp đồng trên.
Trích từ Quyết định: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty
cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex phải trả khoản tiền nợ gốc và lãi (1.382.040.000
đồng) cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là có căn cứ”.
Tòa giải thích như sau:
“Khi nhận được tiền, Xí nghiệp xây dựng 4 đã mua máy móc phục vụ công việc
được Công ty giaovà “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính một lần” nên Ban
giám đốc Công ty đều biết việc vay vốn Ngân hàng của Xí nghiệp xây dựng 4 và
không phản đối. Hơn nữa, ngày 28/10/2002, Công ty xây dựng số II Nghệ An có
Công văn số 44 QĐ/CTII điều chuyển một số máy móc, phương tiện vận tải của Xí
nghiệp xây dựng 4 (trong đó có một số thiết bị, máy móc hình thành từ vốn vay
Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng trên) về văn phòng cơ quan để phục vụ thi công
một số công trình do Công ty thực hiện.
Mặt khác, ngày 29/10/2004, Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex có văn bản
(thư xác nhận số dư) yêu cầu Ngân hàng Công thương Nghệ An xác nhận công nợ
của Xí nghiệp xây dựng 4 Công ty xây dựng số II Nghệ An tính đến ngày 30/6/2004;
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An đã xác nhận vào Thư xác nhận dư nợ:
Xí nghiệp xây dựng 4 còn nợ 1.731.000.000 đồng.
Như vậy, sau khi Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền Ngân hàng, Công ty xây dựng số II
Nghệ An biết và không phản đối nên Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công
ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex) phải chịu trách nhiệm trả khoản nợ này”1.
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm.

Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lí.

1
Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
7
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Bởi vì: Theo K1 Đ142 BLDS 2015 quy định về việc hậu quả của giao dịch dân sự
do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện:

1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường
hợp sau đây:

a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không
có quyền đại diện.

Đầu tiên, việc giám đốc thẩm Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là công ty cổ
phần xây dựng 16 Vinaconex) nói Công ty không chịu trách nhiệm vì ngân hàng
cho vay vốn say nguyên tắc thì phải tự chịu trách nhiệm là không có cơ sở.

Ngày 25/2/2021, tổng giám đốc công ty xây dựng số II có văn bản số 23CV/TCT
thông báo cho Chi nhánh Ngân hàng Công thường Nghệ An (nay là Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Nghệ An) biết việc Công ty đồng ý cho
Xí nghiệp xây dựng 4 trực tiếp vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương
Nghệ An. Việc Công ty xây dựng số An có Công văn số 06 CV/SDII.TCKT ngày
06/4/2011 đề nghị Ngân hàng không cho Xí nghiệp thuộc Công ty vay vốn khi chưa
có bảo lãnh sau đó thì vì Ngân hàng không nhận được, nên Ngân hàng không biết là
không được cho Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số 06 sẽ vay vốn. Ngoài ra, bên
Công ty cũng không có bằng chứng chứng minh ngân hàng đã nhận được Công văn
số 06 CV / SDII.TCKT ngày 06/4/2011 nên việc Ngân hàng vẫn tiếp tục ký kết với
Xí nghiệp xây dựng là việc có thể chấp nhận được, và Công văn số 06 CV /
SDII.TCKT coi như không có. Theo điểm a và điểm c khoản 1 Điều 1 trên, Công ty
xây dựng số II có quyền và nghĩa vụ đối với giao dịch với Ngân hàng công nhân
giao dịch.

Thứ hai, “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính 1 lần” nên sau Xí nghiệp nhận
được tiền, Ban giám đốc Công ty biết việc Xí nghiệp vay vốn và không hề phản đối.
Ngoài ra, Công ty xây dựng số II có văn bản yêu cầu Ngân hàng xác nhận công nợ

8
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

của Xí nghiệp xây dựng. Điều này cho thấy Ban giám đốc Công ty xây dựng số II
đều biết và không hề phản đối việc Xí nghiệp xây dựng vay vốn. Do đó, theo điểm
b K1 Đ142 BLDS 2015 Công ty xây dựng số II phải có trách nhiệm giao dịch giữa
Xí nghiệp xây dựng với Ngân hang.

Đồng quan điểm nêu trên, theo như Bộ nguyên tắc châu Âu hợp đồng, “giao dịch
xác lập, thực người bởi người không có quyền đại diện hay vượt quá phạm vi đại
diện có thể được người đại diện chấp nhận. Một khi được chấp nhận, giao dịch được
coi là đã được phép”. Với quy định này, “giao dịch của người đại diện được coi là
như đã ràng buộc người đại diện và người thứ ba ngay từ đầu”. Tương tự Bộ
nguyên tắc Unidroit (Điều 2.2.9).

Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng
phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex
không có quyền đại diện) thì phải xử lý xử lí như thế nào theo BLDS 2015? Vì
sao?

Trả lời: Nếu hoàn cảnh tương tự trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng
phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng làm người đại diện Vinaconex không
có quyền đại diện) thì sự phản đối này của Ngân hàng không chấp nhận.

Theo BLDS 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự làm người không có quyền đại
diện xác lập, thực hiện: “Người đã có giao dịch với người không có quyền đại diện,
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập
và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người biết hoặc phải biết về việc
không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a
khoản 1 Điều này”.

Trong trường hợp này, Công ty xây dựng số II không phản đối hợp đồng, nghĩa
công nhận giao dịch theo điểm a khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. Chính vì vậy, theo
điều luật đã nêu ở phía trên về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có
quyền đại diện xác lập, Ngân hàng Công thương Nghệ An (người giao dịch với
người không có quyền đại diện) không có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập.

III. HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN

9
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu
tài sản?
1. Hình thức sở hữu: Ở BLDS 2005, từ 6 hình thức sở hữu tài sản (sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị
xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội – nghề nghiệp). BLDS 2015 rút lại còn 3 hình thức sở hữu tài sản (sở hữu toàn
dân, sở hữu riêng, sở hữu chung).
2. Sở hữu toàn dân:
- Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu toàn dân là tên tiểu mục này.
Từ “sở hữu nhà nước” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu toàn dân” (BLDS 2015).
Điều này phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 là tôn trọng người dân của đất
nước (ví dụ: tất cả chữ “Nhân dân” đều được viết hoa chữ “N”).
- Sở hữu toàn dân: Điều 197 của BLDS 2015 thay đổi định nghĩa về tài sản
thuộc sở hữu toàn dân so với Điều 200 BLDS 2005 theo Hiến pháp 2013: “Đất đai,
tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
- Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh
nghiệp: Điều 200 BLDS 2015 bỏ đi giới hạn quyền sở hữu của Nhà nước là chỉ
trong “doanh nghiệp nhà nước” của Điều 203 BLDS 2015 thành “doanh nghiệp”:
“Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước
thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
- Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc
sở hữu toàn dân: Điều 203 BLDS 2015 bỏ đi điều kiện “trong trường hợp pháp luật
có quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” của Điều 206
BLDS 2005. Đồng thời, cũng không quy định thêm điều kiện nào trong việc sử
dụng, khai thác này: “Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi
thủy sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng
mục đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định
của pháp luật”.
3. Sở hữu riêng

10
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

- Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu riêng là tên tiểu mục này. Từ
“sở hữu tư nhân” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu riêng” (BLDS 2015).
- Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng: được gộp Điều 211 về sở hữu tư
nhân và Điều 212 về tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân của BLDS 2005 thành
Điều 205 của BLDS 2015.
4. Sở hữu chung
- Là sở hữu được gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu của
tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
- Sở hữu chung của cộng đồng: xác định rõ tài sản chung của cộng đồng là
tài sản chung hợp nhất không phân chia (Điều 211 BLDS 2015)
- Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình được BLDS 2015 thêm
như một điều luật mới (Điều 212 BLDS 2015) so với BLDS 2005
- Sở hữu chung của vợ chồng Tại Điều 213 BLDS 2015 được thêm một
khoản mới so với BLDS 2005 như sau: “Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài
sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản
chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
- Định đoạt tài sản chung: Điều 218 BLDS 2015 có một số thay đổi so với
Điều 223 BLDS 2005 như sau:
+ Bỏ “theo quy định của pháp luật” đối với quyền định đoạt của mỗi chủ
sở hữu: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu
của mình” (khoản 1 Điều 218 BLDS 2015).
+ Ở khoản 3 điều này, thêm ý: “Việc thông báo phải được thể hiện bằng
văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện
bán cho người không phải là chủ sở hữu chung”.
+ Thêm hai trường hợp từ bỏ quyền sở hữu thành hai khoản mới:
“5. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ
phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế
thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
6. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối
với tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại
Điều 228 của Bộ luật này”.
- Chia tài sản thuộc sở hữu chung: Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 thêm ý
“trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác” so với Điều 224 BLDS
11
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

2005: “Trường hợp sở hữu chung…bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác”.
 Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với các chủ thể.
Câu 2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời
kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây
viết gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời?
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân với bà Thẩm. Phần Xét thấy của Quyết định 377 nói rõ: “Như vậy, quan hệ
hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm là quan hệ hôn nhân hợp pháp và vẫn đang tồn
tại theo quy định của pháp luật, còn quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê là vi
phạm pháp luật. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho,
tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà
Thẩm”.
Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay
sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà, không phải sở
hữu riêng của ông Lưu. Trích từ phần Nhận thấy của bản án: “Còn bà Thẩm cho
rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m; đất là tài sản chung
vợ chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Tòa giải quyết
theo pháp luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương”.
Câu 4. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu
chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Theo Tòa dân sự TAND tối cao, căn nhà trên không thuộc sở hữu chung của ông
Lưu, bà Thẩm mà chỉ thuộc sở hữu riêng của ông Lưu. Theo như Tòa: “Căn nhà số
150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông
Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975
ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn
thu nhập của ông; bà Thẩm không có đóng góp về kinh tế cũng như công sức để
cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với căn
nhà nêu trên.”

12
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Câu 5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao?
Theo suy nghĩ của nhóm, giải pháp trên của Tòa dân sự TAND tối cao là chưa
hợp lý. Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự TAND
tối cao. Theo khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định về tài sản chung của vợ
chồng:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”
Ở đây, Tòa không công nhận căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản
chung do căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông Lưu khi ông vào miền
Nam đi công tác và bà Thẩm không góp công sức, kinh tế cùng với ông Lưu.
Tuy nhiên, thứ nhất, ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng hợp pháp (Ông Võ Văn
Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn tại UBND xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Thứ hai,
theo như điều luật đã nêu trên, tài sản chung của vợ chồng có bao gồm thu nhập hợp
pháp. Do đó, mặc dù thu nhập đó là do ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung
của hai vợ chồng ông Lưu bà Thẩm về mặt pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là
phần tiền dùng để tạo lập căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt cũng là tài sản chung
của vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm. Vì vậy, cũng theo điều luật trích dẫn phía trên,
quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng, căn nhà là của chung vợ chồng ông
Lưu, bà Thẩm.
Ngoài ra, trong khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ 2014 cũng có nói: “Vợ, chồng
bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có
thu nhập”. Nghĩa là, mặc dù tiền do ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của
13
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

hai vợ chồng ông Lưu bà Thẩm, không cần biết bà Thẩm có hay không làm ra tiền
và góp vốn xây dựng nhà.
Như vậy, căn nhà trên không phải là tài sản riêng của ông Lưu và việc Tòa xác
định căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản riêng của ông Lưu là không có căn
cứ hợp lý, không đúng theo quy định của pháp luật.
Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu
có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi
trả lời.
Theo khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định
tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”.
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự TAND tối
cao. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt. Theo luật, vợ chồng
có quyền định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung của vợ chồng.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 về sở hữu chung của vợ chồng: “Vợ
chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” và khoản 1 Điều 29 Luật
HN&GĐ 2014: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo
lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động
trong gia đình và lao động có thu nhập.”. Do đó trong trường hợp này, ông Lưu chỉ
có quyền di chúc định đoạt 1/2 căn nhà trên thôi, 1/2 còn lại của căn nhà là thuộc về
bà Thẩm.
IV. DIỆN THỪA KẾ
TÓM TẮT BẢN ÁN:

14
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh
Phú Thọ và có một con chung là chị Võ Thị Thu Hương (sinh ngày 29-9-1965). Sau
ngày miền Nam giải phóng ông Lưu chuyển công tác về miền Nam còn bà Thẩm,
chị Hương vẫn ở Phú Thọ. Ngày 07-10-1994, ông Lưu nhận chuyển nhượng của bà
Nguyễn Thị Bướm 101m2 đất tại tổ 8, khu phố 10, phường 6, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền
Giang để cất nhà ở. Ngày 21-10-1996, ông Lưu làm thủ tục đăng ký kết hôn với bà
Cao Thị Xê tại Ủy ban nhân dân phường 6, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang và chung
sống với bà Xê đến năm 2003 thì ông Lưu chết. Sau khi ông Lưu chết, vợ chồng chị
Võ Thị Thu Hương (là con gái của ông Lưu) vào ở tại căn nhà trên để làm ăn sinh
sống cùng với bà Xê. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, TP Mỹ Tho,
tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà
Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào Miền Nam công tác và căn nhà
được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông; bà Thẩm không có đóng góp nên ông
Lưu có quyền định đoạt đối với căn nhà nêu trên. Ông Lưu lập văn bản đề là: “Di
chúc” ngày 27-7-2002 là thể hiện ý chí của ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà
Xê. Tuy nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn
khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669 BLDS thì bà Thẩm được thừa kế tài
sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu. Tòa án
cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm xác định di chúc ngày 27-7-2002 của ông Lưu
là di chúc hợp pháp, từ đó quyết định cho bà Xê được hưởng toàn bộ di sản của ông
Lưu mà không chia cho bà Thẩm được thừa kết 2/3 kỳ phần thừa kế theo quy định
của pháp luật là không đúng, làm thiệt hại đến quyền lợi của bà Thẩm. Do đó,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Quyết định kháng nghị là có căn cứ.

Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông
Lưu không? Vì sao?

- Bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế của ông Lưu. Vì bà Thẩm là vợ hợp
pháp của ông Lưu và chị Hương là con đẻ của ông Lưu nên căn cứ vào Điểm a,
Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 quy định về Hàng thừa kế theo pháp luật thì họ
là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;”
- Bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu. Vì bà Xê không là vợ
hợp pháp của ông Lưu, do vậy, theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 676,
BLDS 2005 thì bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

15
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho
câu hỏi trên có khác không? Vì sao?

- Nếu ông Lưu và bà Xê kết hôn năm 1976 thì câu trả lời trên có khác, bà Xê được
hưởng thừa kế và thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 4, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy
định Về người thừa kế theo pháp luật:

“a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công
bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977-
ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước -
đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra
Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp
luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và
ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”

Theo đó, bà Xê và ông Lưu sống với nhau vào cuối năm 1976, hai người sống ở
miền Nam (Tiền Giang) cho nên đã thuộc trường hợp của Điểm a, Khoản 4 của
Nghị quyết này. Do vậy, ông Lưu và bà Xê là vợ chồng hợp pháp, được hưởng thừa
kế của nhau và bà Xê thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không?
Vì sao?

- Trong vụ việc này, chị Hương được chia di sản của ông Lưu.

- Căn cứ theo Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Hàng thừa kế theo pháp
luật: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”

Theo đó, chị Hương là con đẻ của ông Lưu nên chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của ông Lưu. Do vậy, chị Hương được chia di sản của ông Lưu.

Câu 4 : Theo pháp luật hiện hành ở thời điểm nào người thừa kế có
quyền sở hữu tài sản là di sản do người quá cố để lại? nêu căn cứ khi trả
lời?
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Theo quy
định của pháp luật tại khoản 1, điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án
16
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày Tòa án xác
định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết ”.

Việc xác định thời điểm mở thừa kế rất quan trọng. Thời điểm mở thừa kế
là căn cứ xác định những người thừa kế của người đã chết, vì người thừa kế
phải là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì tùy từng
trường hợp tòa án xác định ngày chết của người đó, nếu không xác định được
ngày chết thì ngày mà quyết định của tòa án tuyên bố người đó đã chết có
hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết...
Theo quy định tại Điều 614 Bộ luật dân sự “ Kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Mặc dù về nguyên tắc, người có quyền hưởng di sản có quyền yêu cầu chia di
sản thừa kế bất cứ lúc nào, kể từ thời điểm mở thừa kế, nhưng việc chia thừa
kế không thể diễn ra ngay sau khi người có tài sản chết ”.
Câu 5: Trong quyết định số 08, theo nội dung của bản án ở thời điểm nào
người thừa kế của ông Hà có quyền nhà ở và đất có tranh chấp ? vì sao ?
Theo nội dung của bản án, ở thời điểm người thừa kế của ông Hà có sở
hữu nhà ở và đất có tranh chấp là thời điểm mở thừa kế tức là thời điểm ông
Hà chết vì tại phần xét thấy trong quyết định có đoạn: “ … ông Hà chết từ
ngày 12/05/2008 thì bà lý Thị Ơn là vợ ông và các con ông Hà được hưởng
thừa kế và nhà đất này đã chuyển dịch quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở sang cho bà Lý Thị Ơn…”. Tức là ngay thời điểm ông Hà chết các thừa
kế đã có quyền sở hữu nhà đất ở và đất mà hiện tại có tranh chấp.

- Nghiên cứu Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản


thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân .
V. THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC NỘI DUNG DI CHÚC
Tóm tắt bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của TAND TPHCM.
Bản án số 2493/2009/DS-ST

Ngày: 04/9/2009

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Khót; Ông An Văn Tâm

Bị đơn: Ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930


17
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Tóm tắt án: Bà Khánh và ông Lâm có 2 người con là bà Khót và ông Tâm, bà
Khánh cũng có 1 người con riêng với ông Ngọt đó là ông Nguyễn Tài Nhật (nhưng
đã không còn liên lạc từ lâu). Năm 2000 cụ Khánh chết. Các nguyên đơn yêu cầu
được hưởng thừa kế của cụ Khánh theo quy định của pháp luật về người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc vì tại thời điểm mở thừa kế các nguyên đơn
là bà KHót đã 71 tuổi, già yếu không còn khả năng lao động, ông Tâm cũng yêu cầu
được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật vì thời điểm cụ Khánh mất ông
Tâm đã 68 tuổi là thương binh hạng 2/4, không có khả năng lao động. Tòa án tuyên
xử xác định di sản của cụ Nguyễn Thị Khánh là giá trị quyền sử dụng đất căn nhà
83 Lương Định Của, phường Thảo Điền, quận 2 TPHCM bằng 1.800.000.000 đồng.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Khót và ông An Văn Tâm về
việc được hưởng di sản của cụ Khánh mỗi người là 400.000.000 đồng theo diện
những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Quyết định số 337/2008/DS-GDT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự TANDTC


Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê, sinh năm 1951.

Bị đơn: 1. Chị Võ Thị Hương, sinh năm 1965.

2. Anh Nguyễn Quốc Chính, sinh năm 1961.

Và một số người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964, có đăng
ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật và có một con chung là chị Võ Thị Thu
Hương. Sau ngày miền Nam giải phóng ông Lưu chuyển công tác về miền Nam.
Ngày 21-10-1996, Ông Lưu làm thủ tục kết hôn với bà Cao Thị Xê đến năm 2003
thì ông Lưu chết. Trước khi chết ông Lưu có để lại di chúc cho bà Xê được quyền
sử dụng tài sản gồm nhà và đất tại địa chỉ số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6,
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang (được tạo lập trong thời kì hôn nhân giữa ông
Lưu và bà Thẩm bằng nguồn thu nhập của ông, bà Thẩm không có đóng góp kinh tế
hay công sức để tạo lập nên căn nhà). Sau đó khối tài sản trên bị tranh chấp bởi bà
Xê và chị Hương, anh Chính. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự TANDTC
Quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm về vụ án “Tranh chấp
thừa kế tài sản”, giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

18
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc


Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di
chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Trong Quyết định có đoạn cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê: “… Việc ông Lưu lập văn bản để là “ Di chúc”
ngày 27-7-2002 là thể hiện ý chí của ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê là có
căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật...”

Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông
Lưu không? Vì sao?
Theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 quy định về người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

• Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng

• Con thành niên mà không có khả năng lao động.”

Do đó, bà Xê không là vợ hợp pháp của ông Lưu nên bà không thuộc diện
được hưởng thừa kế không phụ thuốc vào nội dung của di chúc đối với di sản của
ông Lưu.

Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu và không còn khả năng lao
động nên bà thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuốc vào nội dung của di
chúc đối với di sản của ông Lưu.

Chị Hương là con gái của ông Lưu nhưng chị đã thành niên và có khả năng
lao động nên chị không thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuốc vào nội
dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu.

Câu 3: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm
được hưởng thừa kế không phụ thuốc vào nội dung của di chúc đối
với di sản của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuốc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì: “… Tuy

19
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn khả
năng lao động à là người thừa kế thứ nhất nhưng không được ông Lưu xác định là
người thừa kế tài sản theo di chúc nên theo quy định tại Điều 699 Bộ luật dân sự thì
bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di
chúc của ông Lưu...”

Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di
sản của ông Lưu? Vì sao?
Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì vẫn được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu. Vì khoản 1
Điều 644 BLDS 2015 quy định:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng

Con thành niên mà không có khả năng lao động.”

Vì bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, là người thừa kế hàng thứ nhất nên
bà vẫn được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di
sản của ông Lưu.

Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm
sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Theo Điều 644 BLDS 2015 thì bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc. Nên số tiền bà được thừa kế bằng 2/3 giá trị của một
suất thừa kế theo pháp luật.

Giả sử di sản của ông Lưu được chia theo pháp luật.

Di sản của ông Lưu để lại là 600 triệu đồng.

Một suất thừa kế theo pháp luật: bà Thẩm bằng 300 triệu đồng và chị Hương
300 triệu đồng.

Do đó, tiền bà Thẩm nhận được là 2/3 x 300 triệu đồng= 200 triệu đồng.

20
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu
cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
Nếu bà Thẩm yê cầu chia di sản bằng hiện vật thì có thể được Tòa án chấp
nhận, căn cứ tại khoản 2 Điều 660 BLDS 2015 về việc phân chia di sản quy định:
“Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không
thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định
giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì
hiện vật được bán để chia”.

Câu 7: Trong Bản án số 2493, đoạn nào sau đây của Bản án cho thấy
bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Tại phần Nhận thấy của bản án có đoạn: “Cụ Nguyễn Thị Khánh có 3 người
con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932 (bà
Khót, ông Tâm là con của cụ Khánh và cụ An Văn Lâm chết năm 1938) và ông
Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930 (ông Nhật là con của cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài
Ngọt chết năm 1973)”. Chứng tỏ bà Khót, ông Tâm, ông Nhật là con của cụ Khánh.

Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ di sản có tranh


chấp?
Ông Nguyễn Tài Nhật được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ di sản có
tranh chấp bởi vì căn nhà số 83 Lương Định Của, phường An Khánh, Quận 2 do
ông Tài Ngọt mua nhưng đã để cho cụ Khánh đứng tên vì thế nên vào ngày
13/1/1976 cụ Khánh đã làm tờ ủy quyền nhà để ủy quyền cho ông Tài Nhật được
trọn quyền sử dụng căn nhà và tiếp đó năm 1990 cụ Khánh đã có di chúc để lại cho
ông toàn bộ căn nhà này nên số tiền bồi thường khi giải tỏa nhà cũng là của ông,
trong bản án cũng có đoạn: “Mặc dù theo di chúc của cụ Khánh thì toàn bộ căn nhà
này cụ Khánh để lai cho ông Nguyễn Tài Nhật...”.

Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có con đã
thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả
lời?
Tại thời điểm cụ Khánh chết là vào năm 2000, cụ Khánh có con là bà Khót
và ông Tâm đã thành niên theo quy định của pháp luật tại Điều 20 BLDS 2015:
“Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên” vì khi đó ông Tâm đã 68
tuổi còn bà Khót đã 71 tuổi. đó chính là đoạn đầu tiên bởi nêu lên cụ thể là ông di
Tâm sinh năm 1932 còn Khót sinh năm 1929.

Câu 10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoàn nào của bản án cho
câu trả lời?
21
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Ông Tâm và bà Khót không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Trích bản án: “…Hồi đồng xét xử nhận thất không có cơ sở để chấp nhận yêu
cầu của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là 400.000.000 đồng.”

Tòa cũng giải thích rằng: “Bộ luật lao động còn có các quy định về chế độ đối
với người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với nam.
Như vậy, pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao
động mà việc tham gia quan hệ lao động để được hưởng các chế dộ đãi ngộ chứ
không phỉa là căn cứ xác định một người không còn khả năng lao động. Các
nguyên đơn cũng không xuất trình được chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là
những người không có khả năng lao động. Hơn nữa, từ trước đến nay, ông Tâm, bà
Khót có đời sống kinh tế độc lập, không pụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia
đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế dộ chính sách
của nhà nước theo diện người có công với cách mạng khoảng 400.000 đồng; còn
ông Tâm tuy là thương binh 2/4, theo qui định thì ông bị suy giảm khả năng lao
động là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước
hàng tháng ông lãnh hơn 2.000.000 đồng”.

Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Tòa án đã đưa ra hướng giải quyết hợp lý tuy cách giải thích còn có phần dư
thừa, thiếu cơ sở:

Dựa theo Điều 644 người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, những
người sau đây được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Đối với khái niệm “không có khả năng lao động”, BLDS không cho biết đó là
những trường hợp nào trong phần thừa kế. Bên cạnh đó, BLDS có đề cập đến
trường hợp “mất khả năng lao động” trong phần Bồi thường thiệt hại nhưng cũng
không nêu rõ trường hợp nào là “mất khả năng lao động”. Theo tinh thần của Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,

22
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

những trường hợp được coi là “mất khả năng lao động” 2:gồm trường hợp sau khi
điều trị, người bị thiệt hại do bị liệu cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần
nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy
giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên. Nếu một cá nhân thuộc những
trường hợp nêu trên thì cũng thuộc trường hợp “không có khả năng lao động” 3. Có
thể thấy, trường hợp của ông Tâm và bà Khót chỉ là quá độ tuổi lao động chứ không
có căn cứ cho rằng họ mất khả năng lao động hay không có khả năng lao động.

Đồng ý với quan điểm trên, PGS. TS. Lê Minh Hùng có nhận định: “Con đã
thành niên phải là người không có khả năng lao động để tự nuôi sống mình, không
phụ thuộc vào việc người này có hoàn cảnh kinh tế như thế nào. Người không có
khả năng lao động để tự nuôi sống mình có thể được hiểu là cá nhân đã thành niên
vào thời điểm mở thừa kế, nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến
mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình như bị các bệnh nan y (ung thư,
suy thận mạn tính…); bị bệnh nặng như bại liệt toàn thân, liệt cột sống, liệt đốt sống
cổ, liệt từ hai chi trở lên, cụt mất từ hai chi trở lên, mù mắt; bị mất sức lao động từ
81% trở lên. Việc xác định thuộc trường hợp mất từ 81% sức lao động trở lên có thể
cần phải có giấy y chứng của cơ sở y tế hoặc cơ quan giám định pháp y có thẩm
quyền”4.

Như vậy, ở đây, cả hai quan điểm trên đều đồng ý rằng, một trong những
trường hợp để một người được coi là không có khả năng lao động là phải bị mất sức
lao động từ 81% trở lên. Bà Khót, ông Tâm mặc dù tuổi cao nhưng bà Khót không
bị thương tật gì, hoàn toàn khỏe mạnh, còn ông Tâm mặc dù là thương binh 2/4,
theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng vẫn chưa đủ
81% để được coi là người không có khả năng lao động.

Thứ hai, Tòa án xác định độ tuổi lao động không phải là cơ sở để quyết định
khả năng lao động của mỗi người do Bộ luật lao động còn có các quy định về chế
độ đối với người lao động sao nghỉ hưu nên không thể tuyên ông Tâm và bà Khót
không còn khả năng lao động dựa trên yếu tố tuổi. Bà Khót và ông Tâm đều không

2
"1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường
xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi,
bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng
lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.”

3
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam,
2019, Bản án số 48-51, tr. 412.

4
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019, Chương VI, tr. 514
23
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

xuất trình được chứng cứ tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả
năng lao động. Tuy nhiên, Tòa án lại đề cập đến khả năng tài chính của ông Tâm và
bà Khót làm căn cứ cho lập luận của mình. Cụ thể, bà Khót có gia đình, tài sản
riêng, hưởng chế độ chính sách của nhà nước, ông Tâm cũng được hưởng chính
sách đãi ngộ của nhà nước do là thương binh. Những chi tiết trên không thể dùng để
chứng minh bà Khót, ông Tâm không có khả năng lao động mà chỉ đủ để xác nhận
họ có nguồn tài chính không lệ thuộc cụ Khánh.

Vậy, việc Tòa không chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về thuộc trường
hợp người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là hợp lý tuy
những căn cứ Tòa đưa ra có điểm còn chưa phù hợp.

Câu 12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức
lao động? Vì sao?

Hướng giải quyết trên sẽ khác đi nếu ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động.

Do không có quy định cụ thể về trường hợp không có khả năng lao động nên theo
Điều 6 BLDS 2015, có thể áp dụng tương tự tinh thần của Nghị quyết 03/2006/NQ-
HĐTP để giải quyết trường hợp này.

Cụ thể, theo nghị quyết trên thì người bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn
từ 81% trở lên được xem là mất khả năng lao động. Khi đó, ông Tâm cũng có thể
được xem là “mất khả năng lao động”, một trường hợp của “không có khả năng lao
động” và thỏa mãn Điểm b Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015. Nói cách khác, ông Tâm
sẽ được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Câu 13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài
sản.

Điều 624. Di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết.

Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản

Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho
giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu
cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.

1. Điểm giống nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản:

24
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Thứ nhất, di chúc và tặng cho tài sản đều thể hiện được quyền định đoạt, quyết
định của chủ thể sở hữu tài sản.

Thứ hai, di chúc và tặng cho tài sản đều là cơ sở để phát sinh, chuyển giao
quyền sở hữu tài sản giữa các chủ thể.

Khác nhau Tiêu chí Di chúc Tặng cho tài sản

-Là sự thể hiện ý chí -Là sự thỏa thuận giữa các


của cá nhân nhằm bên, theo đó bên tặng cho
chuyển tài sản của mình giao tài sản của mình và
Khái cho người khác sau khi chuyển quyền sở hữu cho
niệm chết.Điều 624 BLDS bên được tặng cho mà không
yêu cầu đền bù, bên được
tặng cho đồng ý nhận.Điều
457 BLDS

Chủ thể -Cá nhân -Cá nhân, pháp nhân

-Thể hiện ý chí đơn -Là sự thỏa thuận, thể hiện ý


phương của một người chí song phương giữa người
định đoạt tài sản của cá cho và người được tặng và
nhân của mình cho họ phải còn sống tại thời
những người thừa kế. điểm cho- nhận tài sản;
AAAAA
-Người được tặng cho
-Người thừa kế thường thường là một người không
Đặc điểm là người thân của người thân thích;AAAA
lập di chúc;
-Những người thừa kế không
-Những người được phụ thuộc vào nội dung của
thừa kế không phụ di chúc không được phép đòi
thuộc vào nội dung di chia di sản đã được tặng cho.
chúc vẫn được hưởng
2/3 của 1 suất thừa kế
theo pháp luật.

-Tài sản hiện có hoặc -Tài sản hiện có, đang tồn tại
Đối
tài sản được hình thành chứ không phải tài sản được
tượng
trong tương lai. hình thành trong tương lai.

Thời -Người thừa kế chỉ -Nếu hợp đồng tặng cho là


25
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

được nhận di sản sau động sản: Có hiệu lực kể từ


khi người lập di chúc thời điểm bên được tặng cho
chết. nhận được tài sản;
điểm
nhận -Nếu hợp đồng tặng cho là
được tài bất động sản: Phải lập
sản thành văn bản có công
chứng, chứng thực hoặc phải
đăng ký và có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký.

Quyền -Người lập di chúc có -Người lập di chúc không


của thể tự mình sửa đổi, bổ được tự ý sửa đổi, bổ sung,
người sung, hủy bỏ di chúc hủy bỏ hợp đồng nếu không
chuyển bất cứ lúc nào. có sự đồng ý của người được
giao tài tặng cho.
sản

-Người thừa kế phải -Hơp đồng tặng cho tài sản


Thực thực hiện nghĩa vụ tài là hợp đồng không có đền
hiện sản do người chết để bù. Do đó, người được tặng
nghĩa vụ lại. cho không phải hoàn trả một
tài sản lợi ích hay thực hiện một
nghĩa vụ tài sản nào.

Câu 14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc
mà, trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của
ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên
không?

Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà trước khi
chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà
Thẩm không được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên.

Xét Điều 644 về chế định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì
quy định này áp dụng cho người thừa kế “trong trường hợp họ không được người
lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất
đó”. Tuy nhiên, việc này phụ thuộc vào di sản của người chết mà di sản phụ thuộc
vào khối tài sản có tại thời điểm mở thừa kế. Do đó, để tránh những quy định này,
người có di sản chỉ cần tặng cho người khác tài sản của mình trước khi chết.
26
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Chính vì vậy, việc ông Lưu trước khi chết làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài
sản của ông Lưu đã khiến ông không còn tài sản khi chết, nghĩa là không có tài sản
tại thời điểm mở thừa kế. Như vậy, bà Thẩm sẽ không được hưởng gì vì ông Lưu đã
không còn tài sản. Việc làm hợp đồng tặng cho bà Xê đã có thể tránh đi điều luật
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bà Thẩm, vợ ông Lưu.

Câu 15: Đối với hoàn cảnh như câu trên pháp luật nước ngoài có điều chỉnh
thế nào?

Một số luật pháp nước ngoài đã phòng hờ trường hợp này như Bỉ, Pháp, Tây Ban
Nha. Ở hệ thống này, lưu sản “được thể hiện như một giới hạn đối với tự do định
đoạt bằng di chúc hay tặng cho”. “Khi có người thừa kế bắt buộc, những tặng cho
và di chúc sẽ có hiệu lực khi việc bảo lưu được tôn trọng. Thừa kế bắt buộc có
quyền giảm những định đoạt được thực hiện khi người để lại di sản còn sống cũng
như những định đoạt trong di chúc nếu việc định đoạt vượt quá mức cho phép”.
Tương tự như vậy trong pháp luật Ba Lan, pháp luật Italia: Lưu sản (hay thừa kế bắt
buộc) áp dụng cả tặng cho (cần tập hợp tất cả tài sản thuộc sở hữu của người quá cố
ở thời điểm mở thừa kế và tài sản đã được tặng cho khi người quá cố còn sống)5.

Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu
cho cả hợp đồng tặng cho

Chúng ta thấy được rằng ngoài phần thừa kế theo di chúc, pháp luật hiện hành của
chúng ta không có quy định (thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc) tương
tự đối với các giao dịch khác. Điều đó có nghĩa là, nếu người có tài sản định đoạt tài
sản của mình cho người khác mà không theo cách thức của di chúc như tặng cho thì
chưa có quy định bảo vệ những người nêu trong phần trên. “Chẳng hạn, nếu như
ông Tiền không lập di chúc mà trước khi chết lập hợp đồng tặng cho bà Liệu toàn
bộ di sản thì không có cơ sở để áp dụng chế định mà chúng ta đang nghiên cứu. Do
đó, mẹ và con ông Tiền không được pháp luật bảo vệ.”6

Có thể thấy, đó là một bất cập trong bộ luật. Bởi vì quyền lợi của những người mà
Điều 644 BLDS 2015 bảo vệ (con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành

5
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam,
2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 48-51, tr. 434-435.
6
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam,
2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 48-51, tr. 432-433.
27
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

niên mà không có khả năng lao động) chưa được bảo vệ một cách triệt để. Thực
chất, những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là
những người thuộc diện yếu thế, cần có sự bảo vệ hơn những người bình thường.

Chúng ta có thể tham khảo thêm các bộ luật nước ngoài để hoàn thiện Bộ luật Dân
sự hơn trong trường hợp này , đồng thời có thể bảo vệ tốt hơn các đối tượng cần
được pháp luật bảo vệ ở Điều 644BLDS

VI. NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN


Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên
thanh toán?

- Theo Điều 683, BLDS 2005 quy định về Thứ tự ưu tiên thanh toán:

“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:

1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;

2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;

3. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;

4. Tiền công lao động;

5. Tiền bồi thường thiệt hại;

6. Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;

7. Tiền phạt;

8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;

9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;

10. Các chi phí khác”.

- Theo Điều 658, BLDS 2015 về Thứ tự ưu tiên thanh toán:

“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:

1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

28
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.

4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

5. Tiền công lao động.

6. Tiền bồi thường thiệt hại.

7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

9. Tiền phạt.

10. Các chi phí khác”.

Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi
trưởng thành không?

- Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành.

- Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu và có người con chung là bà Hương. Do
vậy, hiển nhiên ông Lưu phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương trong thời gian đó.

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương
từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?

Đoạn của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ
đến khi trưởng thành:

“Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm là
người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành, khi giải
quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ
giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm
(nếu bà Thẩm có yêu cầu)”.

Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có
phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công
sức nuôi dưỡng con chung không?

- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích
cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng
con chung.

29
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

- Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, nay đã già yếu, không còn khả năng lao
động nên theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự thì bà Thẩm được thừa kế tài
sản của ông Lưu không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu.

Mặt khác, bà Thẩm có công nuôi dưỡng trực tiếp đứa con chung từ nhỏ cho đến khi
trưởng thành từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác.

Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản,
anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.

- Giải pháp của Toà án căn cứ vào Điều 669 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và
Khoản 2, Điều 683 của Bộ luật này.

Điều 669 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật,trong trường hợp
họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản
nhỏ hơn hai phần ba suất đó,trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy
định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy
định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên,cha,mẹ,vợ,chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.

- Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, đã già yếu không có khả năng lao động và
là người thừa kế ở hàng thứ nhất. Trong di chúc ông Lưu đã để lại toàn bộ tài sản
cho bà Xê. Bà Thẩm không được hưởng phần di sản nào. Bà Thẩm không thuộc
trường hợp từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 và không phải là người
không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật Dân
sự năm 2005.

Do đó, căn cứ vào Điều 699 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì bà Thẩm được
hưởng di sản của ông Lưu không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

- Đứa con chung của bà Thẩm và ông Lưu được bà Thẩm trực tiếp nuôi dưỡng từ
nhỏ cho đến khi trưởng thành trong suốt quá trình ông Lưu vào miền Nam công tác.

- Trường hợp này có thể xem xét dưới góc độ tiền cấp dưỡng còn thiếu của ông
Lưu. Khi còn sống, ông Lưu chưa thực hiện hết nghĩa vụ cấp dưỡng cho người thân
thích của mình, cụ thể là đứa con chung từ khi vào miền Nam sinh sống cho đến khi
con trưởng thành.
30
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế

Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 683 của Bộ luật Dân sự năm 2005, nếu bà Thẩm có
yêu cầu, phải trích từ khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi dưỡng con
chung cho bà Thẩm.

31

You might also like