Professional Documents
Culture Documents
“2. Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
Trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa
phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
3. Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì bị
coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu
kháng cáo của người đó, trừ trường hợp người đó đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa
án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
Trường hợp người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan thì phải hoãn phiên tòa.”
Theo quy định trên, nếu người kháng cáo được toà án triệu tập lần thứ hai
mà vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Toà án mới đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó.
Còn trong TH người kháng cáo được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà
vắng mặt thì phải hoãn phiên toà hoặc nếu họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt
trong lần triệu tập lần nhất hoặc lần hai mà vắng mặt thì Toà án tiến hành phiên toà
phúc thẩm xét xử vắng mặt họ chứ không phải đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ.
4. Người đại diện theo ủy quyền của đương sự không có quyền kháng cáo thay
đương sự.
Nhận định sai.
Điều 271 BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ
thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.
Theo Khoản 1 Điều 85 BLTTDS 2015: “Người đại diện trong tố tụng dân
sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người
đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.”
Như vậy, người đại diện theo ủy quyền có quyền kháng cáo thay đương sự.
4
5. Tòa án bắt buộc phải chấp nhận mọi sự thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng
cáo của đương sự.
Nhận định sai. Tòa án không buộc phải chấp nhận mọi sự thay đổi, bổ sung
yêu cầu kháng cáo của đương sự.
Theo khoản 1 Điều 284 BLTTDS 2015 quy định trong trường hợp chưa hết
thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của BLTTDS 2015 thì người đã
kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi
kháng cáo ban đầu. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 284 BLTTDS 2015 quy định là
trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có
quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo
ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết.
Như vậy, nếu như thời hạn kháng cáo đã hết và yêu cầu thay đổi, bổ sung
kháng cáo của đương sự đã vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu thì Tòa án sẽ
không chấp nhận yêu cầu bổ sung, thay đổi đó của đương sự
Bị đơn kháng cáo không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chỉ đồng ý
hoàn trả 100 triệu đồng đã mượn, còn các vật dụng ông I đã sắm bà không đồng ý
trả lại vì bà cho rằng ông I đã tặng cho bà. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn đưa ra ý
kiến bị đơn sẽ trả cho nguyên đơn 150 triệu đồng và yêu cầu nguyên đơn phải rút
toàn bộ đơn khởi kiện tại phiên tòa phúc thẩm, không yêu cầu Tòa án giải quyết
tranh chấp.
Nếu anh/chị là nguyên đơn, anh/chị đồng ý với ý kiến của bị đơn không? Tại
sao?
Không đồng ý với ý kiến của bị đơn.
Theo Điều 457 BLDS 2015 thì hợp đồng tặng cho theo đó “bên tặng cho
giao tài sản của mình cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù và bên
được tặng cho đồng ý nhận”. Điều 458 BLDS 2015 cho thấy “việc tặng cho động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng
cho nhận tài sản.” Khi giữa ông I và bà T có quan hệ tình cảm, ông I đã có hành vi
cụ thể là tự nguyện mua sắm lắp đặt 1 số trang thiết bị nêu trên cho bà T sử dụng,
giữa hai bên không có điều kiện hay thủ tục gì khác. Việc đi mua sắm và lắp đặt
các thiết bị của ông I là hoàn toàn tự nguyện chứng tỏ ông I đã có sự tặng cho tài
sản cho bà T theo lời khai của bà T là phù hợp với pháp luật.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn đưa ra ý kiến bị đơn sẽ trả 150 triệu và yêu
cầu nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện, do đó có các trường hợp có thể xảy ra:
- Ông I chấp nhận yêu cầu của bà T về việc bà T sẽ trả cho ông 150 triệu và
ông I đồng ý rút đơn khởi kiện: Theo Điều 299 BLTTDS 2015 thì nếu ông I rút
đơn khởi kiện và bà T cũng đồng ý thì HĐXX chấp nhận việc rút đơn và ra quyết
định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Về án phí: Ông I và bà T
chịu án phí sơ thẩm và 1 nửa án phí phúc thẩm. Nếu bà T không thực hiện trả ông
150 triệu thì ông I có quyền khởi kiện yêu cầu bà T thực hiện nghĩa vụ của mình
nhưng thủ tục tố tụng sẽ phải làm lại từ đầu và lại chịu án phí mới.
- Ông I không chấp nhận việc rút đơn mà chỉ chấp nhận việc thỏa thuận bà T
sẽ trả ông 150 triệu đồng: Theo Điều 300 BLTTDS 2015 thì việc thoả thuận này tự
nguyện không vi phạm điều cấm của luật, do đó HĐXX ra bản án phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các bên. Bản án phúc thẩm có hiệu
6
lực thi hành ngay. Về án phí: Ông I, bà T tự thoả thuận với nhau việc trả phí, nếu
không thoả thuận được thì theo quyết định của pháp luật.
kháng cáo, kháng nghị toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm thì cấp phúc thẩm xét
lại toàn bộ nhưng nếu chỉ kháng cáo, kháng nghị một phần thì cấp phúc thẩm chỉ
được xét lại nội dung phần có kháng cáo, kháng nghị, nhũng phần còn lại của bản
án, quyết định sơ thẩm cho dù không đúng pháp luật cấp phúc thẩm cũng không
được quyền xét xử lại.
3. Trong tình huống đã cho, việc Tòa án cấp phúc thẩm xác định việc
tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn bà Đ với bị đơn vợ chồng bà
S, ông X đã được giải quyết tại Thông báo ngày 5 01/7/1991 của UBND xã Hòa
Xuân (cũ) và phía ông X đã được UBND huyện Tuy Hòa (cũ) cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và sử dụng ổn định cho đến nay nhưng lại sửa bản án
sơ thẩm, xử không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn có đúng pháp
luật hay không? Tại sao?
Việc sửa bản án sơ thẩm, xử không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên
đơn là không đúng pháp luật.
Trong trường hợp này khi TA cấp phúc thẩm xác định việc tranh chấp quyền
sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Đ với bị đơn là vợ chồng bà S, ông X đã được
giải quyết tại Thông báo ngày 5 01/7/1991 của UBND xã Hoà Xuân (cũ) và phía
ông X đã được UBND huyện Tuy Hoà (cũ) cấp GCNQSDĐ và sử dụng ổn định
cho đến nay thuộc điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015 thì sau khi thụ lý vụ
án, căn cứ Điều 311 BLTTDS 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định
hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án chứ không có thẩm quyền sửa bản
án sơ thẩm, không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.