You are on page 1of 262

BUỔI THẢO LUẬN 1: CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT DÂN

SỰ

*****************

I. NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CÁ NHÂN.


Tóm tắt bản án: Quyết định số 52/2020/DS-GĐT ngày 11/9/2020 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn là ông Lê Văn Tiếu

- Bị đơn là ông Lê Văn Chỉnh.

- Vấn đề tranh chấp: + Xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân

+ Xác định người giám hộ

Lý do tranh chấp:

+ Ông Chảng là người cần xác định lại năng lực hành vi dân sự cá nhân. Vì tại
“Biên bản giám định khả năng lao động”, Hội đồng giám định y khoa Trung
ương – Bộ Y Tế xác định ông Chảng “…Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất
vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai
biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại đủ năng lực hành vi
lập di chúc. Được xác định tỉ lệ mất khả năng lao động do bênh tật là 91%...”.

+ Còn về người giám hộ căn cứ vào “Giấy đăng kí kết hôn- Đăng kí lại’’ giữa bà
Bích và ông Chảng, do bà Bích xuất trình là không đúng thực tế và không có việc
đăng kí kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng. Như vậy, tại thời điểm Tòa án giải
quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng và không đủ điều
kiện làm người giám hộ của ông Chảng. Về phía bà Chung, Bà Chung chung
sống với ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Bà
Chung được ông Chỉnh thừa nhận hoàn thành tốt bổn phận của người vợ.

Quyết định của Tòa án:

+ Xác định ông Chảng mất năng lực hành vi dân sự (căn cứ theo khoản 1 Điều 22
BLDS năm 2005)
+ Xác định bà Chung là người giám hộ hợp pháp của ông Chảng (vì lúc này bà
Chung là vợ của ông Chảng).

Quyết định số 15/2020/QĐST-DS của Tòa án nhân dân Quận S, TP. Đà Nẵng.
Chủ thể: + Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Bà Lê Thị A

Vấn đề yêu cầu:

+ Yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

+ Xác định người giám hộ

Lý do yêu cầu: Bà Lê Thị A có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mẹ ruột của bà là bà
Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Căn cứ vào Kết
luận giám y tâm thần đối với trường hợp của bà Nguyễn Thị E thì tại thời điểm
hiện tại kết luận về y học: Mất trí không biệt định (F03); Kết luận về năng lực
hành vi dân sự: Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Quyết định của Tòa án:

+ Chấp nhận yêu cầu Tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi của bà Lê Thị A.

+ Chỉ định bà Lê Thị A là người giám hộ của bà Nguyễn Thị E.

1. Điểm giống và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân sự và mất
năng lực hành vi dân sự:

Giống nhau:

Năng lực hành vi dân sự: Họ là những người từng có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ

Căn cứ chứng minh: Một người bị xem là mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự khi và chỉ khi có quyết định của Tòa án tuyên bố
người đó mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Khả năng thực hiện giao dịch: Cá nhân không thể tự mình tham gia các giao dịch,
giao dịch phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện

Khôi phục năng lực hành vi dân sự: Khi không còn căn cứ cho rằng họ bị mất
năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ có quyền
được khôi phục lại năng lực hành vi dân sự của mình.
Khác nhau:

Hạn chế năng lực hành vi Mất năng lực hành vi dân
dân sự (Điều 24 BLDS 2015) sự
(Điều 22 BLDS 2015)
Đối tượng Người nghiệm ma túy, nghiện Người bị bệnh tâm thần hoặc
các chất kích thích dẫn đến mắc bệnh khác mà không thể
phá tài sản của người khác nhận thức, làm chủ được
hành vi
Cơ sở để Tòa Theo yêu cầu của người có Theo yêu cầu của người có
án ra quyết quyền, lợi ích liên quan hoặc quyền, lợi ích liên quan hoặc
định của cơ quan, tổ chức hữu quan của cơ quan, tổ chức hữu
quan
Kết luận giám định pháp y
tâm thần
Hệ quả pháp Giao dịch do người hạn chế Giao dịch cho người mất
lý năng lực hành vi dân sự thực năng lực hành vi dân sự thực
hiện, xác lập là không có hiệu hiện, xác lập là không có
lực pháp luật (bị vô hiệu), trừ hiệu lực pháp luật (bị vô
trường hợp được sự đồng ý hiệu).
của người đại diện hoặc giao Giao dịch phải do người đại
dịch phục vụ cho nhu cầu sinh diện theo pháp luật thực hiện.
hoạt hằng ngày.
Người đại diện Người đại diện của người hạn Người đại diện cho người
chế năng lực hành vi dân sự mất năng lực hành vi dân sự
do Tòa án chỉ định có thể là cá nhân hoặc pháp
nhân và được gọi là người
giám hộ
Người đại diện có thể được
chỉ định hoặc đương nhiên
trở thành người đại diện theo
quy định pháp luật.

2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:

Người bị hạn chế năng lực hành Người có khó khăn trong nhận
vi dân sự thức, làm chủ hành vi
Căn cứ, CSPL Điều 22 BLDS 2015 Điều 23 BLDS 2015
Đối tượng Người nghiện ma túy, các chất kích Người thanh niên do tình trạng
thích khác dẫn đến phá tài sản của thể chất hoặc tinh thần mà không
gia đình đủ khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi nhưng chưa đến mức mất
năng lực hành vi dân sự
Thời điểm xác Khi Tòa án ra quyết định Khi Tòa án ra quyết định tuyên bố
định đối tượng
Người đại diện Người đại diện theo pháp luật Người giám hộ do Tòa án chỉ định

Trường hợp Khi không còn căn cứ để tuyên bố Khi không còn căn cứ để tuyên bố
chấm dứt một người bị hạn chế hành vi năng một người có khó khăn trong nhận
lực dân sự thì Tòa án ra quyết định thức, làm chủ hành vi thì Tóa án
hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế ra quyết định hủy bỏ quyết định
năng lực hành vi dân sự tuyên bố người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.

* Về người mất năng lực hành vi dân sự

3. Trong quyết định số 52, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định năng lực
hành vi dân sự của ông Chảng như thế nào?

Trong quyết định trên, tòa án nhân dân tối cao đã xác định năng lực hành vi dân
sự của ông Chảng hiện tại dựa vào Biên bản giám định khả năng lao động số
84/GĐYK-KLLĐ ngày 18/12/2007, Hội Đồng giám định y khoa trung ương - Bộ
y tế xác định ông Chảng :” Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn
nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến
mạch máu não lần 2, Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Được xác định tỷ lệ mất khả năng
lao động do bệnh tật là: 91 % …”.

Theo Điều 24 BLDS năm 2015 Ông Chảng được xác định là đối tượng “mất năng
lực hành vi dân sự

4. Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục
không vì sao?

Hướng của tòa án nhân dân tối cao là thuyết phục.


Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày
18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương – Bộ Y tế xác định ông
Chảng: “Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn
½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2.
Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được
xác định tỉ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật là: 91%...”.

Dựa vào khoản 1 Điều 22 BLDS 2015 về mất năng lực hành vi dân sự : “một
người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở giám định pháp y tâm thần”.

5. Theo Toà án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới
có thể là người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Toà án nhân dân tối
cao như vậy có thuyết phục không, vì sao?

Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào “Biên bản giám định khả năng lao động” và “Giấy
chứng nhận kết hôn - Đăng lí lại” ngày 15 tháng 10 năm 2001, do bà Bích xuất
trình để xác định bà Bích là vợ và người giám hộ hợp pháp của ông Chảng là
không đúng qui định tại khoản 1 Điều 22, Điều 58, Điều 62 Bộ luật dân sự 2005.
Với những tài liệu thể hiện chứng cứ giữa bà Bích và ông Chảng do bà Bích xuất
trình là không thực tế và không có việc đăng ký kết hôn giữa bà Bích và ông
Chảng. Tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp pháp
của ông Chảng. Do đó, bà Bích không đủ điều kiện được cử làm người giám hộ
cho ông Chảng theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005.
Ngoài ra, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với ông
Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác
định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987, trường hợp này bà Chung và ông Chảng được công nhận là vợ
chồng hợp pháp theo quy định tại điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-
QH10 ngày 09 tháng 06 năm 2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình.

Hướng của Tòa án nhân dân tối cao không thuyết phục ở giai đoạn sơ thẩm và
phúc thẩm không rõ ràng về việc xác định người giám hộ cho ông Chảng. Tại
thời điểm việc phân chia tài sản gây thiệt hại cho ông Chảng nhưng bà Bích
(người tự xưng là giám hộ của ông Chảng và được Tòa sơ thẩm và phúc thẩm
đồng ý) không kháng cáo yêu cầu chia lại, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của
ông Chảng không đươc pháp luật bảo vệ. Còn bà Chung, mặc dù là vợ hợp pháp
nhưng không được Tòa xác định là người đại diện hợp pháp của ông Chảng, nên
bà Chung không thực hiện được quyền kháng cáo để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của ông Chảng. Tuy nhiên, bị kháng cáo nên Tòa phúc thẩm tại Bản án số
07/2009/DSPT ngày 14 tháng 01 năm 2009 đã quyết định bà Nguyễn Thị Chung
là vợ hợp pháp của ông Lê Văn Chảng nên hướng giải quyết của Tòa được thuyết
phục hơn. Từ việc xác định không đúng người đại diên hợp pháp của ông Chảng,
đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Chảng.

6. Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của
người được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý)

Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 58 BLDS 2015 cho biết quyền của người giám hộ
đối với tài sản của người được giám hộ:

- Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu
cầu thiết yếu của người được giám hộ;

- Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ;

- Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự;

- Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có
quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1 Điều
này.

Điều 59 BLDS 2015 về quản lý tài sản của người được giám hộ

1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của
chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người
được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.

Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và
giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải
được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người
khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên
quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch
được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người
giám sát việc giám hộ.

2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được
quản lý tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm
vi được quy định tại khoản 1 Điều này.

Căn cứ vào Điều 55, 56, 57 BLDS 2015 cho biết nghĩa vụ của người giám hộ đối
với tài sản của người được giám hộ:

-Đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi:

+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự.

+ Quản lý tài sản của người được giám hộ.

-Đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:

+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể
tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

+ Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.

- Đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi:

+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;

+ Quản lý tài sản của người được giám hộ.

7. Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám
hộ của ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông
Chảng được hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý
của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu.
Người giám hộ (đồng thời là vợ) của ông Chảng là bà Nguyễn Thị Bích (dựa trên
“Giấy đăng kí kết hôn - đăng kí lại” ngày 15/10/2001 – Theo “Tạp chí Ngày Mới
online”, “Người giám hộ bỏ mặc quyền lợi của người được giám hộ, hệ lụy từ
một bản án”), từ đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Bích là vợ hợp pháp của ông
Chảng, cử bà Bích làm người giám hộ hợp pháp của ông Chảng có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Thế nhưng, sau khi xét xử phúc thẩm, UBND phường Yên Nghĩa, quận Hà
Đông, TP. Hà Nội đã có Công văn số 31/UBND-TP ngày 8/3/2019 xác nhận:
"Qua kiểm tra xác minh sổ đăng kí kết hôn năm 2001 của phường cho thấy
không có trường hợp đăng kí kết hôn nào có tên ông Lê Văn Chảng và bà
Nguyễn Thị Bích"(Theo “Tạp chí Ngày Mới online”, “Người giám hộ bỏ mặc
quyền lợi của người được giám hộ, hệ lụy từ một bản án”).

Như vậy, tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp
pháp của ông Chảng, bà Bích không đủ điều kiện được cử làm người giám hộ
cho ông Chảng theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Dân Sự năm 2015
(Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám
hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ). Vì
thế, bà Bích (người giám hộ không hợp pháp của ông Chảng) không được tham
gia vào việc chia di sản thừa kế mà ông Chảng được hưởng.

Theo tôi, hướng xử lý của TAND Tối cao là hợp lý vì vẫn còn rất nhiều khuất tất
trong vụ án, cần phải đưa vụ án ra TAND TP. Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ
thẩm đúng quy định của pháp luật.

* Về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

8. Điều kiện để Tòa án có thể tuyên 1 người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 định nghĩa về người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi, cụ thể như sau:

"Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi
dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y
tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định
quyền, nghĩa vụ của người giám hộ".

Như vậy, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người từ đủ
18 tuổi trở lên, do tình trạng thể chất và tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Tình
trạng thể chất hoặc tinh thần dẫn đến không đủ khă năng nhận thức, làm chủ
hành vi có thể là trường hợp cá nhân bất chợt bị tâm thần nhưng chưa đến
mức không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình (Ví dụ: Người mắc bệnh
Down); người bị tai nạn phải nằm điều trị lâu ngày trong bệnh viện và theo
yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan, trên cơ sở kết luận
của tổ chức giám định pháp y tâm thần, Toà án ra quyết định tuyên bố là
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khác với người
mất năng lực hành vi dân sự. Vì người mất năng lực hành vi dân sự không có
khả năng để nhận thức và hành động một cách đúng đắn theo ý chí của mình,
nên họ không có đủ khả năng để hiểu và làm chủ được hành vi của mình.
Trong khi đó, người có khó khăn trong nhận thức và lám chủ hành vi không
mất hoàn toàn khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, một phần nào đó họ vẫn
hiểu, nhận thực được hành vi của mình nhưng không đầy đủ như người bình
thường.

9. Trong quyết định số 15, Tòa án tuyên bà E có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong quyết định số 15, Tòa án tuyên bà E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là thuyết phục.

Căn cứ vào Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1032/KLGĐTC ngày
08/12/2020 của Trung Tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với trường
hợp bà Nguyễn Thị E thì tại thời điểm hiện tại kết luận về y học: Mất trí không
biệt định (F03); Kết luận về năng lực hành vi dân sự: Khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.

Khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự 2015: Người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi:
+ Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

10. Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A là người giám hộ cho bà E
(có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A là người giám hộ cho bà E (có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) là thuyết phục.

Về việc chỉ định người giám hộ: Chồng bà Nguyễn Thị E đ chết, bà Lê Thị A là
con cả trong gia đình. Đồng thời các con của bà E là: bà Lê Thị Q, ông Lê Đức
D, bà Lê Thị N, bà Lê Thị H và ông Lê Đức L cũng thống nhất chỉ định Bà A làm
người giám hộ cho bà E. Xét thấy Bà A có đầy đủ điều kiện của cá nhân làm
người giám hộ theo quy định tại điều 46, 47, 48, 49, 53, 54, 136 Bộ luật dân sự
nên cần chấp nhận.

CSPL: Khoản 1, 2 Điều 46: Giám hộ

+ Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân
dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của
Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi
chung là người được giám hộ)

+ Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình
tại thời điểm yêu cầu.

Khoản 1 Điều 47: Người được giám hộ bao gồm:

+ Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Khoản 1 Điều 48: Người giám hộ


+ Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện quy định tại Bộ luật này được làm người
giám hộ.

Điều 49: Điều kiện của cá nhân làm người giám hộ

+ Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:

1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ
của người giám hộ;

3. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết
án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác;

4. Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành
niên.

Khoản 2 Điều 53: Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi
dân sự

+ Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất
năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ
thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm
người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là
người giám hộ;

Khoản 4 Điều 54: Cử, chỉ định người giám hộ

+ Trừ trường hợp áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này, người
giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ
định trong số những người giám hộ quy định tại Điều 53 của Bộ luật này. Trường
hợp không có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định người giám hộ
hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.

Khoản 2 Điều 136: Đại diện theo pháp luật của cá nhân

+ Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được
Tòa án chỉ định.
11. Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A có quyền đối với tài sản
của bà E theo Điều 59 Bộ luật dân sự 2015 có thuyết phục không? Vì
sao?

Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A có quyền đối với tài sản của bà E
theo Điều 59 Bộ luật dân sự 2015 là thuyết phục. Vì:

Bà A được chấp nhận yêu cầu Tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi là bà E, được chỉ định là người giám hộ của bà E nên phải thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ theo quy định tại Khoản 2 Điều 57,
Khoản 2 Điều 58 Bộ luật dân sự 2015:

+ Điều 57. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1. Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau
đây:
a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;
d) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có
nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1
Điều này.

Điều 58. Quyền của người giám hộ

1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự có các quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những
nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ:
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1
Điều này.

- Bà A phải thực hiện quản lý tài sản của người được giám hộ theo quy định
tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 59. Quản lý tài sản của người được giám hộ

1) Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của
chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của
người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.

Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và
giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải
được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người
khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên
quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch
được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người
giám sát việc giám hộ.

2) Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
được quản lý tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án
trong phạm vi được quy định tại khoản 1 Điều này.

I. TƯ CÁCH PHÁP NHÂN VÀ HỆ QUẢ PHÁP LÝ

Tóm tắt bản án: Bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/09/2012 về việc tranh
chấp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Nguyên đơn là ông Nguyễn Ngọc Hùng

Bị đơn là cơ quan đại diện Bộ Tài Nguyên và Môi trường.

Ông Hùng khởi kiện vì không chấp nhận quyết định chấm dứt hợp đồng lao động
của cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, buộc nhận ông trở lại làm
việc, bồi thường thiệt hại cho ông trong những ngày không được làm việc từ
ngày 01/10/2011 cho đến khi giải quyết xong vụ kiện.
Quyết định của Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Nhưng xét
thấy án sơ thẩm xác định sai tư cách bị đơn nên hủy bản án Lao động sơ thẩm số
07/2012/LĐ – ST để chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân quận 1 TP Hồ Chí
Minh giải quyết lại sơ thẩm vụ án.

Kết luận của Tòa án: Cơ quan đại diện của Bộ Tài Nguyên và Môi trường là đơn
vị trực thuộc của Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện. Vì vậy, cơ
quan đại diện của Bộ Tài Nguyên và Môi trường không có tư cách pháp nhân.

1. Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân:

Pháp nhân là tổ chức đáp ứng các điều kiện sau thuộc điều 74 và điều 83 BLDS
2015

Theo Điều 74 BLDS 2015 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có
đủ các điều kiện sau đây:

a) Được thành lập hợp pháp:

- Pháp nhân được thành lâp theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoăc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lâp, đăng ký thay đổi và đăng ký
khác theo quy định của pháp luật

- Viêc đăng ký pháp nhân phải được công bố, công khai.

b) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ :

- Pháp nhân phải có cơ quan điều hành.

- Tổ chức, nhiêm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân hoăc
trong quyết định thành lâp pháp nhân.

- Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoăc quyết định của
pháp luât theo quy định,

c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình:

- Tài sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân
(như đối với các công ti, các hợp tác xã dù nguồn vốn hình thành có thể khác
nhau…) mà có thể được Nhà nước giao cho tổ chức được quyền quản lí của pháp
nhân đó. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân – thành viên của
pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác. Tài
sản độc lập của pháp nhân là tài sản thuộc quyền của pháp nhân đó, do pháp nhân
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phù hợp với mục đích
của pháp nhân

- Tài sản của pháp nhân thể hiện dưới dạng vốn, các tư liệu sản xuất và các loại
tài sản khác phù hợp với từng loại pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình
thành trên những cơ sở khác nhau dưới dạng được Nhà nước giao để thực hiện
chức năng (các pháp nhân là lực lượng vũ trang) được giao theo pháp luật về
doanh nghiệp nhà nước; được chuyển giao quyền sở hữu cho các tổ chức chính
trị, chính trị – xã hội; từ nguồn vốn đóng góp của các thành viên; từ hoạt động
sản xuất kinh doanh hợp pháp…

d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập:

- Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp
luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân
sự do pháp luật quy định phù hợp với điều lệ của pháp nhân. Pháp nhân không
“núp” dưới danh nghĩa của tổ chức khác, cũng không được phép cho người khác
“núp” dưới danh nghĩa của mình để hoạt động. Khi pháp nhân không thực hiện
nghĩa vụ của mình hoặc có gây thiệt hại cho cá nhân hoặc pháp nhân khác thì
pháp nhân có thể là bị đơn trước toà án. Ngược lại, cá nhân hoặc pháp nhân khác
không thực hiện nghĩa vụ, hoặc gây thiệt hại cho pháp nhân thì pháp nhân có
quyền khởi kiện trước toà án để bảo vệ quyền lợi của mình.a

2. Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại
diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không?

- Trong Bản án số 1117, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cơ quan đại diện
của Bộ Tài nguyên và Môi trường có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp
nhân không đầy đủ.

Câu trả lời nằm trong bản án cụ thể như sau:

“Như vậy Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí
Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện hạch
toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ
thuộc theo sự phân bổ của ngân sách Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài nguyên
và Môi trường chứ không phải là một cơ quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong
quyết định 1367 nói trên có nội dung “Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có
con dấu và có tài khoản riêng” nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải hạch toán báo
sổ nên cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy
đủ.”

3. Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ
Tài Nguyên và Môi Trường không có tư cách pháp nhân?

Tòa căn cứ theo Điều 92 Bộ Luật Dân Sự 2005:

1. Pháp nhân có thể đặt văn phòng đại diện, chi nhánh ở nơi khác với nơi đặt trụ
sở của pháp nhân.

2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện
theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó.

3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ
hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy
quyền

4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn
phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân
trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.

5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn
phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.

Tòa án xác định cơ quan đại diện của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường không có tư
cách pháp nhân vì:

Cơ quan đại diện Bộ Tài Nguyên Và Môi Trường có cơ cấu không chặt chẽ, chỉ
là bộ phận giúp Bộ trưởng theo dõi, thực hiện một số nhiệm vụ của Bộ, không có
tình độc lập và không hành động tư do mà phải hoạt động theo chỉ đạo của Bộ.
Cơ quan đại diện cũng không có sự độc lập với các cá nhân tổ chức khác (phải
phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ)

Cơ quan đại diện Bộ Tài Nguyên và Môi Trường cũng không độc lập về tài sản,
toàn bộ sự thực hiện lập dự toán, thực hiện sự toán, thu chi ngân sách đều phải
theo quy định của Nhà Nước và phân cấp của Bộ.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo tôi hướng giải quyết của tòa án là vô cùng hợp lý đảm bảo được quyền lợi
của nguyên đơn và bị đơn. Vì vẫn còn nhiều sai sót trong khâu xử án của tòa như
“Tòa án sơ thẩm thụ lý thấy nguyên đơn kiện không đúng đối tượng” và “xét để
đảm bảo cho ông Hùng nguyên đơn có quyền khởi kiện lại cho đúng đối tượng
mà không để quá nhiều thời hiệu khởi kiện vụ án nên cần hủy án sơ thẩm để tòa
án cấp sơ thẩm xét xử lại với hội đồng xét xử khác”.Vậy nên quyết định đưa ra là
“hủy bản án lao động sơ thẩm số 07/2012/LĐ-ST ngày 25/5/2012” và “xác định
lại án phí lao động sơ thẩm khi giải quyết sơ thẩm vụ án” là cách giải quyết hợp
lý.

5. Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của BLDS
2005 và BLDS 2015).

Khái niệm: - Pháp nhân: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng
của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định khác. (Khoản 1 Điều 86 BLDS 2015)

- Cá nhân: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. (Khoản 1 Điều 16 BLDS 2015)

Hiệu lực:

- Pháp nhân: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu
pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký. (Khoản 2 Điều 86 BLDS 2015)

- Cá nhân: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra.
(Khoản 3 Điều 14 BLDS 2005 và Khoản 3 Điều 16 BLDS 2015)

Thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực:

- Pháp nhân: Phát sinh từ thời điểm thành lập, nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt
động thì phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký ( khoản 2 Điều 86 BLDS
2015). Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm
dứt pháp nhân. (Khoản 2 Điều 86 BLDS 2005 và Khoản 3 Điều 86 BLDS 2015)
- Cá nhân: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết. (Khoản 3 Điều 14 BLDS 2005 và Khoản 3 Điều 16
BLDS 2015)

Hạn chế:

- Pháp nhân: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. (Khoản 1 Điều 86
BLDS 2015)

- Cá nhân: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường
hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. (Điều 18 BLDS 2015)

Năng lực dân sự liên quan đến giới tính, huyết thống:

- Pháp nhân: Không liên quan đến giới tính, huyết thống (liên quan đến tính chất
của con người)

- Cá nhân: BLDS 2005 chưa quy định về việc xác định lại giới tính, chuyển đổi
giới tính. BLDS 2015 quy định về việc xác định lại giới tính (Điều 36), chuyển
đổi giới tính (Điều 37)

Năng lực pháp luật của từng chủ thể:

- Pháp nhân: Năng lực pháp luật dân sự phụ thuộc vào từng pháp nhân ( Điều 75,
Điều 76 BLDS 2015). BLDS 2005 chưa phân loại pháp nhân

- Cá nhân: Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau ( khoản 2
Điều 16 BLDS 2015)

6. Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp
nhân có ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Pháp nhân thực hiện các hoạt động, giao dịch với các chủ thể khác thông qua
người đại diện của pháp nhân. Người đại diện của pháp nhân là người được thay
mặt và nhân danh pháp nhân xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, thông qua
quy định của pháp luật hoặc thông qua ủy quyền. Với tư cách là một chủ thể độc
lập, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự từ các giao dịch dân sự mà pháp
nhân xác lập, thực hiện. Khi người đại diện theo pháp luật thực hiện các hành vi
nhân danh pháp nhân thì hành vi của người đó đã làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của pháp nhân, đồng thời làm phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Do đó
giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có ràng
buộc pháp nhân.

Căn cứ khoản 1 điều 87 BLDS 2015: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện
nhân danh pháp nhân.

Căn cứ vào khoản 1, 3 Điều 139; khoản 1 Điều 143 BLDS 2015 cho biết các
trường hợp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đối với phần giao
dịch được thực hiện bởi người đại diên nhân danh pháp nhân

- Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp
với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.

- Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là
do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi
thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường
hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.

-Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao
dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau
đây:

+ Người được đại diện đồng ý;

+ Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

+ Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình
vượt quá phạm vi đại diện.

7. Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng
buộc Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà không có ràng
buộc với Công ty Bắc Sơn vì chi nhánh Công ty Bắc Sơn được thành lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh là một tổ chức có “tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế
độc lập”.

Như vậy, theo Điều 74 Bộ luật Dân Sự 2015 thì chi nhánh này là một pháp nhân,
có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ từ ngày thành lập (Khoản 2 Điều 86 BLDS
năm 2015 - Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp
nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát
sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký) và hoàn toàn phải chịu trách nhiệm dân sự
bằng tài sản của mình (Khoản 2 Điều 87 BLDS năm 2015 - Pháp nhân chịu trách
nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho người của
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện
không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác).

Vì thế, khi xảy ra tranh chấp thì pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự là chi nhánh
Công ty Bắc Sơn được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.

II. TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN

Tóm tắt bản án: Bản án số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 xét xử vụ việc
tranh chấp “Hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Nguyên đơn là Công ty TNHH Dịch vụ - Xây dựng – Thương mai Ngọc Bích

Bị đơn là công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại Xuyên Á, giám đốc ông
Trần Ngọc Phong.

Xét xử phúc thẩm tranh chấp về “Hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Lý do tranh chấp: Ở bản án sơ thẩm, Công ty Ngọc Bích cáo buộc Công ty
Xuyên Á không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khi mua bán hàng hóa và yêu
cầu rằng ông Phong và bà Hiền cho rằng mình là thành viên của công ty nên phải
có trách nhiệm bồi thường, thanh toán. Tuy nhiên ở phiên tòa phúc thẩm, bà Hiền
cho rằng mình là thành viên của công ty và không chịu trách nhiệm thay công ty,
và chỉ ra thiếu xót khi cấp sơ thẩm không thu thập chứng cứ là Công ty Xuyên Á
đã giải thể

Quyết định của Tòa án: Cấp phúc thẩm không thể khắc phục được những sai xót
trên nên hủy bản án sơ thẩm, và giao hồ sơ cho Tòa án huyện Tri Tôn giải quyết

1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và
trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.

Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên: ( khoản 1, 2
Điều 87 BLDS 2015)
- Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

- Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện
của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

- Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách
nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp
nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy
định khác.

- Trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân: khoản 3 Điều
87 BLDS 2015

- Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối
với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy
định khác.

2. Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty
Xuyên Á không ? Vì sao ?

Trong Bản án được bình luận, bà Hiền chính là thành viên của Công ty Xuyên Á.

Vì trong Bản án, xét thấy rằng Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại
Xuyên Á là một pháp nhân, bà Võ Thị Thanh Hiền là thành viên của pháp nhân.
Nói như vậy, bà Hiền là thành viên của Công ty Xuyên Á. (góp vốn 26,05%)

3. Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á
hay của bà Hiền ? Vì sao ?

Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm
của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.

Điều 87, BLDS 2015 (Bộ luật dân sự) quy định:

1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
quân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân
chịu trách nhiệm dân sự do sang lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập,
thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc luật có quy định khác.

2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách
nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ do người của pháp nhân
xác lập, thực hiện không thông qua pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định
khác.

3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối
với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy
định khác

Trong Bản án nêu trên, bà Hiền là thành viên của công ty TNHH Xuất nhập khẩu
Thương mại Xuyên Á bởi vì Bà Hiền sở hữu 26,05% vốn điều lệ của công ty
Xuyên Á.

Nghĩa vụ đối với công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của công ty Xuyên Á, không
phải của Hiền. Vì:

1. Ông Trần Ngọc Phong là Giám Đốc của công ty Xuyên Á, là người đại diện
theo pháp luật của công ty Xuyên Á. Còn bà Hiền chỉ là cổ đông, là thành viên
của pháp nhân.

2. Hợp đồng mua bán hàng hoá (cụ thể là mua bán gạch men) giữa công ty
Xuyên Á và công ty Ngọc Bích được xác lập với tư cách là 2 pháp nhân, do đại
diện theo pháp luật của 2 công ty ký kết. Như vậy pháp nhân mới là đối tượng
phải chịu trách nhiệm dân sự, không phải bà Hiền theo quy định tại khoản 1 và
khoản 3 điều 87 BLDS 2015. Cụ thể: Khoản 1 điều 87: “Pháp nhân phải chịu
trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ quân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự do
sang lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập,
đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định
khác.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và Tòa
cấp phúc thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.

Khi đưa ra quyết định “hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
02/2015/KDTM-ST ngày 27 tháng 10 năm 2015” và “giao hồ sơ cho tòa án nhân
dân huyện Tri Tôn giải quyết lại vụ án” thì qua đây cho thấy hướng giải quyết
của tòa án phúc thẩm là vô cùng hợp lý do thiếu thông tin và chứng cứ của vụ
kiện nên quyết định đưa ra là vô cùng hợp lý. Nhưng qua đó cho thấy cách giải
quyết và làm việc của tòa sơ thẩm vẫn còn nhiều lỗ hổng cần khắc phục như:

Thứ nhất, chưa tìm hiểu rõ “chứng cứ xác định lý do giải thể của công ty Xuyên
Á, tài sản của công ty khi giải thể và nghĩa vụ về tài sản của công ty”

Thứ hai, sự mâu thuẫn giữa các văn bản như “văn bản tố tụng khi xác định bà
Hiền với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và quyết định vụ án ra
xét xử ngày 15/9/2015” và “bản án số 02/2015/KDTM-ST ngày 27/10/2015 xác
định bà hiền với tư cách kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng” còn phiên bản cùng
ngày 27/10/2015 ghi “bà hiền với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan”

5. Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty
Xuyên Á đã bị giải thể ?

Căn cứ theo khoản 2 Điều 201 Luật doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp chỉ
được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ
quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d
khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh
nghiệp.” và điểm d khoản 1 Điều này cũng quy định “Bị thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp.” Mặt khác, căn cứ theo khoản 2 Điều 93 BLDS năm
2015:“Trước khi giải thể, pháp nhân phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài
sản” và theo khoản 1 Điều 94 BLDS năm 2015 quy định: “Tài sản của pháp nhân
bị giải thể được thanh toán theo thứ tự sau đây:

a) Chi phí giải thể pháp nhân

b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với
người lao động theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao
động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;

c) Nợ thuế và các khoản nợ khác”. Căn cứ theo các quy định của pháp luật trên
thì Công ty Xuyên Á có nghĩa vụ phải đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ cho
Công ty Ngọc Bích trước khi công ty giải thể.

********END*********
BÀI THẢO LUẬN 2: GIAO DỊCH DÂN SỰ

*****************

I. NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CHỦ THỂ TRONG XÁC
LẬP GIAO DỊCH

Tóm tắt bản án: Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long
Nguyên đơn ông T và bà H

Bị đơn là bà Đ

Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Nội dung: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn là bà Đ phải giao trả toàn bộ tài
sản cho nguyên đơn tổng giá trị khoảng 500.000.000 đồng. Phía nguyên đơn có
mua phần đất của bị đơn 2 lần, đồng thời bị đơn chỉ đứng tên giúp đến khi nào
nguyên đơn về Việt Nam sẽ trả nhà và đất, nhưng sau đó đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn phải trả lại cho
nguyên đơn giá trị nhà và đất là 550.000.000 đồng.

Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã ra quyết định vô hiệu giấy cho nền thổ cư
ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004 và giấy cam kết ngày
16/3/2011 màcác bên đã xác lập do vi phạm điều cấm của pháp luật; buộc bà L K
Đ phải hoàn trả cho ông J Ph (Ph J T) và bà A Th Ph (L Th H) số tiền
350.000.000 đồng.

1. So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.

Đặc điểm BLDS 2005 (Điều 122) BLDS 2015 (Điều 117)
Chủ thể Người tham gia giao dịch có năng Chủ thể có năng lực pháp luật
lực hành vi dân sự dân sự, năng lực hành vi dân sự
phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập
Giao dịch Người xác lập thực hiện hành vi Chủ thể muốn xác lập giao dịch
dân sự có giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự phải có 2 yếu tố: năng
hiệu lực dân sự (Điểm a Khoản 1 Điều lực hành vi dân sự và năng lực
122) pháp luật dân sự phù hợp với
quy định cụ thể
Thuật Người tham gia giao dịch Chủ thể
ngữ
Hình- Có hiệu lực của giao dịch trong Có hiệu lực của giao dịch trong
thức giao trường hợp pháp luật có quy định trường hợp luật có quy định
dịch dân
sự

 BLDS 2015 quy định rõ hơn về điều kiền và năng lực chủ thể so với BLDS
2005
 Đề cao ý chí của người xác lập giao dịch dân sự với nội dung và mục đích,
thể hiện tính logic của hành vi dân sự.

Suy nghĩ về sự thay đổi trên: Ở BLDS 2005 quy định về nội dung còn chung
chung, không cụ thể về chủ thể tham gia giao dịch dân sự chỉ là cá nhân. BLDS
2015 về mặt nội dung có tính cụ thể, logic, chủ thể tham gia giao dịch dân sự
được mở rộng khuyến khích các pháp nhân tham gia giao dịch dân sự. Các nhà
làm luật rất có tầm nhìn khi thu hẹp phạm vi điều cấm của “pháp luật” bằng từ
“luật” nhằm tránh các quy định của văn bản dưới luật từ đó nhấn mạnh tầm quan
trọng và hiệu của luật so với các văn bản dưới luật.

2. Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền sở
hữu nhà ở tại Việt Nam?
- Theo bản án, đoạn cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà đất tại
Việt Nam: Ông T và bà H là người Việt Nam đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy
định Luật đất đai năm 2003 và điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt
Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các
điều kiện sau: “Người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam,
người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hóa, nhà khoa học có
nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây
dựng đất nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng
khác được Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định sở hữu nhà ở tại Việt Nam”.
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về
Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ 6 tháng trở lên được sở hữu một nhà ở
riêng lẻ hoặc một căn hộ” do đó ông T và bà H không có được sở hữu quyền sử
dụng đất nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam.

3. Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ
đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?

- Đoạn của bản án số: 32/2018/DS-ST cho thấy giao dịch của ông T và bà H với
bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu là:‘‘do đó ông T và bà H không được sở hữu
quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các
giao dịch giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày
02/6/2004, giấy cam kết ngày 16/3/2011 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật và do không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129
của Bộ luật dân sự và căn cứ theo Điều 131 của Bộ luật dân sự thì các đương sự
phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.’’

4. Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ
thể) về căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?

- Theo em, Tòa tuyên bố giao dịch dân sự trên vô hiệu là hoàn toàn hợp lý, thuyết
phục và đúng với pháp luật vì;

Theo Điều 116 BLDS 2015 quy định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự. Từ quy định tại điều luật này có thể xác định: kết quả của việc xác lập giao
dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý
(hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm
phát sinh hậu quả pháp lý. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.

- Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định,
cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao
dịch, với những mục đích và động cơ nhất định. Do vậy, giao dịch dân sự vô hiệu
khi không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 BLDS 2015, cụ thể:

+ Thứ nhất: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

+ Thứ hai: Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
+ Thứ ba: Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.

+ Thứ tư: Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có quy định.

+ Thứ năm: Các trường hợp khác do Bộ luật này quy định.

- Trong khi đó, tại khoản 2 Điều 17 BLDS 2015 quy định về nội dung năng lực
dân sự của cá nhân như sau:

1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.

2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.

3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.

- Mà theo Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long: Tại phần Nhận định của Tòa án, mục 2 cho biết “ ... ông Ph J T và
bà L Th H là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy
định Luật đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt
Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các
điều kiện sau: “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt
Nam, người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa
học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp
xây dựng đất nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối
tượng khác do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam”. “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã
về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một
nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền
sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam...”.

- Tòa dựa trên cơ sở là do vi phạm điều cấm của pháp luật là người nước ngoài
không được sở hữu đất. Nhưng thực tế thì pháp luật đất đai, pháp luật nhà ở chỉ
quy định những trường hợp người nước ngoài được sở hữu nhà ở Việt Nam.

→ Tòa căn cứ vào điều này thì không hợp lí. Nếu chứng minh GDDS này vô
hiệu do không đáp ứng điều kiện hình thức về năng lực chủ thể, cụ thể là năng
lực pháp luật dân sự đối với người nước ngoài.-

- Buộc bà L K Đ hoàn trả cho ông J Ph (Ph J T) và bà A Th Ph (L Th H) số tiền


350.000.000 đồng.”
Cách 2: Giao dịch dân sự của ông T và bà H với bà Đ đã vi phạm điều cấm của
luật. Cụ thể, tại thời điểm lập giấy cho nền thổ cư ngày 31/05/2004, giấy nhường
đất thổ cư ngày 02/06/2004, bà Đ đã không tuân thủ theo quy định của pháp luật,
không công chứng, chứng thực đầy đủ theo quy định tại Điều 127 Luật Đất đai
năm 2003 và Điều 117 BLDS 2005 nên không phát sinh hiệu lực hợp đồng.

Ông T và bà H là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và đã nhập quốc tịch
Mỹ, không thuộc các đối tượng được quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất tại Việt Nam theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và Điều 121
Luật Nhà ở năm 2005 nên không được mua nhà ở Việt Nam.

=> Như vậy, Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự giữa ông T và bà H với bà Đ vô
hiệu là có cơ sở, công bằng và khách quan

I. GIAO DỊCH XÁC LẬP BỞI NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG


NHẬN THỨC.

Tóm tắt án: Quyết định số 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: chị Đặng Thị Kim Ánh

Bị đơn: Bà Phạm Thị Hương

- Tranh chấp: quyền hợp đồng mua bán nhà ở gắn với quyền sử dụng đất.

- Lý do: ngày 08/02/2010, bà Hương làm giao dịch mua bán nhà với vợ chồng
ông Hùng mà không hỏi ý kiến của các con, chỉ nói cho ông Đặng Văn Bình biết.
Giao dịch mua bán được thực hiện trước khi ông Hội chết, nhưng con gái là bà
Kim Ánh không đồng ý vì cho rằng ông Hội lúc đó đã mất năng lực hành vi dân
sự nên cho rằng hợp đồng không hợp lệ, ảnh hưởng đến quyền lợi của những
người thừa kế.

- Quyết định của các cấp xét xử:

Tòa án cấp sơ thẩm: TAND thành phối Tuy Hòa quyết định.

• Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hội, bà Hương
với vợ chồng ông Hùng vì vô hiệu hình thức.
• Buộc bà Hương trả lại cho vợ chồng ông Hùng số tiền 311.000.000 đồng, vợ
chồng ông Hùng trả lại cho bà Hương giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tòa án cấp phúc thẩm: TAND tỉnh Phú Yên quyết định công nhận hợp đồng mua
bán nhà gắn liền với quyền sử dụng đất giữa ông Hội, bà Hương và vợ chồng ông
Hùng.

Quyết định giám đốc thẩm: TAND tối cao quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm
và bản án dân sự phúc thẩm.

1. Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và
từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự?

- Năm 2007, ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức được vì ông bị tai
biến nằm liệt một chỗ từ cuối năm 2008 hàng tháng gia đình phải góp tiền lo
thuốc men cho ông. Vào ngày 10/8/2010 ông hội bị Toà án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự. Tuy nhiên sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Tuy
Hòa quyết định tuyên bố ông Đặng Hữu Hội mất năng lực hành vi dân sự kể từ
ngày 07/5/2010.

2. Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau
khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?

Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước khi ông Hội bị
tuyên mất năng lực hành vi dân sự.
Vì năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được nhưng
vẫn chưa được Tòa tuyên án. Ngày 8/2/2010, ông Hội (với vợ là bà Hương) xác
lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Hùng và bà Trinh. Đến
ngày 7/5/2010, ông Hội mới bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự.

3. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?

Tòa án nhân dân tối cao chưa xác định phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
hay không. Vì theo phần xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số
329/2013/DS-GĐTngày 25/7/2013, Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: Bản án sơ
thẩm quyết định hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập
ngày 8/02/2010 giữa vợ chồng ông Đặng Hữu Hội, bà Phạm Thị Hương với vợ
chồng ông Lưu Hoàng Phi Hùng, bà Bùi Thị Tú Trinh, và Bản án phúc thẩm
quyết định công nhận toàn bộ hợp đồng mua bán nhà gắn liền quyền sử dụng đất
ở lập ngày 8/02/2010 giữa vợ chồng ông Đặng Hữu Hội (chết), bà Phạm Thị
Hương và vợ chồng ông Lưu Hoàng Phi Hùng, bà Bùi Thị Tú Trinh đều là không
đúng. Nên Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy cả 2 bản án này để sơ thẩm
lại.

Nhưng xét trên thực tế, phần giao dịch của ông Hội bị vô hiệu. Vì trên thực tế,
lúc thực hiện giao dịch dân sự ông Hội đã bị bệnh nằm liệt giường 3 năm, khi
điểm chỉ ông Hội không thể tự mình thực hiện mà phải có một người khác điểm
chỉ dưới sự chứng kiến của cán bộ. Như vậy, ông Hội đã không tự nguyện thực
hiện giao dịch này. Theo Điểm c Khoản 1 Điều 122 BLDS 2005, Điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự là người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện và
Điều 127 BLDS 2005: "Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được
quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu" thì phần giao dịch của ông
Hội bị vô hiệu.

4. Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc
mà anh chị biết.

- Trong thực tiễn xét xử, có 1 vụ việc giống với hoàn cảnh ông Hội đó là Bản án
số 01/2006/DSST ngày 21/02/2006, Tòa án Nhân dân huyện Văn Chấn tỉnh Yên
Bái.

Hướng giải quyết của Tòa án: Tuyên bố hợp đồng giữa ông Cường, bà Bính với
anh Thăng vô hiệu. Xử hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Cường và bà Bính với anh Thăng. Buộc anh Thăng phải trả lại 288m2 đất
thổ cư cho ông Cường và người giám hộ của ông Cường là anh Hưng quản lý, sử
dụng. Xử buộc anh Hưng phải thanh toán cho anh Thăng số tiền là 20.049.000
đồng. Buộc bà Bính phải thanh toán cho anh Thăng số tiền là 15.850.000 đồng.

Tóm tắt bản án: Ông Cường là người sử dụng không có quyền định đoạt diện tích
288m2 đất (do mẹ ông để lại nhưng việc chia di sản chưa được thực hiện). Ngày
20/01/2004, ông Cường và bà Bính (vợ ông Cường) ký giấy chuyển nhượng cho
anh Thăng (con riêng của bà Bính) diện tích đất trên. Ngày 13/6/2005, Tòa án
huyện xử bà Bính ly hôn với ông Cường. Sau đó, anh Hưng (con riêng ông
Cường) đón ông Cường về nuôi dưỡng và phát hiện ông Cường có biểu hiện của
người bị tâm thần nên đã yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tại biên
bản giám định pháp y tâm thần số147/GĐPY ngày 15/12/2005 của tổ chức giám
định pháp y tâm thần tỉnh đã kết luận: ông Cường bị mắc “loạn thần do sử dụng
rượu”. Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004 với biểu hiện của căn bệnh
là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều khiển
hành vi của mình. Từ đó Tòa án xác định “ông Cường được coi là người mất
hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày
01/01/2004”. Do vậy Tòa đã tuyên bố hợp đồng giữa ông Cường, bà Bính với
anh Thăng vô hiệu.

5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ
sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.

Toà án đưa ra quyết định: Huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm
số 35/2012/DSPT ngày 10/07/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án
dân sự sơ thẩm số 98/2011/DSST ngày 22/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuy
Hoà, tỉnh Phú Yên. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Tuy Hòa,
tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên là hợp
lý vì nếu sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật thì hướng giải quyết sẽ là tuyên
bố giao dịch của ông Hội vô hiệu. Theo Điểm a Khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân
sự năm 2005, giao dịch dân sự có hiệu lực khi “Người tham gia giao dịch có
năng lực hành vi dân sự”. Tuy nhiên, vào thời điểm thực hiện giao dịch, ông Hội
đã bị tai biến nằm liệt giường 3 năm, có thể thời điểm đó đã không còn nhận thức
được. Mặt khác, dù thời điểm đó ông Hội còn nhận thức được nhưng cũng không
thể tự thực hiện giao dịch vì bệnh liệt giường mà người đã thực hiện giao dịch là
vợ ông, do đó theo Điểm c Khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 “Người
tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”, ông Hội không tự nguyện thực hiện
giao dịch này, vì vậy, giao dịch dân sự này cũng không có hiệu lực. Nhìn chung,
Tòa án Nhân dân Tối cao dựa trên Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 để đưa ra
quyết định vô hiệu giao dịch dân sự do ông Hội xác lập là hợp lý, đảm bảo quyền
lợi cho ông Hội.

6. Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch
đó có bị vô hiệu không? Vì sao?
Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó
không bị vô hiệu. Theo Điểm a Khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì
giao dịch sẽ có hiệu lực pháp lý khi “Người tham gia giao dịch có năng lực hành
vi dân sự” và Điểm a Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch
sẽ có hiệu lực pháp lý khi “chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành
vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”, cụ thể, nếu chỉ nhận quyền
sử dụng đất thì ông Hội vẫn đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự để xác lập giao dịch.Vì không phải tất cả giao dịch dân sự đều có mục
đích, nội dung giống nhau và yêu cầu về mức độ năng lực hành vi dân sự của các
chủ thể trong giao dịch dân sự phụ thuộc vào từng giao dịch cụ thể.

Mặt khác, Khoản 2 Điều 125 BLDS 2015, giao dịch dân sự của người mất năng
lực hành vi dân sự sẽ không bị vô hiệu trong trường hợp giao dịch chỉ làm phát
sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người mất năng lực hành vi dân sự
với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ. Trên cơ sở đó, giao dịch tặng
cho ông Hội chỉ làm phát sinh thêm quyền sử dụng đất của ông nên giao dịch đó
sẽ không bị vô hiệu.

Khoản 2 Điều 125 BLDS 2015: Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện:

“2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu
trongtrường hợp sau đây:a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người
mất năng lực hành vi dân sựnhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của
người đó;b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ
cho ngườichưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhậnthức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
với người đã xác lập,thực hiện giao dịch với họ;c) Giao dịch dân sự được người
xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thànhniên hoặc sau khi khôi phục
năng lực hành vi dân sự.”

Cách 2: Giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó
không bị vô hiệu. Vì theo Khoản 2 Điều 125 của Bộ luật dân sự 2015, giao dịch
dân sự của người quy định tại điểm b, khoản 1 điều này không bị vô hiệu trong
trường hợp sau “ giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ
nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ”, vì thế giao dịch tặng
cho ông Hội chỉ làm phát sinh quyền của ông Hội nên giao dịch dân sự này
không bị vô hiệu.

II. Giao dịch xác lập do có lừa dối

⁕ Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm 521/2010/DS-GĐT ngày 19/8/2010 của Tòa
án dân sự Tòa án nhân dân tối cao
Nguyên đơn : ông Nguyễn Danh Đô, bà Phạm Thị Thu

Bị đơn: bà Trần Thị Phố, anh Nguyễn Thế Vinh (con trai bà Phố)

Loại tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà.

Lý do tranh chấp: Ông Nguyễn Danh Đô và bà Phạm Thị Thu bán căn nhà với
giá 330 lượng vàng. Tuy nhiên, người mua (bà Phố) chỉ mới trả 220 lượng và còn
100 lượng chưa trả. Bên cạnh đó, anh Vinh con trai bà Phố tự ý thỏa thuận với vợ
chồng bà Thu, nhượng cho vợ chồng bà quyền sử dụng đất và quyền sử dụng nhà
ở một nơi khác và bà Phố sẽ không phải trả 100 lượng vàng còn lại nhưng vùng
đất và nhà trên thỏa thuận giữa anh Vinh và vợ chồng bà Thu không có giá trị sử
dụng, có dấu hiệu lừa dối.

Quyết định của Tòa án: Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày
29/07/2008 Của TAND thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số
15/2018/DS-ST ngày 10-14/01/2008 của TAND quận Gò Vấp về vụ “Tranh chấp
hợp đồng mua bán nhà”.

Tóm tắt Quyết định số 210/2013/DS-GĐT

Nguyên đơn: Châu Thị Nhất.

Bị đơn: Nguyễn Văn Dưỡng.

Loại tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Lý do tranh chấp: Khi bà Nhất đang lao động ở nước ngoài thì ông Dưỡng đã
đứng tên bà Nhất mà không có ủy quyền của bà Nhất để lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông Tài.
* Quyết định của các cấp xét xử:

-Tòa án cấp sơ thẩm: TAND huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Châu Thị Nhất do ông Nguyễn Văn
Dưỡng ký thay với ông Võ Minh Tài không có hiệu lực pháp luật.

-Tòa án cấp phúc thẩm: TAND tỉnh Kiên Giang tuyên bố.

•Bác đơn khởi kiện của bà Châu Thị Nhất về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Văn Dưỡng ký thay với ông Võ Minh
Tài.

•Công nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Minh Tài.

-Quyết định giám đốc thẩm: Huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm bản án dân sự
sơ về vụ án “Trang chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa
nguyên đơn là bà Châu Thị Nhất và bị đơn là ông Nguyễn Văn Dưỡng và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

1. Cho biết điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa
dối theo BLDS 2005 và BLDS 2015 .

- Theo Điều 132 của Bộ luật Dân sự 2005 và theo Điều 127 của Bộ luật Dân sự
2015 và ở Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 đều
quy định rằng: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe
dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.”

- Lừa dối là một hành vi. Hành vi đó có thể là hành động hoặc không hành động.
Và lừa dối là một hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba. Mục đích
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về bản chất của giao dịch dân sự đã xác lập.

- Vậy điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo Bộ
luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 là phải có sự cố ý tác động của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất
hoặc nội dung của giao dịch dân sự đã giao dịch. Chỉ khi có sự tác động làm cho
một bên hiểu sau lệch về giao dịch thì mới được coi là điều kiện để có thể tuyên
bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ
luật Dân sự 2015. Nếu như hiểu đúng về giao dịch nhưng vẫn đồng ý xác lập thì
giao dịch sẽ không bị tuyên bố vô hiệu.
2. Cho biết đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán
nhượng đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối?

- Đoạn cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã tuyên bố vô hiệu hóa do lừa dối:
"Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vinh - họ
hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà,
đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có Quyết định thu hồi, giải toả, đền bù
(căn nhà đã có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ năm 1998 nên không
được bồi thường giá trị căn nhà, còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để
mua tái định cư theo Quyết định 135/QĐ-UB ngày 21-11-2002) là có sự gian dối.
Mặt khác, tại bản "Thỏa thuận hoán nhượng" không có chữ ký của ông Đô
(chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận
Gò Vấp do bà Phố (mẹ của anh Vinh). Do vậy, giao dịch "Thỏa thuận hoán
nhượng" giữa anh Vinh và bà Phố vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132 BLDS để
giải quyết.”

3. Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
tiền lệ anh/chị biết.

Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ. Đó là quyết định số 30/2003/HĐTP-DS ngày
3/11/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án tranh chấp
chuyển quyền sử dụng đất:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH công nghiệp may thêu thời trang Trang Anh Vĩnh
do ông Lê Quang Nghĩa, Giám đốc, ủy quyền cho ông Dương Đức Trung là Phó
giám đốc đại diện.

- Bị đơn: Công ty TNHH Thủy tinh Vĩnh Ký do ông Dương Mạnh, Giám đốc đại
diện.

- Nội dung: Năm 2001, Công ty Vĩnh Ký ký hợp đồng chuyển nhượng do Công
ty Trang Anh Vĩnh 42.175m2, trong đó có 10.000m2 đất trên không còn sử dụng
được vào mục đích xây dựng nhà máy, nhưng khi ký hợp đồng đã gian dối không
thông báo rõ tình trạng đất cho Công ty Trang Anh Vĩnh. Đồng thời, công ty
Vĩnh Ký cũng vi phạm thỏa thuận phạt cọc trong hợp đồng chuyển nhượng giữa
2 bên.

- Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Công ty Vĩnh Kỳ
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Công ty Trang Anh Vĩnh do không
trả lại tiền cọc đúng hạn và hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ
thẩm.

4. Hướng giải quyết trên còn phù hợp với BLDS 2015 nữa không ? Vì
sao?

- Hướng giải quyết trên còn phù hợp với BLDS 2015.

- Vì theo điều 127 BLDS 2015: Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép.

- Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép
thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

- Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của một người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

- Do giao dịch mua bán nhà đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Danh Đô và bà
Phạm Thị Thu và bà Trần Thị Phố, anh Nguyễn Thế Vinh có dấu hiệu gian dối
trong giao dịch nên quyết định giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh và bản án phúc thẩm của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “ Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà”
và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

5. Trong quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu

- Trong quyết định số 210, theo Tòa án bà Châu Thị Nhất không có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu bởi lẽ theo quy định BLDS
2005 và BLDS 1995, bà Nhất không phải là một bên tham gia giao dịch với ông
Tài nên bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do lừa dối. Trong trường hợp này chỉ có ông
Tài mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu do bị
lừa dối, nếu ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà Nhất khi
tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

- Đồng thời về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: theo
khoản 1 điều 136 BLDS 2005: thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu được quy định giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối đe dọa là hai năm,
kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập

- Vì thời hiệu khởi kiện của bà Nhất đã hết hiệu lực vì quá 2 năm nên bà Nhất
không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu được.

6. Trong quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?

- Trong quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối không còn bởi lẽ năm 2007 vợ chồng bà Nhất ly hôn bà
mới biết ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Thi,
nhưng đến 10/12/2010 bà Nhất mới khởi kiện.

- Theo khoản 1 điều 136 BLDS 2005 quy định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự này được xác
lập

- Điều 159 bộ luật tố tụng dân sự quy định trong trường hợp pháp luật không có
quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm,
kể từ ngày người có quyền khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm.

7. Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
- Tại thời điểm bà Nhất khởi kiện là 2010 nên theo như BLDS 2005.
- Cơ sở pháp lý: Điều 132.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa:
+ Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

→ Chỉ đề cập đến việc có hay không có quyền yêu cầu, không đề cập đến việc
Tòa án có công nhận hay không. Nghĩa là, nếu hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố thì giao dịch dân sự đó vẫn có thể được công nhận.

8. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các qui
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số
210?
Giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó không bị
vô hiệu. Vì theo Khoản 2 Điều 125 của Bộ luật dân sự 2015, giao dịch dân sự của
người quy định tại điểm b, khoản 1 điều này không bị vô hiệu trong trường hợp
sau “ giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với
người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ”, vì thế giao dịch tặng cho ông Hội
chỉ làm phát sinh quyền của ông Hội nên giao dịch dân sự này không bị vô hiệu.

III. HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GDT ngày 13/08/2013
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Orange Engineering

Bị đơn: Công ty cổ phần phát triển Phú Mỹ

Loại tranh chấp: Tranh chấp về hợp đồng dân sự.

Lý do Tranh chấp: Công ty Orange được công ty Phú Mỹ chỉ định làm nhà thầu
cung cấp dịch vụ thiết kế cho một dự án theo hợp đồng dịch vụ và đã bàn giao
cho Công ty Phú Mỹ CD và bộ bản vẽ chi tiết đúng như đã cam kết.

Tuy nhiên, Công ty Phú Mỹ không thanh toán chi phí lần thứ ba nên Công ty
Orange khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng và buộc Công ty Phú Mỹ thanh
toán phần tiền còn lại cùng tiền lãi suất chậm thanh toán.

Quyết định của các cấp xét xử:

-Tòa án cấp sơ thẩm: TAND tỉnh Bình Dương tuyên bố chấm dứt hợp đồng dịch
vụ giữa hai bên, buộc Công ty Phú Mỹ thanh toán số tiền 3.720.448.347 đồng
cho Công ty Orange.

-Tòa án cấp phúc thẩm: TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố giữ
nguyên bản án sơ thẩm.

-Quyết định giám đốc thẩm: Hội đồng Thẩm phán tuyên bố hủy bản án phúc
thẩm và bản án sơ thẩm.
1. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Khoản 1 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Giao dịch dân sự vô
hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các
bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”. Như vậy, giao dịch dân sự khi đã
bị tuyên bố là vô hiệu thì sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên.

2. Trên cơ sở BLDS, khi xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú
Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương đương với
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?

- Trên cơ sở BLDS thì khi hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ phải
thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương đương với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện vì căn cứ vào khoản 2 Điểu 131 BLDS
2015 “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”. Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ
án thì Công ty Orange đã bàn giao cho Công ty Phú Mỹ CD cùng bộ bản vẽ chi
tiết của dự án, dù không lập thành văn bản nhưng hai bên đương sự đã trình bày
thống nhất với nhau, Công ty Phú Mỹ phải thanh toán phần sản phẩm Công ty
Orange đã hoàn thành theo thỏa thuận trong hợp đồng, nếu không hoàn trả bằng
hiện vật như CD và bản vẽ chi tiết thì trong trường hợp này Công ty Phú Mỹ phải
thanh toán bằng trị giá tiền cho những gì Công ty Orange đã thực hiện.

3. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?

- Hội đồng thẩm phán cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
chưa thu thập đầy đủ tài liệu và chưa làm rõ các vấn đề về khối lượng công việc
mà công ty Orange đã thực hiện. Cụ thể, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm không làm rõ Công ty Orange đã bàn giao sản phẩm thiết kế vào ngày nào;
sản phẩm thiết kế được bàn giao gồm những gì và nội dung, khối lượng công
việc được Công ty Orange thực hiện có đúng như thỏa thuận không. Công ty
Orange tiếp tục bàn giao các bản thiết kế sau khi hoàn chỉnh theo yêu cầu của
Công ty Phú Mỹ vào tháng 11/2017 và tháng 01/2008 như trình bày của Công ty
Phú Mỹ hay không. Bởi lẽ đó, Tòa án nhân dân tối cao giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại, làm rõ các vấn đề trên bằng
cách yêu cầu các bên đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cũng như
sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác để làm rõ các vấn đề trên.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán
liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi
xác định hợp đồng vô hiệu.

- Vì sai sót của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm nên chứng cứ và tài liệu về khối lượng
công việc của công ty Orange là chưa được xác nhận nên hướng giải quyết của
Hội đồng thẩm phán khi hợp đồng vô hiệu là hợp lý. Bởi lẽ sau khi giải quyết lại
vụ án để có đủ cơ sở giải quyết chính xác thì theo khoản 2 Điều 131 BLDS năm
2015, khi giao dịch dân sự vô hiệu, công ty Phú Mỹ phải hoàn trả lại cho công ty
Orange giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực
hiện vì dù không lập thành văn bản nhưng hai bên đương sự đã trình bày thống
nhất với nhau về sản phẩm.

5. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch
vụ không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp
đồng dịch vụ vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này
như thế nào?

- Nếu hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh
toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng với khối lượng
công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng
tiền lai xuất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.

- Điểm khác với trường hợp vô hiệu:

Hợp đồng vô hiệu Hợp đồng hợp pháp

Buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán Buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán
cho Công ty Orange phần giá trị tương cho Công ty Orange phần giá trị tương
ứng với khối lượng công việc mà Công ứng với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận
tại hợp đồng. tại hợp đồng cùng tiền lai xuất do chậm
thanh toán theo quy định của pháp luật.
- Việc xem hợp đồng là hợp pháp thì việc chi trả lãi chậm là nhằm thực hiện
nghĩa vụ đã cam kết tại hợp đồng và chịu chế tài áp dụng cho việc không thực
hiện nghĩa vụ đưa ra đúng với thời gian đã cam kết.

Suy nghĩ về chủ đề trên: Theo bản án trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm chưa làm rõ các vấn đề và chưa thu thập đủ tài liệu về tính hợp pháp
của hợp đồng mà đã ra quyết định là không đúng. Từ vấn đề trên cho thấy, khi
xét giải quyết các vụ án, Tòa án phải yêu cầu đương sự cung cấp đủ các tài liệu
và bằng chứng để chứng minh cũng như sử dụng các biện pháp để làm rõ các vấn
đề về vụ án, tránh dẫn tới sai lầm.

Tóm tắt bản án: Quyết định số 75/2012/DS-GĐT ngày 23/02/2012 của Tòa dân
sự Tòa án nhândân tối cao:
Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Sanh có mối quan hệ cậu cháu
Bị đơn là vợ chồng anh N.V.Dư và chị D.T Chúc ( người có quyền nghĩa vụ liên
quan).
Loại tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 25/10/2006, ông Sanh nhận quyền sử dụng đất 100m2
của vợ chồng anh Dư và trả 160.000.000đ. Sau đó, anh Dư không chấp nhận hợp
đồng đề nghị ông Sanh trả đất.
Quyết định của các cấp xét xử:
-Tòa án cấp sơ thẩm: TAND huyện Yên Lạc quyết định.
•Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Sanh với anh
Dư, chị Chúc lập ngày 25/10/2006 là hợp pháp.
•Giao cho ông Sanh quyền sử dụng thửa đất có diện tích 100m2.
-Tòa án cấp phúc thẩm: TAND tỉnh Vĩnh phúc quyết định.
•Giao dịch dân sự ngày 25/10/2006 giữa anh Dư, chị Chúc với ông Sanh về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu.
•Buộc ông Sanh trả lại cho anh Dư, chị Chúc quyền sử dụng đất.
•Buộc anh Dư, chị Chúc trả cho ông Sanh số tiền đã nhận là 160.000.000 đồng,
bồi thường thiệt hại do lỗi là 330.255.000 đồng.
-Quyết định giám đốc thẩm: TAND tối cao hủy bản án dân sự sơ thẩm và bản án
dân sự phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm lại vì lỗi do vi phạm hình thức của vợ chồng
anh Dư.

6. Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu?
Trong Quyết định số 75, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng
vô hiệu vì ngày 27/08/2009 nguyên đơn (ông Nguyễn Văn Sanh) đưa đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa Án nhân dân huyện Yên Lạc giải quyết tranh chấp hợp đồng.
Ngày 18/10/2010 Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc đã có Quyết định số 01/TA gia
hạn để các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng nhưng anh Dư, chị
Chúc vẫn không thực hiện. Việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của vợ chồng anh Dư, chị Chúc cho ông Sanh là hoàn toàn tự nguyện, không bị
ép buộc và đã có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã. Vợ chồng anh Dư đã nhận số
tiền là 160.000.000 đồng và đã giao giấy chứng nhận sử dụng đất nên không thể
coi là không tự nguyện được do đó hợp đồng không vi phạm về nội dung, chỉ vi
phạm về hình thức. Vì vậy, Toà án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng trên vô hiệu
do vợ chồng anh Dư và chị Chúc không chịu hợp tác để hoàn thiện các thủ tục về
hình thức của hợp đồng.

7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu trong Quyết định trên.

- Việc xác định hợp đồng vô hiệu của TAND tối cao là hoàn toàn hợp lí vì theo
bản án, TAND huyện Yên Lạc đã ra quyết định số 01/TA gia hạn để các bên thực
hiện quy định về hình thức nhưng vợ chông anh Dư chị Chúc cũng không thực
hiện. Vì vậy quyết định của TAND tối cao xác định hợp đồng vô hiệu là hoàn
toàn hợp lí với quy định tại điều 129 BLDS 2015.

8. Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh
sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

- Theo quyết định số 75, hợp đồng vô hiệu là do lỗi của vợ chồng anh Dư chị
Chúc không hợp tác để hoàn thành hợp đồng chứ không phải lỗi của ông Sanh.
Cũng trong bản án, căn cứ vào biên bản định giá tài sản thì giá trị diện tích đất
chuyển nhượng là 1.000.000.000đ, giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là
195.000.000đ, ông Sanh đã thanh toán được 160.000.000đ, tương đương
82,051% giá trị hợp đồng. Do đó, anh Dư chị Chúc sẽ phải chịu bồi tường toàn
bộ thiệt hại cho ông Sanh, tương đương với phần trị giá hợp đồng đã thanh toán.
Căn cứ khoản 2 và khoản 4 điều 131 BLDS 2015, bao gồm:

 Số tiền ông Dư đã chuyển nhượng: 160.000.000đ


 Tiền bồi thường thiệt hại là 660.510.000đ (trong bản án phiên tòa phúc
thẩm là 330.255.000đ vì bắt ông Dư phải chịu 50% thiệt hại là không
đúng).
 Thanh toán giá trị công trình xây dựng trên đất là 81.500.000đ
Tổng cộng: 902.010.000đ

Cách 2

Theo Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005 thì: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn
trả”. Thực tế, ông Sanh đã đưa cho vợ chồng anh Dư, chị Chúc số
tiền chuyển nhượng là 160.000.000 đồng nên ông sẽ được nhận lại khoản tiền
này. Hơn nữa, tại Khoản 4 Điều 131 BLDS 2015 thì: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì
phải bồi thường”, cụ thể ở đây là anh Dư, chị Chúc. Do không tuân thủ các quy
định điều kiện có hiệu lực về hình thức nên vợ chồng anh phải bồi thường cho
ông Sanh thiệt hại do lỗi gây ra là 330.255.000 đồng và thanh toán giá trị công
trình xây dựng trên đất là 81.500.000 đồng. Như vậy, tổng cộng ông Sanh nhận
được số tiền là 571.755.000 đồng

Bản án số 113/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội.
- Nguyên đơn: ông Bùi Tiến Văn (sinh năm 1931), bà Nguyễn Thị Tằm (sinh
năm 1937)

- Bị đơn: anh Bùi Tiến Dậu (sinh năm 1972), anh Bùi Tiến Bình (sinh năm 1977)

Loại tranh chấp: Tranh chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất.

Lý do tranh chấp: Anh Dậu lừa dối ông Văn kí vào các hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đất và lập hợp đồng tặng cho anh Dậu, anh Bình, anh Sinh. Sau đó ông
Văn bà Tằm phát hiện, khởi kiện hủy ba hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.

Quyết định của Tòa án:

-Tòa án cấp sơ thẩm: TAND tỉnh Thanh Hóa quyết định vô hiệu 3 hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

-Tòa án cấp phúc thẩm: TAND cấp cao tại Hà Nội quyết định giữ nguyên bản án
sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của anh Dậu.
9. Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng
nhận cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ
với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?

- Trong bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng nhận
cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có
thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là hệ quả
của giao dịch dân sự vô hiệu.

- Năm 2008, Anh Dậu (con ông Văn, bà Tằm) lừa ông bà để lập hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất. Do tin tưởng con nên ông Văn đã ký, đồng thời, ký thay cho
bà Tằm vào hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, sau khi lấy được giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, anh Dậu đã thành lập 3 hợp đồng và tách giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thành 3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
của 3 anh em. Bà Tằm không đồng ý chia đất cho các con nên bà không ký vào
các hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông
Văn và bà Tằm với anh Dậu cũng có yếu tố lừa dối, ông Văn không biết hợp
đồng mình kí với anh Dậu là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do tin
lời con trai nói rằng đó là hợp đồng vay ngân hàng. Phát hiện lừa dối, ông Văn,
bà Tằm đã khởi kiện yêu cầu hủy 3 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, buộc trả lại cho ông bà toàn bộ mảnh đất.

- Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 131 thì giao dịch dân sự vô hiệu
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể
từ thời điểm giao dịch được xác lập; khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Như vậy, hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Văn, bà Tằm bị vô hiệu thì dẫn
đến hệ quả pháp lý là giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà của anh Dậu bị hủy;
ông Văn, bà Tằm có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.

- Tòa án đã hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà
Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đúng như ban đầu.
*****************
BÀI THẢO LUẬN BA: TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI

SẢN

I. Khái niệm tài sản

Tóm tắt bản án

1. Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa:

- Nguyên đơn: Ông Phan Hai

- Bị đơn: Ông Phan Quốc Thái

- Loại tranh chấp: Tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

- Lý do tranh chấp: Ông Phan Hai kháng cáo quyết định đình chỉ vụ án. Vì Tòa án
cho rằng ông Phan Hai không cung cấp được Giấy uỷ quyền của ông Phan Trọng
Nguyên và ông không cung cấp giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu tài sản đối với
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành của Uỷ ban nhân dân huyện Diên
Khánh là không thỏa đáng.

- Nhận định của Tòa án: TAND tỉnh Khánh Hòa cho rằng giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản
chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.

- Tòa án: Tòa sơ thẩm đưa ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của ông Hai vì
cho rằng “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" không phải là tài sản, không thể
xem đây là loại giấy tờ có giá nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa. Sau
đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện đã kháng nghị và ông Hai cũng kháng cáo Quyết
định trên. Cuối cùng là Quyết định của Tòa phúc thẩm: Không chấp nhận kháng
nghị của Viện kiểm sát nhân với kháng cáo của nguyên đơn, đình chỉ giải quyết vụ
án và trả lại đơn khởi kiện.

2. Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/08/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long

- Nguyên đơn: Ông B, bà H

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thủy T


- Loại tranh chấp: Tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

- Lý do: Năm 2012, sau khi sửa nhà xong thì 10 ngày sau ông B, bà H phát hiện mất
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi làm đơn, Ủy ban nhân dân huyện Long
Hồ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B, bà H; nhưng khi có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì không được nhận do nhà ông B bà H thuộc diện
tranh chấp vì giấy tờ nhà bà đang do bà T sở hữu. Vì vậy, ông bà đã khởi kiện bà T
để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phía bà T khai rằng ông B bà H đã
thế chấp giấy chứng nhận để vay tiền vì vậy không trả lại cho đến khi được trả 120
triệu nhưng lại không có gì để làm chứng.

- Tòa án: Chấp nhân yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H. Buộc bà
T trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Võ Văn B.

3. Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của TAND tỉnh Bến Tre

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt Cường

- Bị đơn: Chi cục trưởng Chi cục Thuế thành phố Bến Tre

- Loại tranh chấp: Khiếu kiện “Quyết định truy thuế”

- Lý do: Ông Cường phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân khi mua
bán tiền ảo.

- Tòa án: Quyết định của Tòa sơ thẩm là chấp nhận việc khởi kiện của ông Cường
và việc truy thu thuế của chi cục thuế Bến Tre là sai. Quan điểm của Tòa án là
không xem tiền tiền ảo là hàng hóa và mua bán tiền tiền ảo là kinh doanh hàng hóa
được pháp luật cho phép và phải chịu thuế.

4. Quyết định số 05/2018/DS-GDDT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L

- Loại tranh chấp: Tranh chấp chia tài sản chung về việc mua hóa giá nhà.

- Lý do: Nguyễn Thị L là con riêng của cụ T4 đã đứng tên làm hợp đồng thuê căn
nhà trên và xin mua hoá giá căn nhà. Bà H yêu cầu Tòa án chia nhà số 63 đường B
theo pháp luật cho các thừa kế của cụ T bao gồm cụ T4, bà, ông T1, ông T2, bà L
(nếu chứng minh được là con nuôi hợp pháp) và yêu cầu bà L hoàn trả tiền cho thuê
nhà.
Bà L mua hóa giá căn nhà của cụ T nhưng không thỏa thuận chia giá trị căn nhà với
các con của cụ T, bà L cho rằng căn nhà số 63 đường B đó là tài sản riêng của vợ
chồng bà.

- Tòa án: Đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà 63 đường B. Việc phân chia sau khi
đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị còn lại do chị em
bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải quyết theo pháp luật.

1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về giấy tờ có giá.

- Giấy tờ có giá được xác định là một loại giấy tờ có giá trị như chứng cứ, bằng
chứng để xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá (thường là
ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng…) với người sở hữu giấy tờ có giá (ví
dụ người mua trái phiếu, tín phiếu…) trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi
và những điều kiện khác trong giao dịch ghi nợ này.

- Cơ sở pháp lý: Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Khoản
1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN, Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-
NHNN.

- Ví dụ minh hoạ về giấy tờ có giá: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ
phiếu, cổ phiếu theo quy định của Pháp lệnh về ngoại hối; Hối phiếu đòi nợ, hối
phiếu nhận nợ, Séc, công cụ chuyển nhượng khác. Tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu,
công trái và công cụ khác theo quy định của pháp luật quản lý về nợ công. Các loại
chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, nhóm chứng khoán, chỉ số chứng khoán,
Hợp đồng góp vốn đầu tư và các loại chứng khoán khác.

2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06
và Bản án số 39 có cho câu trả lời không?

- Theo Khoản 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Khoản 1
Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN, Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN
thì có thể hiểu “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức
phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Đồng thời tại Khoản 16 Điều 3 của
Luật đất đai 2013 có quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn
liền với đất”. Vì vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà không phải là giấy tờ có giá, chúng không phải là bằng chứng ghi nhận nghĩa
vụ trả nợ, mà chỉ là văn bản chứng quyền của chủ sở hữu tài sản, chủ sở hữu quyền
sử dụng.

- Ở Quyết định số 06 có đề cập đến Khoản 16 Điều 3 của Luật đất đai 2013: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Theo đó Tòa án xác định
rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem
là loại giấy tờ có giá.

- Ở Bản án số 39, Tòa án cũng xác định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng
thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, hàm chứa một số
quyền về tài sản gắn liền với đất”. Vì vậy loại giấy tờ này không có giá.

3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản
án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao?

- Theo Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản”. Trong khi đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà không phải là giấy tờ có giá, vì vậy những loại giấy tờ đó không phải là
tài sản.

- Ở Quyết định số 06 Tòa án đã dựa vào Điều 105, Điều 115 BLDS 2015, Khoản 16
Điều 3 Luật đất đai 2013 để xác định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là
văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”.

- Ở Bản án số 39 Tòa án đã xác định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư
pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, hàm chứa một số quyền
về tài sản gắn liền với đất”, nhưng không xác định trực tiếp những loại giấy tờ này
không phải là tài sản.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản.

Hướng giải quyết của Tòa án trong quyết định số 6 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là hợp lý, đúng theo quy
định của luật. Trong Quyết định số 06 có đoạn “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là loại văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”. Tòa án đã căn
cứ vào Điều 105 BLDS 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”,
theo khái niệm về tài sản thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà chỉ là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất gắn liền với đất cho nên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không được coi là giấy tờ có giá. Nhưng xét trên một
góc độ khác, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà trong
một số trường hợp có thể trị giá được bằng tiền và trở thành đối tượng giao dịch nên
có thể coi là một loại tài sản. Vì vậy, theo cá nhân thì việc xem giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà ở không phải là tài sản là chưa thực
sự thuyết phục.

5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

Căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 quy định:

“1. Tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.”

Căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đất
và quyền tài sản khác”.
Căn cứ vào những điều trên, giấy chứng nhận văn bản sử dụng đất, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà không phải là tài sản mà chỉ là văn bản chứa đựng quyền sử dụng
đất, quyền sử hữu nhà ở. Vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà không là vật, tiền giấy tờ có giá và quyền tài sản, nó chỉ là văn bản chứa
đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền. Do đó không phải là
tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá, nó được tạo ra nhằm bảo vệ quyền
lợi về tài sản của chủ thể sở hữu những giấy tờ này.

6. Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

Hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là hợp lý, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của ông B và bà H liên quan đến quyền về tài sản gắn liền với đất. Có thể thấy
Hội đồng xét xử đã căn cứ khoản 2 Điều 4 “ Tòa án không được từ chối giải quyết
vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Vụ việc dân sự chưa có điều
luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự
nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu
cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự
quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ
luật này quy định” ; khoản 14 Điều 26 “Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường
hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp
luật” Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 để xác định yêu cầu đòi trả giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông B và bà H thuộc thẩm quyền của Tòa án, việc căn cứ này
là hoàn toàn chính xác và phù hợp với thẩm quyền của Tòa án bởi việc từ chối vụ
việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng cũng như việc giải quyết vụ việc dân sự
liên quan đến giấy chứng nhận đã góp phần bảo vệ quyền lợi của ông B và bà H.
Đồng thời về quyết định cuối cùng của Hội đồng xét xử là chấp nhận yêu cầu của
ông B và bà H buộc bà T có nghĩa vụ giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông B và bà H đã giúp ông B với bà H có thể thực hiện được quyền của mình
trong việc sở hữu nhà đất cũng như làm rõ hơn trách nhiệm của Tòa án trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân liên quan đến các vụ việc dân sự.

Cách 2

Trong Bản án số 39, hướng giải quyết của toàn án là hợp lý.

Vì:
+ Ông B và bà H có đầy đủ chứng cứ để chứng minh giấy sử dụng quyền sử dụng
đất số AM 090902 thuộc quyền sở hữu của mình.

+ Bà T do đã rút yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa nên việc bà T chiếm giữ
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 090902 là trái pháp luật.

+ Trong thực tế xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là giấy
tờ có giá và cũng không được xem là tài sản cho nên không được phép giao dịch
trao đổi. Việc bà T khai con ông B có thế chấp cho bà để vay tiền mà không thể
chứng minh được và không có chứng cứ xác thực nên việc bà lấy giấy chúng nhận
quyền sử dụng đất của ông B và đòi ông B 120.000.000 thì bà mới trả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ/

→ Như vậy, bà T buộc phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B,
bà H và Toà án đã dựa vào vai trò của giấy chứng nhận để xác nhận giấy chứng
nhận có liên quan về tài sản.

7. Bitcoin là gì?

Bitcoin là một loại tiền kĩ thuật số (tiền mã hóa) hoạt động dựa trên các thuật toán
cao cấp, được phân cấp dựa trên mã nguồn mở phát hành bởi Satoshi Nakamoto vào
năm 2009. Thực chất, Bitcoin chỉ là một dãy các chữ số và chữ cái. Mọi giao dịch
bằng Bitcoin đều được thực hiện qua Internet mà không phải qua bên trung gian
nào. Loại tiền này sẽ được sử dụng theo luật riêng của nó và không bị kiểm soát bởi
bất kì ngân hàng trung gian nào.

Để thực hiện các giao dịch bằng Bitcoin thì đầu tiên người dùng phải có một ví
Bitcoin, mỗi ví này là một địa chỉ riêng gồm chuỗi chữ và số, sau đó người dùng có
thể mua Bitcoin bằng thẻ tín dụng, tiền mặt hoặc chuyển khoản, bỏ vào ví và bắt
đầu thực hiện giao dịch. Cứ 10 phút, mọi giao dịch được ghi vào blockchain (như
một cuốn sổ cái) và lúc đó giao dịch sẽ được xác nhận. Thêm nữa, không thể gian
lận giao dịch Bitcoin vì blockchain là một kho dữ liệu công khai nên bất kì ai cũng
có thể theo dõi và thực hiện giao dịch. (Theo taichinh.online, Bitcoin là gì và giá trị
thực của nó.)

8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?

Trong nội dung quyết định của Tòa án có nêu: “ Cho đến thời điểm hiện nay, chưa
có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định tiền kỹ thuật số ( tiền ảo )
là hang hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh tiêu dung ở Việt Nam”.
Trong khi đó, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ,
phương tiện thanh toán hợp pháp. Tiền ảo không phải là tiền tệ và không phải là
phương tiện thanh toán hợp pháp. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo là
phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm và chế tài xử lý hành vi này đã được quy
định tại Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014. Hiện nay, khung hình phạt
về bitcoin chưa được ban hành, vì thế Bitcoin không được coi là tài sản.

9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.

Ở một số quốc gia trên thế giới, pháp luật của họ xem Bitcoin là một loại tài sản
hợp pháp như: Úc, Trung Quốc. Phần Lan, Pháp, Nhật Bản, Mexico,….

Ví dụ: Quốc hội Mexico cônh nhận Bitcoin là một loại tài sản ảo hợp pháp thông
qua Luật Fintech của nước này.

Trên thực tế, pháp luật ở một số nước đã công nhận Bitcoin là tài sản.

Tháng 9 năm 2015, Ủy ban giao dịch hàng hoá tương lai Mỹ (CFTC) công bố,
Bitcoin đã chính thức được đưa vào danh sách hàng hóa được phép giao dịch tại
Mỹ. Phần lớn các cơ quan trong chính phủ Mỹ đều đã tán thành việc sử dụng
Bitcoin. Đơn cử, Ủy ban bầu cử liên bang Mỹ (FEC) muốn chấp nhận quyên góp
qua Bitcoin.

Theo phán quyết của Tòa án tối cao châu Âu vào tháng 10 năm 2015, Bitcoin sẽ
được phép giao dịch như các đơn vị tiền tệ thông thường mà không bị đánh thuế tại
châu Âu.

Thụy Điển và Nhật cũng đã chấp nhận Bitcoin như một phương thức thanh toán
chính thức. Một số quốc gia như Mỹ, Nhật, Thụy Điển cho phép giao dịch Bitcoin
nhưng bắt buộc các sàn giao dịch phải tuân thủ một số quy định trong ngân hàng
như KYC/AML và kiểm toán nội bộ.

Chỉ có duy nhất 3 quốc gia đã ra lệnh cấm giao dịch Bitcoin, bao gồm: Bangladesh,
Bolivia, Ecuador. Phần lớn các quốc gia còn lại (bao gồm Việt Nam) đều để Bitcoin
ở trạng thái không quản lý hoặc không rõ ràng.

Một số trường hợp của các quốc gia, tổ chức quốc tế tiêu biểu trên thế giới:

- Liên minh Châu Âu (EU) chưa thông qua luật cụ thể liên quan đến tình trạng
Bitcoin như một loại tiền tệ, nhưng đã tuyên bố rằng VAT/GST (thuế giá trị gia
tăng) không được áp dụng cho việc chuyển đổi giữa tiền tệ truyền thống và Bitcoin.
Hợp pháp về tính hợp pháp.

- Hợp chủng quốc Hoa Kì (USA), năm 2013, Bộ tài chính Hoa Kỳ phân loại
Bitcoin như một loại tiền ảo phi tập trung có thể chuyển đổi. Ủy ban giao dịch hàng
hóa tương lai, CFTC, đã phân loại Bitcoin là một loại hàng hóa. IRS cho biết
Bitcoin bị đánh thuế như một tài sản. Và Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã được ý kiến
trong một đề cập về việc thay đổi định nghĩa về tiền. Hợp pháp về tính hợp pháp.

- Trong dự luật Nga, Bitcoin được phân loại là tài sản và không được coi là
đấu thầu hợp pháp. Việc trao đổi tiền điện tử lấy rúp và ngoại tệ được phép nhưng
chỉ thông qua các nhà khai thác được cấp phép. Bao quát chung dự luật về tài sản tài
chính kỹ thuật số đã được đưa ra tại Duma. Nó định nghĩa khai thác tiền điện tử là
"các hoạt động nhằm mục đích tạo ra tiền điện tử với mục đích nhận tiền bồi thường
dưới dạng tiền điện tử" và coi đây là "hoạt động kinh doanh phải chịu thuế nếu
người khai thác vượt quá giới hạn tiêu thụ năng lượng do Chính phủ thiết lập trong
ba tháng liên tiếp". Hợp pháp để khai thác nhưng cấm ngân hàng về tính hợp pháp.

10.Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.

Do pháp luật Việt Nam vẫn chưa có bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào quy
định về tiền ảo, không quy định ngành nghề kinh doanh nạp tiền ảo và cũng không
có khái niệm về tiền ảo nên quan điểm của Tòa án không thực sự rõ ràng về việc
Bitcoin có phải là Tài sản ở Việt Nam hay không. Tại Điều 105 BLDS 2015, quan
niệm về tài sản được chỉ ra rõ ràng nên pháp luật nước ta vẫn chưa thừa nhận
Bitcoin là một loại tiền tệ hay tài sản được.

11.Quyền tài sản là gì?

Theo Điều 115 của Bộ luật dân sự 2015 thì “ Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác.”

12.Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản
là quyền tài sản không?
Án lệ số 31/2020/AL đã ghi nhận trường hợp quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản. Án lệ đã xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà
nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của người đó.

Chưa có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản nhưng ta vẫn có thể hiểu rằng quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài
sản. Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”, quyền tài sản khác ở đây được nêu không rõ
ràng nên đã có nhiều bất cập xoay quanh. Tuy nhiên đối với quyền tài sản là đối
tượng của giao dịch dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền
và có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự, thì quyền thuê và
quyền mua tài sản đều đáp ứng được cả 2 yếu tố nêu trên.

Quyền tài sản có thể được phân chia thành hai loại: quyền đối vật và quyền đối
nhân. Quyền đối vật là quyền của chủ thể được tác động trực tiếp vào vật để thỏa
mãn nhu cầu của mình như quyền sở hữu, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền
thuê, quyền mua… Quyền đối nhân là quyền của chủ thể này đối với chủ thể khác.
Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa
vụ theo yêu cầu của bên có quyền. Ví dụ quyền yêu cầu trả nợ, giao vật…

13.Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?

Ở đoạn: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền
thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được
chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế
quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T”

14.Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ
với khái niệm tài sản)?

Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê
và quyền mua đó là vẫn còn bất cập trong việc có xem quyền thuê và quyền mua có
phải là tài sản hay quyền tài sản hay không? Có lúc lại xem quyền thuê và quyền
mua là quyền tài sản như ở đoạn: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 364 của Bộ
luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà là quyền tài sản (trị giá bằng
tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế”. Còn có lúc lại xem quyền thuê và
quyền mua là tài sản ở trong đoạn: “Đến ngày 02/10/2001, Cục Quân khu 7 ký hợp
đồng cho bà L thuê căn nhà trên. Sau đó Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủ tục
bán căn nhà trên cho bà L theo Nghị định số 61/CP. Ngày 09/02/2002, bà L và
chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63
đường B nêu trên là do sự thống nhất giữa bà H, ông T1 và bà L ngày 05/07/2001
thì Quân khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó có
căn cứ xác định số nhà 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L”. Việc
này tạo ra những sự mâu thuẫn không giải thích được bắt nguồn từ khái niệm tài sản
và khái niệm về quyền tài sản vẫn còn nhiều thiếu sót, chưa hoàn thiện, chỉ liệt kê
mà không chỉ mà một cách cụ thể. Trong mối quan hệ với khái niệm tài sản thì
quyền thuê và quyền mua nó là quyền tài sản chứ không phải tài sản vì chủ thể tự
mình xác lập thực hiện để thỏa mãn lợi ích của mình.

II. Căn cứ xác lập quyền sở hữu.

Tóm tắt án Quyết định số 111/2013/DS-GDT ngày 09/09/2013 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Nguyên đơn là cụ Dư Thị Hảo

Bị đơn là Nhữ Thị Vân

Loại tranh chấp: Tranh chấp về nhà ở

Tính chất: Xác lập quyền sở hữu đối với căn nhà ở số 2 Hàng Bút

Lí do: căn nhà số 2 Hàng Bút là tài sản riêng của cụ Hảo giao cho con trai là ông
Chính quản lí. Ông Hải thuê lại căn nhà năm 1954 ( theo lời khai của chị Vân) và
được cháu của mình là chị Vân sử dụng đến nay. Năm 2001 chị Vân bán tầng 1 của
căn nhà cho vợ chồng anh Sơn chị Lan. Năm 2004, người đại diện ông Hảo khởi
kiện để đòi lại quyền sở hữu với căn nhà.

Quyết định của toà: Tòa án nhận định rằng: Việc cụ Hảo, đến năm 2004, cụ Hảo
mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yên cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực
tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà nữa; gia đình chị Vân ở tại căn nhà số 02
Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là hơn 30 năm chiếm hữu ngay tình,
liên tục, công khai.

Huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 90/2011/DSPT ngày 30/05/2011 và huỷ
toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST ngày 31/08/2010.
1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết
suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Đoạn: “ Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ”, “
Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954”, “
đến năm 2004 cụ Hảo nới kiện ra toà”, “ Ngày 18/02/2001 chị bán tầng 1 nhà số 2
Hàng Bút cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Dương Thị Ngọc Lan”

Cơ sở pháp lí: khoản 1 Điều 179 BLDS 2015 thì chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ,
chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài
sản. Ở quyết định trên cho thấy chị Vân đã ở nhà số 2 Hàng Bút nhiều thế hệ từ năm
1954 đến năm bị ông Háo khởi kiện là 2004 thì thời gian ấy hơn 30 năm. Hơn nữa
chị Vân đã bán tầng 1 của căn nhà cho vợ chồng anh Sơn chị Lan nên chị Vân có
quyền nắm giữ chi phối trực tiếp đối với tài sản

Vì đây vụ án được giám đốc thẩm năm 2011. Đây là việc tranh chấp không có căn
cứ pháp luật cụ thể là đã làm mất giấy tờ thuê nhà. Mà theo lời chị Vân thì gia đình
chị đã ở nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954 tới lúc bị khởi kiện là năm 2004 tức là 50
năm, đã trên ba mươi năm. Còn theo lời ông Chính thì đã cho gia đình chị Vân thuê
từ năm 1968 tới lúc khởi kiện là năm 2004 tức là 36 năm, cũng đã trên ba mươi
năm. Vậy trong cả 2 trường hợp thì gia đình chị Vân đều chiếm hữu nhà đất có
tranh chấp, ở đây là nhà số 2 Hàng Bút và trên 30 năm nên khẳng định trên của tòa
án là hợp lý.

2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Đoạn “ Gia đình chị Vân đã ở lại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình,
liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu” đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất
có tranh chấp trên 30 năm . Theo em khẳng định này của Tòa án là đúng đắn bởi từ
quyết định của Tòa án, vẫn chưa xác minh được là ông Hải thuê nhà của cụ Hảo từ
năm 1954 hay của ông Chính từ năm 1968. Ông chính cũng không xuất trình được
giấy tờ ủy quyền cụ Hảo.
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Đoạn “ Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ”; “Gia
đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở,
sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn có đòi nhà đối
với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh”. Căn cứ
điều 182 của BLDS 2015 “ Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện
trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó
hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài
sản được giao cho người khác chiếm hữu” như vậy chị Vân đã hoàn toàn chiếm hữu
liên tục nhà đất có tranh chấp và tôi nghĩ khẳng định này của tòa án là hoàn toàn
hợp lý và hợp pháp.

4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Đoạn “ Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ” ; “ Gia
đình chị Vân đã ở căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, công khai theo
quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu: Người chiếm hữu người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”. Qua đó căn cứ theo
khoản 1 Điều 183 BLDS 2015 “ Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực
hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng
theo tính năng công dụng và được người chiếm hữu bảo quản; giữ gìn như tài sản
của mình”. Theo tôi thì chị Vân đã sử dụng căn nhà như tài sản của mình (bố của
chị có nâng cao nền nhà, thay cửa) và chiễm hữu nó một cách công khai, minh bạch
vậy nên tôi nghĩ khẳng định của tòa án là hoàn toàn hợp lý.

5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn quyết định cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà
đất có tranh chấp : “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị
Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu minh ( chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy
ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi
kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.”

Theo em, Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất là chưa chính
xác.Vì :

Xét thấy nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội có bằng khoán
điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng kí trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946, là tài sản
riêng của cụ Dư Thị Hảo.

Cụ Hảo đã xác lập quyền sở hữu đối với căn nhà vào năm 1946. Không có minh
chứng nào cho thấy cụ Hảo không còn là chủ sở hữu như Tòa án đã khẳng định. Dù
cụ có vào Nam sinh sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở hữu thì căn nhà vẫn là của
cụ Hảo.

Năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút cho bà
Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã
Kim Chung).Tại thời điểm này lập di chúc cần phải đáp ứng đầy đủ điều kiện và đã
được UBND xác nhận là di chúc hợp pháp.

CSPL: khoản 1 Điều 655 BLDS 1995 Di chúc hợp pháp:

+ Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
doạ hoặc cưỡng ép;

Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật.

6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với
nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền
không? Vì sao?

Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền.Vì:

Căn cứ vào Điều 190 BLDS 2005.Chiếm hữu liên tục:


Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có
tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người
khác chiếm hữu.

Thời gian gia đình chị Vân sống tại căn nhà này dù xét từ năm 1954 hay 1968 thì đã
sinh sống hơn 30 năm.

Gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục căn nhà

Không có hợp đồng cho thuê nhà nên việc chiếm hữu căn nhà là không có căn cứ
pháp luật,chị Vân hoàn toàn có thể biết việc chiếm hữu này là không có căn cứ.
Chiếm hữu không có pháp luật nhưng ngay tình => Phù hợp với quy định tại Điều
189 BLDS 2005. Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình:

+ Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này
là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

+ Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người
chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có
căn cứ pháp luật.

Gia đình chị Vân đã sử dụng căn nhà với đúng theo tính năng, công dụng và được
chị bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình.Việc chiếm hữu này là công khai và
minh bạch, không giấu giếm

Phù hợp với Điều 191 BLDS 2005. Chiếm hữu công khai

+ Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách
minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng,
công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.

Theo khoản 1 Điều 247 BLDS 2005. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu:

+ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Chị Vân được xác lập quyền sở hữu.

Thế nhưng xét theo Điều 180 BLDS 2015. Chiếm hữu ngay tình:

+ Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng
mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.
Căn nhà là do ông nội chị Vân thuê từ ông Chính, trả tiền thuê đầy đủ một thời gian
dài nên chị Vân nhận thức được bản thân không có quyền đối với tài sản.

Cụ Hảo vẫn là chủ sở hữu nhà đất nên chị Vân không được xác lập quyền sở hữu
đối với nhà đất có tranh chấp.

Cách 2

Theo em gia đình của chị Vân được xác lập quyền sở hữu đói với nhà đất có tranh
chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền. Vì theo Khoản 1 Điều 247 Bộ
luật dân sự 2005 và Điều 236 Bộ luật dân sự 2015:“Người chiếm hữu, người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong
thời hạn mười năm đối với bất động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Nếu tính từ năm 1954 đến năm
2004 ( thời điểm cụ Hảo đưa đơn ra Tòa khởi kiện) thì chị Vân đã sống tại đó được
50 năm tức là theo quy định thì chị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên 30 năm nên
trở thành chủ sở hữu của tài sản này vì nó thỏa mãn các điều kiện ngay tình, liên
tục, công khai minh bạch bảo quản giữ gìn như tài sản của chính mình

III. Chuyển rủi ro đối với tài sản

Tình huống sau:

Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng. Tuy nhiên ghe
xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ chối thanh
toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Bà Dung đã nhận ghe xoài của bà Thủy trước thời điểm cháy chợ nên bà Dung là

người phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS.

CSPL: Theo Điều 162 BLDS 2015 quy định:

Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có

thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi

quyền của mình, trừ trường hợp có thảo thuận khác với chủ sở hữu tài sản theo Bộ

luật này, luật khác liên quan quy định khác.

Theo Điều 441 BLDS 2015 quy định về thời điểm chịu rủi ro:

Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên

mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa

thuận khác hoặc luật có quy định khác

Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký

quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên

mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thảo

thuận khác.

2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Tại thời điểm cháy chợ bà Thủy đã giao số ghe xoài trị giá 16.476.250 cho bà Dung
cho nên số ghe xoài là tài sản thuộc về bà Dung, bà Dung là chủ sở hữu số xoài. Số
xoài bị hư hỏng sau thời điểm cháy chợ là rủi ro xảy ra do điều kiện khách quan, số
xoài đã là tài sản của bà Dung nên trách nhiệm đối với số xoài này hoàn toàn thuộc
về bà Dung, bà Dung không có quyền hoàn trả số xoài trên cũng như từ chối thanh
toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

Theo khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 quy định về thời điểm chịu rủi ro: Bên bán chịu
rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro
đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác.

Nguyên tắc: Chủ sở hữu là người chịu rủi ro về tài sản.

Ở Việt Nam về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền quyết định việc chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản thì cũng phải chịu rủi ro đối với tài sản khi tài sản bị tiêu
hủy hoặc bị hư hỏng.
Vậy nên khi số xoài đã được giao cho bà Dung, bà Dung có quyền quyết định việc
sử dụng, định đoạt thì cũng phải chịu rủi ro đối với tài sản khi tài sản bị hư hỏng.

3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Bà Dung phải thanh toán số tiền mua ghe xoài trên bởi vì thời điểm bà Dung nhận
hàng trước khi xảy ra sự cố cháy chợ là tình huống khách quan, bà Dung và bà
Thủy đã thực hiện giao nhận tài sản trước khi xảy ra rủi ro, dù đó là rủi ro xảy ra thì
khi tài sản đã được giao nhận và đã có thỏa thuận trước đó bà Dung phải thanh toán
số tiền ghe xoài là 16.476.250 đồng cho bà Thủy, là người thực hiện nghĩa vụ giao
ghe xoài nguyên vẹn cho bà Dung.

Cơ sở pháp lý:

Theo khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 quy định về thời điểm chịu rủi ro: Bên bán chịu
rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro
đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác.

Theo Điều 162 BLDS 2015 quy định về chịu rủi ro về tài sản:

Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác

Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi
quyền của mình, trừ trường hợp có thảo thuận khác với chủ sở hữu tài sản theo Bộ
luật này, luật khác liên quan quy định khác.

*****************
BÀI THẢO LUẬN 4: BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU

VẤN ĐỀ 1: ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA


Tóm tắt án: Quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30/05/2006 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.

- Nguyên đơn: Ông Triệu Tiến Tài, 54 tuổi

- Bị đơn: Ông Hà Văn Thơ, 40 tuổi

- Lý do khởi kiện: Ông Tài có con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi chưa xiên
mũi và 1 con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi chăn thả rông ở bãi đất trống và bị ông
Thơ chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Sau đó ông Thơ gởi ông Thi quản lý
được mấy hôm thì con nghé bị liệt và ông đã mổ lấy thịt đồng thời bán trâu mẹ cho
ông Thi. Ông Thi lại đổi cho ông Dòn lấy con trâu cái sổi và hiện nay ông Dòn đang
quản lý con trâu này.

- Tòa án: Tòa án sơ thẩm xác định con trâu và con nghé thuộc quyền sỡ hữu của ông
Tài, ông Thơ là người chiếm giữ không có căn cứ pháp luật phải hoàn lại giá trị con
trâu và con nghé cho ông Tài. Hủy bản án phúc thẩm số 25/DSPT và giao vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

1.1 Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?

Trâu là động sản. Vì động sản là tài sản có thể chuyển dịch hoặc di dời từ nơi này
sang nơi khác trong không gian nhất định mà vẫn giữ nguyên tính năng, công dụng.
Động sản bao gồm những vật tự mình chuyển động được như súc vật và những vật
không tự chuyển động được nhưng chuyển động bằng một lực ngoại lai như thóc,
gạo, trái cây đã được hái.

- Căn cứ vào Điều 107 Bộ luật dân sự 2015 quy định

1. Bất động sản bao gồm:


a) Đất đai;

b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;

c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;

d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.

Do đó, trâu không thuộc vào khoản 1 Điều 107 Bộ luật dân sự 2015 mà thuộc khoản
2 Điều 107 Bộ luật dân sự 2015 nên trâu là động sản

1.2 Trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì sao?

Trâu là tài sản không phải đăng kí quyền sở hữu. Căn cứ theo Điều 105 của BLDS
2015 “ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”; “ Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”. Trong đó Điều 106 của BLDS 2015 cũng nêu rõ “ Đối
với tài sản là động sản không cần phải đăng ký trừ trường hợp pháp luật về đăng ký
tài sản có quy định khác”. Do đó, trâu là động sản nên không phải đăng ký quyền sở
hữu.

1.3 Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu
của ông Tài?

Đoạn “ Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài ( Bút lục 06,07,08 ), lời khai của
các nhân chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả
giám định con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16-8-2004, biên bản
xác minh của cơ quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, (Bút lục
40,41,41a,42) thì có đủ cơ sở xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới
sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của ông Triệu Tiến Tài. Ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không
có căn cứ pháp luật”.
1.4 Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh
có tranh chấp trên?

Theo khoản 1 Điều 179 của BLDS 2015 “ Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”;
“ Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không
phải là chủ sở hữu”. Trong hoàn cảnh trên, ông Thơ là người chiếm hữu trâu của
ông Tài mà không có căn cứ pháp luật. Căn cứ vào khoản 2 Điều 179 Bộ luật dân sự
2015, ông Dòn là người đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có tranh chấp trên.

1.5 Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật
không? Vì sao?

Căn cứ theo Điều 165 của BLDS 2015 việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông
Dòn là không có căn cứ pháp luật. Vì ngay từ đầu việc ông Thơ chiếm hữu con trâu
của ông Tài đã là không có căn cứ pháp luật rồi nên việc ông Dòn chiếm hữu lại
càng không có căn cứ pháp luật hơn.

1.6 Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.

Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng
mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu dựa theo Điều 180 BLDS 2015.

Điều 189 BLDS 2005: “Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại
Điều 183 của Bộ luật này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Người chiếm
hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà
không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp
luật.”

Theo khoản 2 Điều 165 BLDS 2015:

“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau
đây:

a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;


b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;

c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp
với quy định của pháp luật;

d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với
điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;

đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp
với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên
quan;

e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.

2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.”

Vậy chiếm hữu tài sản ngay tình mà không có căn cứ pháp luật là khi người đó
không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp
luật.

Cách 2

- Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là việc chiếm hữu tài sản
không có căn cứ pháp luật trong trường hợp người chiếm hữu không biết và không
thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.

- Như vậy, hành vi chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật chỉ được coi là
ngay tình nếu có đủ cả 2 điều kiện: KHÔNG BIẾT và KHÔNG THẾ BIẾT việc
chiếm hữu đó là không có căn cứ pháp luật.

- Ví dụ: C mua của B một chiếc máy vi tính mà không biết chiếc máy đó là B trộm
cắp của A. Trong trường hợp này C chiếm hữu chiếc máy tính đó bị coi là không có
căn cứ pháp luật nhưng được coi là ngay tình vì C không biết tài sản đó là B trộm
cắp, đồng thời vì chiếc máy vi tính là một tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu
nên C không thể biết chiếc máy vi tính đó có phải của B hay không.
- Theo Điều 180 BLDS 2015, “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người
chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu"

1.7 Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình
không? Vì sao?

Có, Vì: Căn cứ theo Điều 180 của BLDS năm 2015 quy định: “Chiếm hữu ngay tình
là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với
tài sản đang chiếm hữu”. Do ông Dòn đã nghĩ ông Thơ là chủ của con trâu nên đã
thực hiện giao dịch trao đổi với ông Thơ, thế nên ông hoàn toàn nghĩ mình đã sở
hữu được con trâu đó.

Người như hoàn cảnh của ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình. Vì ông Dòn
KHÔNG BIẾT và KHÔNG THẾ BIẾT con trâu đó là tài sản trộm cắp hay không.
Đồng thời vì con trâu là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu nên ông không
thể biết và pháp luật cũng không buộc phải biết con trâu đó là tài sản của ông Tài,
chỉ biết là trao đổi với ông Thi.

1.8 Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi
tài sản trong BLDS?

Hợp đồng không có đền bù: là hợp đồng mà trong đó một bên nhận được từ bên kia
một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào. Hợp đồng không có đền bù
thường được giao kết trên cơ sở tình cảm và tinh thần tương thân, tương ái giữa các
chủ thể. Ví dụ: hợp đồng tặng cho..

Hợp đồng có đền bù: là hợp đồng trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện cho
bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Đa số các hợp
đồng dân sự là hợp đồng có đền bù. Tính chất đền bù trong hợp đồng được các bên
áp dụng để thực hiện việc trao đổi với nhau có thể là lợi ích vật chất hoặc tinh thần.
Các hợp đồng có đền bù đa phần là hợp đồng song vụ và ngược lại. Ví dụ: hợp đồng
mua bán nhà đất...
1.9 Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có
đền bù? Vì sao?

- Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù. Vì ông Thơ bán trâu mẹ
cho ông Thi, sau đó ông Thi đổi cho ông Dòn lấy con trâu cái sổi. Như vậy, có thể
thấy đây là giao dịch mà ở đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện cho bên kia một
lợi ích tương ứng. Do vậy, đây là hợp đồng có đền bù.

1.10 Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí
của ông Tài không?

Có, Vì không có căn cứ nào cho rằng ông Tài từ bỏ quyền sở hữu con trâu mẹ và
con nghé, hàng tháng ông vẫn lên xem cũng không có ý định bán hoặc cho trâu. Khi
ông Thơ dắt trâu mẹ và nghé con qua nhà ông Tài thì ông Tài nhận ra trâu, nghé của
mình và nói với ông Thơ nhưng ông Thơ vẫn dắt trâu về sau đó bán cho ông Thi và
được đổi cho ông Dòn, điều đó chứng tỏ ông Tài không hề mong muốn sự việc xảy
ra. Như vậy, con trâu có tranh chấp có thể bị lấy cắp, bị mất hoặc bị chiếm giữ ngoài
ý chí của ông Tài.

1.11 Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông
Dòn không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn.

- Trong đoạn cho rằng: “Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tấn Tài (BL 06, 07, 08),
lời khai của các nhân chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20) anh Bảo (BL 22)
và kết quả giám định con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16-8-2004,
biên bản xác minh của cơ quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, biên bản
diễn giải biên bản kết quả giám định trâu ngày 20-8-2004), (BL 40,41,41a, 42) thì
có đủ cơ sở xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu
và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu
Tiến Tài. Ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật.”
1.12 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.

- Hướng giải quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân tối cao cho rằng ông Tài được đòi
trâu từ ông Dòn là hợp lý. Vì trâu là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu nên
Theo Điều 167 BLDS 2015 quy định: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp
người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền
bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp
đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp,
bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.

Trong trường hợp này, ông Dòn chiếm hữu trâu đang tranh chấp là không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình và ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền
bù nên chủ sở hữu là ông Tài có quyền đòi lại trâu của mình. Như vậy, hướng giải
quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân tối cao là hoàn toàn đúng với quy định của pháp
luật.

1.13 Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có
quy định nào bảo vệ ông Tài không?

- Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành vẫn có quy
định bảo vệ ông Tài. Theo Điều 164 BLDS 2015 có quy định:

Điều 164. Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:

1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn
bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp
không trái với quy định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả
lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

1.14 Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng
ông Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết
định cho câu trả lời?

Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã giải quyết theo hướng
ông Tài được quyền yêu cầu ông Thơ trả lại giá trị con trâu. Điều đó thể hiện trong
Quyết định như sau: “Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã (…)
quyết định buộc ông Thơ là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật phải
hoàn trả lại giá trị con trâu và con nghé cho ông Tài là có căn cứ pháp luật.”

Như vậy, theo đoạn trên thì khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án
đã giải quyết theo hướng buộc ông Hà Văn Thơ trả giá trị con trâu cho ông Tài.

1.15 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.

-Theo tôi, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao giải quyết vụ việc trên là hợp lý.
Dựa vào các tài liệu chứng cứ Tòa án đã xác định con trâu là tài sản của ông Tài,
ông Thơ là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và buộc ông Thơ phải trả
lại cho ông Tài là đúng quy định pháp luật.

VẤN ĐỀ 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA

Tóm tắt: Quyết định số 07/2018/DS-GĐT ngày 09/05/2018 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị X (người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Thanh T).

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N (người đại diện hợp pháp: Ông Bùi Thanh T).
- Yêu cầu: Bà Nguyễn Thị N trả nhà số 2/15 (số mới là 46) và toàn bộ 1.518,86m 2
đất. Ngày 27/07/2014, trừ phần làm đường, đo thực tế là 1.466.1m2

Loại tranh chấp: Tranh chấp quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.

- Lý do: Năm 1989, bà X nhận chuyển nhượng của bà Thanh T căn nhà cấp 4 diện
tích 24m2 trên 1.518,86m2 đất, thuộc thửa 73, tờ bản đồ số 27, tại số 46 (số cũ 2/15)
và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu năm 1989. Nhà, đất, bà không sử
dụng, không kê khai, không nộp thuế. Năm 1991, bà phát hiện gia đình bà Nguyễn
Thị N tự ý vào ở và muốn đòi lại.

Nhận định của Tòa án:

 Toàn bộ diện tích đất có tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà X.
 Bà N quản lý sử dụng đất từ năm 1991, bà N có công sức quản lý, giữ gìn
nhà đất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của chủ sử dụng đất đối với Nhà nước.
 Bà N đã chuyển giao quyền sử dụng đất cho bên thứ ba ngay tình là ông M,
chị L.
2.1 Đoạn nào của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất có
tranh chấp thuộc bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba
ngay tình?

Đoạn: “Sau đó, ngày 19/8/2010, bà N chuyển nhượng cho ông M diện tích 323,2m 2,
ngày 1/10/2010 ông M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông M đã
xây dựng nhà 4 tầng trên đất. Diện tích đất còn lại 917,6m 2, ngày 21/10/2011, bà N
tặng cho con gái là chị Nguyễn Vi L. Sau đó, chị L chuyển nhượng 173,1m 2 (đo
thực tế 170,9m2) đất cho ông Lăng Đào Minh Đ và bà Trần Thu T; ông Đ, bà T đã
nhận đất sử dụng và được cấp giấy chứng nhận ngày 24/7/2012. Diện tích đất còn
lại của chị L đo thực tế là 744m 2. Việc chuyển nhượng và tặng cho nêu trên đã hoàn
thành trước khi có Quyết định kháng nghị và giám đốc thẩm số 410/2012/KN-DS
ngày 24/9/2012 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Quyết định giám đốc thẩm
số 55/2013/DS-GĐT ngày 30/01/2013 của Toà án nhân dân tối cao hủy toàn bộ Bản
án dân sự phúc thẩm số 123/2009/DS-PT ngày 23/10/2009 nêu trên. Căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 138 và Điều 258 Bộ luật dân sự 2005 thì các giao dịch
chuyển nhượng và tặng cho đất của ông M, bà Q, chị L, ông Đ, bà T là các giao
dịch của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ”

Cách 2

Đoạn 2 ở phần nhận định của Tòa án có nêu: “... Như vậy, căn cứ vào nội dung trình
bày của bà T và các giấy tờ có liên quan thì toàn bộ diện tích đất tranh chấp thuộc
quyền sử dụng của bà X".

Đoạn 5 ở phần nhận định của Tòa án có nêu: “... Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều
138 và Điều 258 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì các giao dịch chuyển nhượng và tặng
cho đất của ông M, chị L, ông Đ, bà T là các giao dịch của người thứ ba ngay tình
được pháp luật bảo vệ".

2.2 Theo quy định (trong BLDS 2005 va BLDS năm 2015), chủ sở hữu bất
động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của họ được chuyển giao
cho người thứ ba ngay tình?

Điều 167 BLDS 2015: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu từ người chiếm hữu ngay tình:

+ Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được
động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định
đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

Điều 168 BLDS 2015: Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu
hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

+ Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất
động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
133 của Bộ luật này.

- Chủ sở hữu sẽ được bảo vệ nếu chiếu theo Điều 133 BLDS 2015:
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu:

+ Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu
giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này
nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác
lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Khoản này tại Điều 138 BLDS 2005 chưa quy định.

Điều 257 BLDS 2005: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu từ người chiếm hữu ngay tình:

+ Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được
động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định
đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

Điều 258 BLDS 2005: Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu
hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình:

+ Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động
sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông
qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

2.3 Để bảo vệ bà X, theo Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án phải xác định trách
nhiệm của bà N như thế nào đối với bà X?

Tòa án buộc bà N trả bằng giá trị quyền sử dụng diện tích 914m 2 đất cho nguyên
đơn mới phù hợp. Tòa án cấp phúc thẩm công nhận cho ông M được quyền sử dụng
313,6m2 nhưng buộc ông M phải trả giá trị đất 1.254.400.000 đồng cho bà X là
không có cơ sở, gây thiệt hại cho quyền lợi ông M. Lẽ ra, Tòa án phải buộc bà N trả
cho nguyên đơn giá trị đất 1.254.400.000 đồng mới phù hợp. Tuy nhiên, việc Tòa án
không xem xét công sức của bà N trong việc quản lý, giữ gìn đất là chưa đảm bảo
quyền lợi của bị đơn. Đồng thời, xem xét đến cả phần đất Nhà nước thu hồi và cần
làm rõ bà N đã nhận số tiền Nhà nước bồi thường là bao nhiêu để tính toán công sức
cho hợp lý.

2.4 Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã được quy định
trong BLDS chưa?

Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã quy định trong BLDS
2015. Cụ thể áp dụng luật lệ như sau:

+ Điều 167: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu
ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người
không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù
thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc
trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.

+ Điều 168: Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản
từ người chiếm hữu ngay tình “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này”.

2.5 Theo anh/chị, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao (trong câu
hỏi trên) có thuyết phục không? Vì sao?

Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao (trong câu hỏi trên) hoàn toàn thuyết
phục vì:

Căn cứ theo Điều 255 BLDS 2005 và Điều 164 BLDS 2015 chủ sở hữu được ghi
nhận nhiều biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của mình và tùy vào từng
trường hợp cụ thể mà Tòa án hay các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn những biện
pháp thích hợp để bảo vệ tối ưu quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu.

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn phù hợp thể hiện sự linh hoat trong
việc áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền sở hữu cụ thể là bà X, điều kiện đòi lại tài
sản là khi tài sản được đòi lại phải xác định được và đang còn tồn tại trên thực tế
không còn thỏa mãn, Tòa án đã buộc bà N trả lại giá trị sử dụng đất cho chủ sở hữu.

Tòa án theo hướng bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi căn cứ
vào khoản 2 Điều 138 và Điều 258 BLDS 2005 công nhận giao dịch chuyển
nhượng và tặng cho đất của ông M, bà Q, chị L, ông Đ, bà T là các giao dịch của
người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ và xem xét bảo vệ quyền lợi về quản
lý, giữ gìn đất của người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là
bà N.

VẤN ĐỀ 3: LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ

Tóm tắt: Quyết định số 617/2011/DS-GĐT ngày 18/11/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.

- Nguyên đơn: Ông Lương Ngọc Trụ, bà Đinh Thị Nguyên

- Bị đơn: Ông Ngô Văn Hòa

- Loại tranh chấp: Tranh chấp ranh đất

- Lí do: Ông Trụ có mảnh đất 320m 2 từ năm 1975 đến nay. Năm 1987, ông đi làm
ăn nơi khác nên vợ chồng ông Ngô Văn Hòa đã lấn 15,2m 2. Ông Trụ yêu cầu gia
đình ông Hoà tháo dỡ các công trình phụ và trả lại phần đất đã chiếm. Về phía ông
Hoà thì năm 1995, ông có xin giấy phép sửa chữa nhà và được cấp giấy phép nhưng
khi sửa chữa lại, gia đình ông Hoà lại có một máng bê tông chòm qua phần đất
thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên buộc phá bỏ. Tuy nhiên,
Toà án cấp phúc thẩm vẫn chưa giải quyết ống nước do gia đình ông Hoà chôn.

- Tòa án: Tòa án nhân dân tối cao nhận định rằng quyết định buộc gia đình ông Hòa
phải tháo dỡ các công trình lấn sang phần đất của ông Hòa là có căn cứ. Hủy Bản án
dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt: Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-09-2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao

- Nguyên đơn: Ông Diệp Vũ Trê (Vợ là bà Châu Kim Thi)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Hậu.

- Loại tranh chấp: Lấn chiếm tài sản liền kề.

- Lý do: Ông Hậu đã lấn chiếm sang đất của gia đình ông Trê khoảng 185m2. Khi
ông Trê yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết thì ông Hậu đã chặt phá một số
cây kiểng của gia đình ông Trê. Ông Trê, bà Thi khởi kiện yêu cầu ông Hậu phải trả
lại diện tích đất đã lấn chiếm và bồi thường số cây kiểng cho gia đình ông Trê.

- Quyết định của tòa án: Tòa án nhân dân tối cao nhận định rằng có căn cứ xác định
ông Hậu đã lấn đất của ông Trê. Hội đồng thầm phán Tòa án nhân dân tối cao đã
quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm; giao lại hồ sơ
vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh CM giải quyết xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật.

3.1 Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc
quyền sử dụng của ông Trê, bà Thi và phần lấn cụ thể là bao nhiêu ?

Trong Quyết định số 23, đoạn cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử
dụng của ông Trê, bà Thi là:
“Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m 2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống cho ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây
dựng nhà (52,2m2) thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị
quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.”
“Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2m2 nêu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai máng
xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện
tích 10,71m2 chưa được Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xem xét buộc
ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và
bà Thi là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trê và bà Thi”.
“Mặc khác, theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và theo khiếu nại của ông Trê,
thì ngoài căn nhà nằm trên diện tích 52,2m 2 Toà án các cấp giao cho ông Hậu sử
dụng, còn có một căn nhà phụ có diện tích 18,57m 2 của ông Hậu xây dựng trên diện
tích đất mà Toà án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà Thi nhưng Toà án
các cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành án.”

3.2 Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang
đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông
Trụ, bà Nguyên?
Đoạn trong Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất thuộc
quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên là “Khi sửa chữa lại nhà gia đình
ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và chôn dưới đất một ống thoát
nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê
tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của ông Trụ, bà Nguyên nên quyết
định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ.”.

3.3 BLDS có quy định nào điều chỉnh về việc lấn chiếm đất, lòng đất và không
gian thuộc quyền sử dụng đất của người khác không?

Trong BLDS 2015 có Điều 174 và Điều 175 điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất
và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác. Cụ thể là:

Điều 174 BLDS 2015: “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng”.

Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải
tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao,
khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất
động sản liền kề và xung quanh.

Điều 175 BLDS 2015: “Ranh giới giữa các bất động sản”

1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ
30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là
kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh
giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng
từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm
ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất
thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây , cành
cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.

3.4 Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào? Nếu ít
nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Căn cứ vào Điều 992 BLDS Quebec “Nếu việc lấn chiếm là đáng kể, gây thiệt hại
nghiêm trọng hay là được tiến hành một cách không ngay tình thì chủ sở hữu bất
động sản bị lấn chiếm có thể hoặc buộc người lấn chiếm nhận bất động sản của
mình và thanh toán giá trị hoặc buộc phải tháo dỡ phần xây dựng và khôi phục lại
tình trạng ban đầu.”. Như vậy, khi một người lấn chiếm không ngay tình thì chủ sở
hữu được yêu cầu họ tháo dỡ. Ở đây, sự ngay tình của người lấn chiếm là điều kiện
tiên quyết để không phải tháo dỡ. Điều đó có nghĩa là nếu bị phản đối mà vẫn lấn
chiếm thì theo pháp luật nước này người lấn chiếm thì theo pháp luật nước này
người lấn chiếm phải tháo dỡ phần lấn chiếm.
Cách 2
Ở nước ngoài, cụ thể là pháp luật nước Pháp với BLDS Napoleon việc lấn chiếm
được xử lý nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia, đế đảm bảo tính hợp lý
và công bằng. Cụ thể:13
- Điều 671: “Chỉ được phép trồng những cây to, cây nhỡ, cây nhỏ gần giới hạn đất
láng giềng theo khoảng cách được xác định theo những quy định cụ thể hiện hành
hoặc những thông lệ được thừa nhận. Nếu không có những quy định hoặc thông lệ
thì cây mọc cao trên 2 mét phải trồng cách đường giới hạn phong cách hai bất
động sản là 2 mét, đối với các cây trồng khác là nửa mét”.
- Điều 673: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền buộc bên hàng xóm phải cắt bỏ các
cành cây mọc vươn sang đất của mình. Nếu hoa quả ở các cành cây tự nhiên rụng
xuống thì chủ sở hữu đất bị cành cây vươn sang được hưởng. Nếu rễ cây hoặc cành
nhỏ mọc vươn sang đất người khác thì người đó có quyền cắt những rễ và cành cây
nhỏ đó đến giới hạn đường phân chia của hai bên. Quyền được cắt rễ cây và cành
nhỏ hoặc quyền được yêu cầu bên hàng xóm cắt các rễ cây, cành cây củacác cây to,
cây nhỡ, cây nhỏ không thể bị thời hiệu tiêu diệt".
- Điều 675: “Chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ hoặc lỗ cửa
vào bức tường chung di bằng bất cứ cách nào, kể cả khi có lắp kính mờ, trừ trường
hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề bên kia đồng ý"
- Điều 681: “Chủ sở hữu bất động sản phải lắp đặt mái nhà sao cho nước mưa
chảy vào đất nhà mình hoặc đường công cộng, không được để nước mưa chảy vào
đất của bên hàng xóm".
Như vậy, ta có thể thấy chủ sở hữu bất động sản nếu có hành vi lấn chiếm dù vô
tình hay cố ý sang bất động sản bên cạnh thì đều phải tháo dỡ, cắt bỏ nếu chủ sở
hữu bất động sản bên kia yêu cầu. Vì theo pháp luật Pháp thì “không ai có thể bị ép
buộc chuyển nhượng tài sản của mình cho dù việc lấn chiếm là lớn hay nhỏ, trừ khi
vì lợi ích công cộng".
3.5 Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn
sang không gian, mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?

Theo quyết định 617: “Ngày 25/5/1995 UBND tỉnh Trà Vinh cấp giấy phép số
11/GPUBT cho phép gia đình ông Hoà được xây dựng nhà 2 tầng ( theo thiết kế )”
Ngày 3/10 /2002, UBND tỉnh Trà Vinh cấp giấy chứng nhận cho gia đình ông hoà
được quyền sử dụng 184m2 đất thuộc thừa số 76, tờ bản đồ địa chính 5. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm và Toàn án cấp phúc thẩm xác định gia
đình ông Hoà làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông hơi lấn qua phần đất thuộc
quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên quyét định buộc ông Hoà phải
tháo dỡ là có căn cứ.

Tuy nhiên , Toà án sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hoà
phải tháo dỡ. Đây là không đúng vì nó không đảm bảo được quyền lợi của gia đình
ông Trụ.

3.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.

Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý.
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thửa đất số 53 của gia đình ông Trụ, bà
Nguyên liền kề với thửa đất số 76 của gia đình ông Hòa. Trong quá trình sửa chữa
lại nhà, ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và chôn dưới đất một
ống thoát nước nằm phía ngoài tường nhà, lấn sang phần đất của gia đình ông Trụ,
bà Nguyên. Vậy, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao buộc gia đình ông
Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt đất và lòng đất của gia
đình ông Trụ, bà Nguyên phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 265 Bộ luật dân sự
2005: “Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo
chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây
dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng
đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.” Mặc khác, dưới lòng đất sát tường
nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa chôn, nhưng Tòa án sơ thẩm và
Tòa án phúc thẩm không buộc ông Hòa tháo dỡ là chưa đảm bảo được quyền lợi của
gia đình ông Trụ và bà Nguyên cho nên việc yêu cầu xét xử lại đối với vụ án trên
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý và đúng pháp luật.

3.7 Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu
tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2)?
“Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m 2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống cho ông Trê bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng
nhà (52,2 m2) thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử
dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.”

3.8 Ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên không?

Ông Trê có biết ông Hậu làm nhà cơ bản trên diện tích đất tranh chấp nhưng không
có ý kiến gì.

3.9 Nếu ông Trê, bà Thi biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông
Hậu có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi không ? Vì
sao ?

Năm 1994, ông Hậu nhận chuyển nhượng một phần diện tích đất của anh Trần
Thanh Kiệt, đồng nghĩa ông có quyền sử dụng, chiếm hữu đối với mảnh đất đó.
Nhưng khi sang nhượng, cả hai bên chỉ lập giấy tay, không ký giáp ranh và chủ đất
cũng chỉ chỉ ranh giới cho ông. Theo Điều 127 Luật Đất đai 2003 quy định về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất:

“1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định như sau:
Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban
nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng
nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình,
cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

2. Trong thời hạn không quá mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp
lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, gửi hồ sơ
cho cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.

Trường hợp các bên chuyển nhượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà nghĩa vụ
tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo
quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo cho các
bên chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính.

Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ
tài chính, các bên tham gia chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ”.

Do cả hai bên chỉ lập giấy tay, không ký giáp ranh, không có công chức nên thực
chất ông Hậu vẫn không có quyền được sử dụng miếng đất này và miếng đất này
vẫn thuộc về ông Trê, bà Thi. Chính vì vậy nếu ông Trê, bà Thi biết và phản đối thì
ông Hậu phải tháo dỡ phần lấn chiếm của mình căn cứ theo Điều 259 BLDS 2005:

Điều 256. Quyền đòi lại tài sản


“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người
sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản
đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường
hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng
Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này”.

3.10 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
phần đất ông Tân lấn chiếm và xây dựng nhà trên.

Theo em, hướng giải quyết của Toà là hợp lý vì dù sao về mặt pháp lý, miếng đất đó
vẫn thuộc quyền sở hữu của ông Trê, bà Thi, ông Hậu đã xâm chiếm bất hợp pháp
nên buộc phải trả lại và thanh toán chi phí. Thế nhưng hướng giải quyết chỉ hợp lý
xét về góc độ các quy định của pháp luật vì ngoài ra, gia đình ông Trê cũng đã từng
chứng kiến việc ông Hậu xây nhà cơ bản trên mảnh đất nó nhưng lại không hề có
phản hồi, cũng như có thể ông Hậu không hiểu rõ và nghĩ rằng ông đã được chuyển
nhượng phần đất đó nên ông mới sử dụng và xâm chiếm như thế. Vì vậy để ông
Hậu trả đất và bồi thường thêm chi phí cũng có phần hơi thiệt thòi cho ông Hậu.

3.11 Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông
Trê, bà Thi được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho
câu trả lời?

Theo Toà án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả thì giao cho ông Hậu
sử dụng nhưng ông Hậu phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê, bà
Thi.

“ Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m2 đã lấn chiếm nhưng là đất trống
cho ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng đã lấn chiếm nhưng đã xây dựng
nhà (52,2m2 ) thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.”
3.12 Đã có quyết định nào cua Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như
Quyết định số 23 liên qua đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không?
Nêu rõ Quyết định mà anh/chị biết.

Bản án Số 08/2019/DS-PT ngày 09/05/2019 về tranh chấp đất đai theo


quy định của pháp luật.

Nguyên đơn: Ông Lê Mạnh H và bà Nguyễn Thị H

Bị đơn: Vũ Huy H1 và Vũ Thị Loan.

Loại tranh chấp: tranh chấp đất đai

Lý do: Tại đơn khởi kiện ngày 23/02/2017 vợ chồng ông H kiện ông Huy H1 và bà
Loan phải trả lại 1,5m2 đất đã lấn chiếm KT: phía Bắc là 0,20m, phía Nam là đỉnh
chữ A, phía Đông giáp đất của gia đình ông H là 15m, phía Tây giáp đất của gia
đình ông H1 là 15m). Ngày 19 tháng 01 năm 2018, ông H, bà H nộp đơn bổ sung
yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông H1, bà L phải trả lại phần đất
đã lấn chiếm ở phía sau có diện tích 0,75m2 (KT dài 5m, rộng 0,15m), buộc ông
H1, bà L phải dỡ bỏ phần xây dựng đã lấn chiếm để trả lại cho gia đình ông H, bà H
2,25m2 đất

Quyết định của Toà án nhân dân thành phố Tam Điệp: Không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Lê Mạnh H và bà Nguyễn Thị H về việc: Buộc ông Vũ Huy H1,
bà Vũ Thị L phải trả 2,25m2 đất đã lấn chiếm; Ông Lê Mạnh H và bà Nguyễn Thị H
phải chịu chi phí tố tụng là 7.895.000 đồng; Ông Lê Mạnh H phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm là 150.000 đồng

Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm: Bác yêu cầu kháng cáo của ông Lê Mạnh H
và bà Nguyễn Thị H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2018/DS-ST ngày 31 tháng
10 năm 2018; Ông Lê Mạnh H và bà Nguyễn Thị H là người cao tuổi nên được
miễn nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm

Bản án 05/2020/DS-PT ngày 17/01/2020 về tranh chấp ranh giới đất của Toà án
nhân dân tối cao tỉnh Long An.

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Kim O.

Bị đơn: Ông Dương Văn M.

Bà O có thửa đất số 561, diện tích 750m2 giáp ranh với thửa đất 549 của ông Dương
Văn M, có diện tích 2,110m2. Trong quá trình sử dụng, ông M và vợ là bà L đã lấn
chiếm của bà một phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 13,7m2 thuộc một
phần thửa 561. Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông M
phải trả lại phần đất đã lấn chiếm là 13,7m2. Bà đồng ý tự nguyện dỡ bỏ các trụ cột
xi măng và hàng rào bằng lưới B40 trên phần đất có diện tích 3,6m2 thuộc một phần
thửa 549. Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2019/DS-ST ngày 18-10-2019 của Tòa án
nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An đã xử: Buộc ông Dương Văn M và Phan
Thị Kim L trả lại cho bà Huỳnh Kim O tổng diện tích 13,7m2 đất. Nhưng tại phiên
phúc thẩm, Toà không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Kim O,
tại phần quyết định ghi rõ:

“Xác định đường ranh giới đất giữa thửa 561 của bà Huỳnh Kim O (Cạnh phía Tây)
với thửa 549 của ông Dương Văn M (Cạnh phía Đông) là 01 đường thẳng nằm giữa
phần đất có vị trí B3, B4 và A2 (hiện do ông M trực tiếp quản lý sử dụng) và phần
đất có vị trí A3, B2 cùng phần còn lại của thửa 561 (hiện do bà O trực tiếp quản lý,
sử dụng) có chiều dài 35,5m (14,6m + 0,4m + 5,5m+ 5,1m + 4,2m + 5,7m = 35,5m)
tính từ Lối đi công cộng 1,2m kéo vào đến hết phần giáp ranh tại vị trí A2 và A3. Vị
trí cụ thể được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 01TAT-2019 ngày 02/5/2019
của Công ty TNHH đo đạc Nhà đất Hưng Phú, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai tại huyện Cần Đước duyệt ngày 03/5/2019.

Các đương sự có quyền, nghĩa vụ liên hệ các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về
quản lý đất đai để kê khai, đăng ký, điều chỉnh lại phần ranh giới giữa 02 thửa đất
549 và 561, tờ bản đồ số 5, ấp 1A, xã Tân Trạch, huyện Cần Đước, tỉnh Long An,
phần diện tích đất đang trực tiếp quản lý sử dụng đã được xác định trong bản án, để
được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 5 Điều 98,
Điều 99 Luật Đất đai năm 2013”.

3.13 Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán
trong Quyết định số 23 được bình luận ở đây.
- Mặc dù có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất của ông Trê nhưng theo lời khai
của ông Hậu “sau khi sang nhượng xong ông đã làm nhà cơ bản trên diện tích đất
đang tranh chấp, lúc ông xây nhà ông Trê không có ý kiến gì”. Ở đây có thể thấy 2
lí do mà Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ căn nhà đã xây. Thứ nhất, trong lúc
ông Hậu xây dựng ông Trê không lên tiếng phản đối, cũng không báo cơ quan chức
năng có thẩm quyền. Thứ hai, cân nhắc về lợi ích kinh tế thì việc buộc ông Hậu tháo
dỡ ngôi nhà đã xây dựng là không nên, và để bảo vệ lợi ích kinh tế của hai bên thì
Tòa án yêu cầu ông Hậu trả lại phần đất đã lấn chiếm còn phần đất ông Hậu cũng
lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh
toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.

Mặc dù Hội đồng thẩm phán không viện dẫn bất cứ văn bản nào khi cho rằng hướng
giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm là hợp tình, hợp lí nhưng với các lí lẽ trên thì
có thể thấy đây là một hướng giải quyết mang tính sáng tạo và hợp tình.

Ngoài ra, Hội đồng thẩm phán cũng đề cập đến phần chiếm không gian 10,71m2 và
cho rằng việc Tòa các cấp chưa xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh
toán phần giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của ông Trê và bà Thi. Đồng thời, Hội đồng thẩm phán cũng đề cập
đến căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2. Tòa án các cấp chưa xem xét để giải quyết.

Vì các lẽ trên, theo quan điểm của tôi, hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán trong Quyết định số 23 là thuyết phục.

3.14 Đối với phần chiếm không gian 10,7m2 và căn nhà phụ có diện tích
18,57m2 trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc
tháo dỡ không.

Phần chiếm không gian 10,71m2 chưa được Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm
xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất
cho ông Trê và bà Thi.
Căn nhà phụ có diện tích 18,57m2 của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất mà Tòa
án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê và bà Thi nhưng Tòa án các cấp cũng
chưa xem xét giải quyết.

Tóm lại, Tòa án các cấp không buộc tháo dỡ.

3.15 Theo anh/chị thì nên xử lí phần lấn chiếm không gian 10.71m 2 và căn nhà
phụ trên như thế nào?

Theo em, nên xử lí phần lấn chiếm không gian theo 2 hướng.

Trong không gian 10.71m2 có hai máng xối đúc bê ông chiếm khoảng không trên
phần đất của ông Trê và bà Thi.

Thứ nhất, nên buộc gỡ bỏ nếu như không gây ảnh hưởng, thiệt hại lớn với bên
chiếm.

Thứ hai. nếu thiệt hại lớn thì bên chiếm phải thanh toán giá trị sử dụng đất cho bên
bị chiếm nhằm duy trì công trình đang hiện hữu.

Ở trong quyết định số 23, không có quyết định cụ thể rõ ràng về việc buộc gỡ bỏ
phần chiếm trên mảnh đất của ông Trê và bà Thi, nhưng ở đây, hành vi vi phạm là
lấn chiếm sử dụng đất và không gian của người khác là rất rõ ràng. Do đó, nên
chấm dứt hành vi vi phạm bằng cách buộc tháo dỡ công trình đang lấn chiếm.

3.16 Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không
gian ở Việt Nam hiện nay.

Dựa theo bản án và tình hình thực tế, việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không
gian ở Việt Nam hiện nay được xử lý theo hai hướng: hoặc là buộc tháo dỡ các công
trình, trả lại nguyên vẹn phần đất và không gian đã lấn chiếm hoặc là bị phạt tiền,
phạt tù và thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho chủ sở hữu.

Về việc buộc tháo dỡ, đây là hướng giải quyết hợp lí và có căn cứ pháp lí;
Về việc phạt tiền, phạt tù và thanh toán giá trị quyền sử dụng đất thì đây là hướng
giải quyết sát với thực tiễn nhất nhưng cũng phát sinh một số đề như dẫn đến sự tùy
tiện trong lấn chiếm.

3.17 Hướng giải quyết của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với
BLDS 2015 không? Vì sao?

Điều 169 BLDS 2015 quy định: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm
dứt hành vi đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.” Cũng tương tự như Điều 259
BLDS 2005, do đó việc yêu cầu phải chấm dứt hành vi đó là có căn cứ pháp lí
nhưng chưa có quy định cụ thể về việc không tháo dỡ mà phải thanh toán giá trị
quyền sử dụng đất cho chủ sở hữu. Tòa án các cấp đã đề cập tới việc xem xét buộc
ông Hậu tháo dỡ khoảng không gian đã lấn chiếm nhưng quyết định cuối cùng là
không chấm dứt hành vi vi phạm mà ông Hậu phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trê và bà Thi. Quyết định này cho thấy sự sáng tạo, hợp lý và còn phù
hợp với BLDS 2015.

*********************
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ


Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa

- Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam, Chị Trần Thanh Hương

- Loại tranh chấp: Tranh chấp thừa kế tài sản

- Lý do tranh chấp: Tranh chấp tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 3/2018
đến thời điểm xét xử do ông Hòa đang quản lý; tiền cho thuê lán bán hàng của năm
2017, 2018 do chị Hương quản lý.

- Quyết định của tòa án: Chia cho ông Hòa số tài sản tổng trị giá 2.220.664.000đ;
diện tích đất 38,4m2 ông Hòa có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế; chia cho anh Nam số tài
sản tổng trị giá 4.207.001.000đ; diện tích đất 47,1m2 anh Nam có nghĩa vụ liên hệ
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa
vụ thuế; ông Hòa quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chia cho chị Hương
quyền sở hữu số tiền thuê 30.000.000đ; buộc anh Nam thanh toán chênh lệch về tài
sản cho ông Hòa số tiền 1.880.412.000đ.

Tóm tắt án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Gia đình ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G sinh được 6 người con là Phùng Thị
H1, Phùng Thị N1, Phùng Thị P, Phùng Thị H2, Phùng Văn T, Phùng Thị N2. Vợ
chồng ông N và bà G sinh sống trên mảnh đất 398m2 đất tại khu L, phường M,
thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1984, ông N chết trước khi chết không để lại di
chúc, bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn T quản lý, sử dụng nhà đất trên. Năm
1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K một phần diện tích đất
trên với diện tích 133,5m2, còn lại diện tích 267m2. Sau đó bà G bàn bạc muốn chia
một phần diện tích đất cho chị H1, tuy nhiên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
anh Phùng Văn T giữ và anh không đồng ý trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho bà G và chia đất theo ý nguyện của mẹ. Sau khi bà G mất năm 2010, khối tài
sản trên vẫn do anh T quản lý và sử dụng nên từ ngày 02/04/2011, nguyên đơn
Phùng Thị H1, Phùng Thị N1, Phùng Thị P, Phùng Thị H2 khởi kiện bị đơn Phùng
Văn T đệ đơn gửi Tòa án về việc yêu cầu đòi lại di sản thừa kế.

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 573/2013/DS-GĐT ngày 16/12/2013
của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế tài
sản” tại tỉnh Vĩnh Phúc giữa nguyên đơn là chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị N1,
chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P với bị đơn là anh Phùng Văn T; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan gồm chị Phùng Thị N2, chị Phùng Thị H3.

Vị trí án lệ: Đoạn 2 phần “Nhận định của Tòa án”.

Tình huống án lệ: Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa
kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển
nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các
đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.

Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không
còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển
nhượng.

Tóm tắt Quyết định số 573/2013/DS-GĐT: Ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là
vợ chồng có 6 người con. Trong thời gian hôn nhân có tạo lập tài sản chung là ngôi
nhà cấp cùng công trình phụ trên diện tích đất 398m2. Năm 1984, ông Phùng Văn N
chết, không để lại di chúc, bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn T quản lý và sử dụng
nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
131m2 đất, còn lại 267m2. Năm 1999, Bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn K được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất mà mỗi người đang sử
dụng. Tháng 03/2010, bà Phùng Thị G lập di chúc để lại 90m2 đất cho chị Phùng
Thị H1. Sau khi bà Phùng Thị G chết, vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử
dụng toàn bộ khối tài sản trên. Các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản
thừa kế theo di chúc của bà Phùng Thị G, phần còn lại chia theo quy định của pháp
luật.

1.1 Ở Việt Nam, di sản là gì và bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Điều 658 tài sản của người quá cố

Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

Nghĩa vụ của người quá cố không bao gồm trong di sản mà nằm độc lập với di sản.

Nghĩa vụ tài sản người chết để lại được điều chỉnh theo Điều 615 BLDS năm 2015.
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 615 BLDS năm 2015 quy định: “Những người hưởng thừa
kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để
lại, trừ trường hợp thỏa thuận khác.”

1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới không là di sản vì theo quy định thì:

Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời
điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bô luật này”.

Có nghĩa là tại thời điểm mở thừa kế thì tài sản của người quá cố đã trở thành di
sản. Nên nếu tài sản cũ bị thay thế bằng tài sản mới thì không phù hợp với ý chí của
người quá cố. Đồng thời, Bộ luật Dân sự cũng không có quy định về điều này nên
khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản
mới sau đó thì tài sản mới không là di sản.

Cách 2

Tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản
mới thì tài sản mới đó có thể được coi là di sản trong trường hợp việc thay thế là do
nguyên nhân khách quan tác động. Ví dụ: Thời điểm A chết, A là chủ sở hữu một
mảnh đất thì đất đó là di sản của A. Sau đó, Nhà nước thu hồi đất và đền bù một
khoảng tiền thì tiền đó là di sản của A thay thế cho mảnh đất. Tài sản mới thay thế
cho tài sản của người quá cố để lại khi bị một nguyên nhân khách quan tác động,
điều này bảo vệ được quyền lợi của những người được hưởng thừa kế.

Trong trường hợp tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu mà
người quá cố để lại thì lúc này tài sản mới sẽ không được coi là di sản thừa kế. Vì
việc thay thế tài sản mới do người chiếm đoạt gây ra nằm ngoài ý chí của người để
lại di sản và sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người thừa kế.

1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý
để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”

Theo khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013:

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp
vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và
trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này.”
Vì vậy, theo nguyên tắc, quyền sử dụng đất của người người quá cố cần phải
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì người sử dụng đất mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong đó có cả
quyền để lại di sản thừa kế.

Việc thiếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ gây khó khăn trong việc
thực hiện quyền. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc bị tước bỏ quyền sử
dụng đất.

Theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm
phán về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự,
hôn nhân và gia đình, tại tiểu mục 1.3 mục II:

“1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có
một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1
này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ
sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các
công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh
doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi
hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá,
cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng
đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn
liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.”

Do đó, đất của người chết để lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng có văn bản của Ủy ban nhân dân chứng nhận việc sử dụng đất là
hợp pháp thì theo yêu cầu Tòa án vẫn xác định đây là di sản thừa kế.

1.4 Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của
bản án có câu trả lời?

Trong Bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là di sản.

Trong Bản án số 08 có đoạn: “Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất,… Do đó, đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà Mai,
chỉ có điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không
xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát không
được Hội đồng xét xử chấp nhận. Các phần đề nghị khác của đại diện Viện kiểm sát
tại phiên tòa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử xem xét để quyết định.”

Di sản thừa kế là BDS đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng

Các đồng thừa kế khác biết và ko phản đối việc chuyển nhượng đó

Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế

Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án
số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.

Hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.

Gia đình của ông Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một
phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích đất
chưa được cấp giấy chứng nhận này đã được hộ ông Hòa quản lý, sử dụng ổn định
nhiều năm, không có tranh chấp với các hộ liền kề. Đất này thuộc diện được cấp
giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Vì vậy, sau khi nộp thuế, ông
Hòa và bà Mai vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với diện tích đất này. Việc Tòa
án vẫn xác định diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
di sản là đúng pháp luật và đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự.

1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?

Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N
là 133,5m2. Vì trong tổng diện tích 398m2 đất thì đã chuyển nhượng 131m2 đất cho
ông Phùng Văn K. Còn lại 267m2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G
nên được chia mỗi người một nửa là 133,5m2.
1.7 Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?

Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản vì phần đất tổng 398m2 là tài sản chung của 2 vợ chồng
ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G, nhưng bà G đã chuyển nhượng quyền sử
dụng đất lại cho ông Phùng Văn K với diện tích là 131m2. Việc chuyển nhượng này
các con của bà G đều biết nhưng không phản đối và cơ quan nhà nước cũng đã cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà G với diện tích là 267,4m2 và cho ông K
với diện tích đất là 131m2. Như vậy, phần đất đã chuyển nhượng là 131m2 là tài sản
của ông K và khi bà G chết thì phần đất này không trở thành di sản của bà vì phần
đất đã chuyển nhượng đó không phải là tài sản riêng hay tài sản chung với người
khác của bà G, căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”

Trong Án lệ đoạn văn thể hiện câu trả lời là: “Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa
đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng
Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà
Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này.
Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng
Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G
có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông
Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng
Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp
phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K
vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng
diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là
không đúng.”
1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.

Hướng giải quyết của Án lệ trên là hợp lý khi quyết định không đưa 131m2 đất đã
bán cho ông K vào phần di sản để chia thừa kế. Vì toà án đã nhận định rằng việc bà
Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K là để lo cho cuộc sống của
bà và các con, đồng thời các con bà của bà đều biết nhưng không ai phản đối gì.
Ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do
đó, có cơ sở để xác nhận các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà chuyển nhượng
phần diện tích đất nêu trên cho ông K. Vậy nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà G và ông K là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không
còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển
là ông K. Lúc này, ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131m2 đất căn
cứ theo Điều 223 về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng như sau: “Người
được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp
đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài
sản đó.”

1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng G thì số tiền đó có được coi là di
sản để chia không? Vì sao?

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng tiền
đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền dó được coi là di sản để chia vì:

Đây là vấn đề được bỏ ngõ trong án lệ, nếu trường hợp này xảy ra thì phương án
tốt nhất là lấy số tiền chuyển nhượng 131m 2 cho ông K thế vào vị trí di sản đã được
định đoạt và số tiền đó được đưa vào khối tài sản để chia thừa kế, phương án này đã
được Tòa án nhân dân tối cao áp dụng để giải quyết vấn đề thông qua một số vụ án.
Hoặc có thể giải quyết bằng cách lấy số tiền bà G đã chuyển nhượng 131m2 đất cho
ông K trừ vào tài sản riêng của bà G trong khối tài sản chung, bởi vì tổng tài sản của
vợ chồng bà G là 398m2 đất thì ông N và bà G mỗi người được hưởng 199m2 đất,
sau khi chuyển nhượng 131m2 đất thì khối tài sản riêng của bà G còn lại là 68m2
đất.

1.10 Nếu bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?

Nếu bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên là
152,57m2 đất.

Vì ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị
G, tuy nhiên tài sản này được hình thành trong thời gian hôn nhân nên phải xác định
là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G. Bà Phùng Thị
G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trên tổng diện tích 267m2 đất chung của
vợ chồng bà. Ông Phùng Văn N trước khi chết không để lại di chúc nên theo điểm a
khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định: “ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Vì vậy, số tài
sản mà ông N để lại sẽ chia cho những đồng thừa kế khác bao gồm bà G và 6 người
con. Nên số tài sản mà bà G được hưởng là 133.5+ 133,5/7= 152.57m2 đất.

1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số
16 không? Vì sao?

Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là
không thuyết phục vì di sản của ông N để lại sau khi mất là 267m 2 : 2 là 133,5m2
đất, vì ông N trước khi mất không để lại di chúc nên tiến hành chia thừa kế theo
pháp luật. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 651 quy định về Người thừa kế theo pháp
luật: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết” nên số tài sản bà G nhận được ngang hàng với các
đồng thừa kế khác là 133,5 :7 =19,07m2 đất. Vậy phần di sản bà G để lại khi đã trừ
đi phần diện tích đất bà cho chị H1 là: 133,5 m2 + 19,07 m2 - 90 m2 = 62,57 m2
Đây không phải nội dung của Án lệ số 16 vì nội dung của án lệ là công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng
thừa kế chuyển nhượng.

1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?

Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là
không thuyết phục. Vì phần đất 43,5m2 đất còn lại là phần di sản được chia theo
pháp luật, phải chia đều cho 6 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong đó có
chị Phùng Thị H1 bên cạnh được hưởng di sản theo di chúc còn được hưởng di sản
theo pháp luật, việc chị được hưởng di sản từ bà Phùng Thị G không ảnh hưởng đến
quyền thừa kế của chị nên việc Tòa án quyết định như vậy không đảm bảo quyền lợi
cho chị Phùng Thị H1.

Đây không phải nội dung của Án lệ số 16 bởi vì nội dung của Án lệ xoay quanh
việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do
một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Hay nói cách khác là việc chuyển
nhượng đất cho ông K, các con của bà G đều biết và không phản đối gì, bà Phùng
Thị G bán đất để lo cho cuộc sống của bà và các con và ông K đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN


Tóm tắt bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
- Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H
- Bị đơn: Anh Phạm Tiến N
- Loại tranh chấp: Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế.
- Lý do tranh chấp: Ông Đ và bà T là bố mẹ của nguyên đơn và bị đơn, khi còn sống
có tạo dựng được một khối tài sản gồm 311m2 đất và 1 gian nhà gỗ 4 gian. Ông Đ
và bà T chết, không để lại di chúc và cũng không giao quyền quản lý di sản cho ai.
Ông Thiện là người trực tiếp sinh sống tại nhà và đất sau khi bà T chết. Ông Hiệu
được anh chị em giao cho quản lý tài sản. Khi ông Hiệu thực hiện tu sửa nhà thì bị
anh Nghĩa cản trở. Ông Hiệu khởi kiện yêu cầu anh Nghĩa và ông Thiện không
được cản trở việc ông tu sửa căn nhà.
- Nhận định của Tòa án: Tòa án xác định ông Thiện là người quản lý di sản tạm thời
sau khi bà T chết vì không có di chúc để lại và chưa thỏa thuận chọn ai là người
quản lý. Đến khi ông Hiệu chấp hành án xong quay về, ông Hiệu được anh chị em
chọn là người quản lý di sản. Vì vậy, việc ông Thiện giao lại quyền quản lý di sản
cho con trai là anh Nghĩa là không có căn cứ.
- Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao
cho anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và
bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản.

Quyết định số 147/2020/DS-GĐT.


Chủ thể:
Nguyên đơn: Ông Trà Văn Đạm.
Bị đơn: Ông Phạm Văn Sơn Nhỏ.
Loại tranh chấp: Tranh chấp lối đi.
Lý do tranh chấp: Thửa đất 528 của gia đình ông Đạm nằm phía trong thửa đất 525
thuộc tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi, ông Nhỏ là người quản lý sử dụng.
Ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở một lối đi qua đất của ông
Ngót. Ông Đạm khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ và bà Chơi cùng những đồng thừa kế
khác cho mở lối đi qua đất của ông Ngót.
Nhận định của Tòa án: Thửa đất 525 là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi. Ông
Nhỏ chỉ là người quản lý di sản, phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà
Chơi, ông Nhỏ không có quyền định đoạt. Việc ông Nhỏ tự thỏa thuận cho ông Đạm
mở lối đi khi không được sự đồng ý của bà Chơi và các đồng thừa kế khác là không
hợp lý.
2.1 Trong bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không? Vì sao?

Trong bản án số 11, Tòa án xác định ông Phạm Tiến H là người có quyền quản lý
di sản của ông Đ và bà T. Việc xác định như vậy là hoàn toàn thuyết phục. Vì căn cứ
theo Điều 616 của BLDS 2015 “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong
di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”. Anh Phạm Tiến H được các
đồng thừa kế bao gồm các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đồng ý ủy quyền cho
anh đứng ra trông coi, quản lý, sửa chữa và tôn tạo lại. Nên việc tòa án xác định như
vậy là hoàn toàn thuyết phục.

2.2 Trong bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di sản.
Vì căn cứ theo khoản 2 Điều 616 của BLDS 2015 “Trường hợp di chúc không chỉ
định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di
sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho
đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”. Năm 2012, sau khi ông
Đ và bà T chết, trước khi đi chấp hành án, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh
sống tại nhà và đất và tiếp tục quản lí di sản của ông bà Đ và T.

2.3 Trong bản án số 11, việc tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản
lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong bản án số 11, việc tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản
là hoàn toàn thuyết phục. Vì căn cứ theo Điều 616 của BLDS 2015 “Người quản lý
di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
cử ra”. Trong quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện, những người còn lại ở
hàng thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản
của ông Đ bà T. Xét thấy các ông bà Hiệu, Liền, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng
lực hành vi dân sự, quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối
ép buộc, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Do đó việc tòa án giao cho anh Hiếu quyền quản lý di sản là hoàn toàn phù hợp.

2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản như trong bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Người quản lý di sản có quyền được tôn tạo, tu sửa di sản. Theo quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 thì người quản lý di sản có quyền “Được thanh
toán chi phí bảo quản di sản.” Theo đó, người quản lý di sản là anh Hiệu có quyền
được tôn tạo, tu sửa lại ngôi nhà mà cha mẹ anh để lại với mục đích bảo quản di
sản.

2.5 Khi quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong bản án số 11 ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Người quản lý di sản không có quyền giao lại cho người khác quản lý di sản. Căn
cứ vào điểm a khoản 2 Điều 617 Bộ luật Dân sự 2015:
“2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác.” Nghĩa là trong bản án số 11 này, ông Thiện,
người quản lí di sản là ông Thiện không được giao lại quyền quản lí di sản cho con
trai là cháu Nghĩa.

2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Xác định của Tòa án là thuyết phục. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 617 Bộ luật
Dân sự 2015 về nghĩa vụ của người quản lý tài sản: “Bảo quản di sản; không được
bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác,
nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản.” Thế nên người quản lý
không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di chúc.

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ


Tóm tắt án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản
Người để lại di sản thừa kế là bất động sản, là ông T đã chết trước ngày công bố
Pháp lệnh Thừa kế 30/8/1990. Tại thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm. BLDS số
9/205/QH13 đang có hiệu lực pháp luật. Trường hợp này phải xác định thời điểm
bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh thừa kế
ngày 30/8/1990. Thời hiệu chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của
BLDS số 9/205/QH13

Quyết định của Tòa Án: Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều
345 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Chấp nhận Kháng nghị số 73/2016/KN-
DS ngày 15-6-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự
phúc thẩm số 106/2013/DS-PT ngày 17-6-2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và hủy toàn bộ Bản án
dân sự sơ thẩm số 30/2012/DS-ST Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án
tranh chấp thừa kế tài sản và chia tài sản chung.

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27/03/2017 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản
và chia tài sản chung” ở Hà Nội giữa nguyên đơn là ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị
N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1.
Người đại diện cho các đồng nguyên đơn là bà Cấn Thị N2 và bị đơn là cụ Nguyễn
Thị L, ông Cấn Anh C. Người đại diện cho các đồng bị đơn theo ủy quyền là ông Lê
Hồng L. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 07 người.

Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 5, 6, 7 phần “Nhận định của Tòa án”.
Tình huống án lệ: Người để lại di sản thừa kế là bất động sản chết trước ngày công
bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/08/1990. Tại thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm,
BLDS năm 2015 đang có hiệu lực pháp luật.

Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/08/1990.
Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của BLDS năm
2015.

Tóm tắt Quyết định số 06/2017/DS-GĐT: Cụ Cấn Văn K và cụ Hoàng Thị T có 8


người con. Trong quá trình chung sống, cụ K và cụ T tạo lập được tài sản chung trên
diện tích 612m2 đất. Sau khi cụ T chết, cụ K kết hôn với cụ L. Năm 2002, phần đất
612m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ cụ Cấn Văn K.
Sau khi cụ K chết, khối tài sản do cụ L và ông Cấn Anh C quản lý. Các đồng
nguyên đơn là con của cụ K và cụ T yêu cầu chia di sản chung của cụ T để là và
chia di sản thừa kế của cụ K theo quy định của pháp luật.

3.1 Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.

BLDS 2015 quy định về thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế tại Điều 623, cụ thể có 3
khoản:

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản
thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế
đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3.2 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?

Theo khoản 1 Điều 623 và điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015, thời
hiệu yêu cầu chia di sản của cụ T là 30 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Theo khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/08/1990, đối với việc thừa
kế mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thì thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế được
tính từ này ban hành Pháp lệnh.

Trong trường hợp của bản án trên, thời điểm mở thừa kế đối với di sản của
cụ T là ngày 30/08/1990, thời hiệu yêu cầu chia di sản là 30 năm. Vì vậy, thời hiệu
chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn.

Đoạn tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời:

“[7] Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa
án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu
đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong
trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn
còn theo quy định của pháp luật.”

3.3 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì
sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản. Theo Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định: “Thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm
đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về
người thừa kế đang quản lý di sản đó.” Tòa án đã nhận định ở đoạn 7: “Căn cứ quy
định tại Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự
năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các
đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.”
Việc áp dụng này là thuyết phục,vì BLDS 2015 là căn cứ chính xác và hợp lí nhất,
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn và pháp luật.

3.4 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục
không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công
bố chưa có cơ sở văn bản.

Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản
là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa
kế” và BLDS lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu từ thời điểm mở thừa kế nhưng không đề
cập đến việc mở thừa kế trước khi ban hành Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 thì
có áp dụng thời điểm mở thừa kế hay kể từ ngày công bố pháp lệnh trên.

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 là thuyết
phục. Vì nội dung Án lệ là sự kết hợp giữa BLDS 2015 và khoản 4 Điều 36 Pháp
lệnh thừa kế 1990. Như vậy, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản
thừa kế từ ngày Pháp lệnh thừa kế năm 1990 công bố ngày 10/9/1990. Với quy định
trên thời hiệu chia di sản thừa kế vẫn còn, được Tòa án kéo dài thêm nhằm mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế.

3.5 Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.

Án lệ số 26 này đã giải quyết được hai vấn đề pháp lý liên quan đến thời hiệu yêu
cầu chia di sản, áp dụng thời hiệu mới cho những thừa kế được mở trước ngày
BLDS có hiệu lực.

Một vài điểm sai sót của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

+ Việc dẫn khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Đoạn [6]: “Theo quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với giao dịch dân
sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp
dụng theo quy định của Bộ luật này.” và khoản 1 Điều 688 nêu trên áp dụng đối với
“ Giao dịch dân sự”. Bộ luật Dân sự 2015, “Điều 116. Giao dịch dân sự “Giao dịch
dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Nhưng trong vụ án tranh chấp “thừa kế tài sản
và chia tài sản chung” mà HĐTP đang xem xét không có “Giao dịch dân sự” nào cả
vì đây là thừa kế theo pháp luật chứ không phải theo di chúc.

+ Việc dẫn tới khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990, nhưng lại bỏ
quên Nghị quyết số 02/1990/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một
số quy định của pháp lệnh thừa kế 1990, theo đó tại Nghị quyết 02 đã quy định rõ
như sau:“10. Về thời hiệu khởi kiện:

Khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định Điều 36 của Pháp lệnh
Thừa kế cần chú ý như sau:

a) Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà công dân, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu
cầu Toà án bảo vệ lợi ích của mình. Quá thời hạn đó, họ không có quyền khởi kiện
nữa. Có hai thời hạn cho hai loại quyền khởi kiện khác nhau đã được quy định cụ
thể tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 36, khi áp dụng cần tránh nhầm lẫn.

b) Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện
được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:

– Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản,
xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác;

– Sau ngày 10-9-1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa
kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các chi phí từ di
sản.”

Nghị quyết 02 đã chốt rõ thời điểm quyền khởi kiện đối với các trường hợp mở
thừa kế trước ngày 10/09/1990 và đã thể hiện tính nhân văn, tính công bằng của
pháp luật áp dụng đối với các trường hợp mở thừa kế xảy ra trước thời điểm quan
hệ thừa kế có pháp luật điều chỉnh.
HĐTP lại áp dụng Điều 623 Bộ Luật Dân sự 2015 để hồi tố lại quyền khởi kiện
đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/09/1990 lại tạo ra sự bất công
bằng trong xã hội.

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

1. Bạch Thị Nhã Nam, “Những bất cập của các quy định pháp luật về quyền lợi có
thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Luật học, số 10/2018, tr. 17-25.
2. Bạch Thị Nhã Nam, “Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”,
Tạp chí Nghề luật, Số 5/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.32-37.
3. Ban biên tập Tạp chí Kiểm sát, “Kết luận trao đổi về bài viết “Lừa đảo hay cướp
giật tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 năm 2017, tr.54-56.
4. Bùi Ngọc Thanh, “Hoàn thiện các chế tài để công khai, minh bạch tài sản và thu
nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 12 (364)/Kỳ 2, tháng 6/2018, tr.35-40.
5. Bùi Thị Thanh Hằng, Nguyễn Anh Thư, “Ảnh hưởng của một số học thuyết pháp
lý đến chế định vật quyền trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, Số 1/2017, tr. 50-59.
6. Cao Anh Nguyên, "Di sản dùng vào việc thờ cúng- nhìn từ góc độ thực tiễn xét
xử và thi hành án (Kỳ 1)", Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2018, tr.39-41.
7. Cao Anh Nguyên, "Di sản dùng vào việc thờ cúng- nhìn từ góc độ thực tiễn xét
xử và thi hành án (Tiếp theo kì trước và hết)", Tạp chí Tòa án nhân dân số 2/2018,
tr.41-42.
8. Cao Thị Kim Trinh, “Bình luận các sai sót trong quá trình kê biên, xử lý tài sản
thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại”, Tạp chí Nghề luật,
Số 09/2020 - Năm thứ Mười Lăm, tr.57-60.
9. Châu Thị Vân, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được
chủ sở hữu”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 1/2018, tr. 33-42.
10. Chu Thị Thanh An, “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ của tổ
chức tín dụng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2019, tr. 25.
11. Đặng Ngọc Dư, “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án dân sự đối
với việc thu hồi tài sản về tham nhũng, thu hồi tài sản cho nhà nước, việc thi hành
án có liên quan đến tổ chức tín dụng”, Tạp chí Kiểm sát, số 24 năm 2017, tr.33-40.
12. Đặng Phước Thông, “Đăng ký quyền sở hữu căn hộ chung cư theo yêu cầu và
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số
3/2020, tr. 37-49.
13. Đặng Thu Hà, “Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam và một số nước
trên thế giới”, Tạp chí Nghề luật, Số 5/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.85-90.
14. Đinh Văn Quế, “Một số vấn đề về tội ‘Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản’
quy định trong Bộ Luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 năm 2017,
tr.42-47.
15. Đinh Văn Quế, “Phân biệt một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài sản”, Tạp
chí Kiểm sát, Số 03/2021, tr.17-22.
16. Đỗ Lường Thiện, “Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài
sản”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2017 - Năm thứ Mười Hai, tr.71-73.
17. Đỗ Ngọc Bình - Vũ Minh Giám, “Bùi Xuân N phạm tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 14-2017, tr.37-38.
18. Đỗ Thị Hải Yến, “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có vô hiệu hay không
khi không đăng ký giao dịch bảo đảm”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 24-2017, tr.41-
44.
19. Đỗ Thu Huyền, “Thu hồi tài sản tham nhũng: kinh nghiệm quốc tế và giá trị
tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 20 (348)/Kỳ 2, tháng
10/2017, tr.55.
20. Đỗ Văn Chinh, “Thừa kế - Thời hiệu thừa kế và thực tiễn", Tạp chí toà án nhân
dân số 11/2017, tr.27 - 30
21. Đỗ Văn Chỉnh, “Thừa kế-thời hiệu thừa kế và thực tiễn”, Tạp chí Toà án nhân
dân, số 11-2017,tr. 27-30.
22. Đoàn Thị Phương Diệp, “Cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu theo Bộ luật
Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 17 (341)/Kỳ 1, tháng 9/2017,
tr.42-47.
23. Đoàn Thị Phương Diệp, “Pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận và các kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, số 02/2017,
tr. 3-12.
24. Đoàn Thị Phương Diệp, Nguyễn Thị Vy Quý, “Mối quan hệ giữa quyền hưởng
dụng và quyền sở hữu tài sản dưới góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Số 20(420) - T10/2020, tr.3-9.
25. Đoàn Văn Bình, “Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bất động sản du lịch ở Việt
Nam”, Tạp chí Luật học, số 07/2019, tr. 13-19.
26. Dương Anh Sơn, “Bảo lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối kháng với người thứ
ba”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 2/2018, tr. 19-25
27. Dương Thị Hải Yến, “Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 18-2017,
tr.27-29.
28. Hồ Thị Vân Anh, “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong
tương lai”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.56-62.
29. Hoàng Giang Linh, “ Thẩm quyền về bất động sản theo pháp luật công chứng,
chứng thực”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.52-55.
30. Hoàng Nam Hải, “Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn
– Điểm mới quan trọng của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018”, Tạp chí Nội
chính, số 69, tháng 8/2019, tr.29.
31. Hoàng Nam Hải. “Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức
vụ, quyền hạn và kiến nghị sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, Số 19 (347)/Kỳ 1, tháng 10/2017, tr.29-36
32. Hoàng Thị Hải Yến, “Về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình trong giao
dịch thế chấp tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 11/2020, tr.41-46.
33. Hoàng Thị Loan, “Điều kiện pháp lý về người lập di chúc”, Tạp chí Luật học, số
09/2019, tr. 43-55.
34. Hoàng Thị Loan, “Những vấn đề lý luận về di chúc và hiệu lực của di chúc”,
Tạp chí Luật học, số 03/2018, tr. 31-41.
35. Hoàng Thị Việt Anh, “Chế định cầm cố tài sản trong Bộ Luật Dân sự 2015 và
bàn luận về cầm cố tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng”, Tạp chí Pháp luật và Thực
tiễn, Số 43/2020, tr.12-20.
36. Huỳnh Văn Sáng, “Bàn về tính lãi suất cho vay tài sản là vật”, Tạp chí Tòa án
nhân dân online, 16/4/2021.
37. Lê Đăng Doanh, “Bàn về hành vi đồng phạm trong tội tham ô tài sản qua một
vụ án thực tế”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1-2021, tr.41-43.
38. Lê Duy Tường, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 17(tháng 9/2019), tr.25- 30.
39. Lê Minh Thành, “Xử lý tài sản thế chấp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng”
Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 38/2019, tr. 78-86.
40. Lê Quang Thắng, "Nguyên nhân và giải pháp hạn chế mức độ ẩn của tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản", Tạp chí Kiểm sát số 14/2018, tr.40-43.
41. Lê Quang Thắng, “Khó khăn trong phát hiện, điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của lực lượng Cảnh sát kinh tế”, Tạp chí Kiểm sát, số 06 năm 2017, tr.53-56.
42. Lê Thị Giang, "Quyền đối với bất động sản liền kề trong Bộ luật Dân sự năm
2015", Tạp chí Kiểm sát số 16/2018, tr.12-18.
43. Lê Thị Giang, “Nhận diện hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của pháp
luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 09/2018, tr. 14-22.
44. Lê Thị Giang, “Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, Tạp chí Luật học,
số 03/2018, tr. 92-104.
45. Lê Thị Luyến, “Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sở
hữu tài sản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tr.3-8.
46. Lê Thị Ngọc Mai, “Kiểm soát đầu cơ bất động sản trong bối cảnh thu hút đầu tư
tại Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số đặc biệt/2019, 42-56.
47. Lê Thị Thảo, “Định giá tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân
hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 03/2020, tr. 67-79.
48. Lê Văn Định, “Một số đặc điểm về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn Tây Nguyên”, Tạp chí Kiểm sát, số 05 năm 2017, tr.45-50.
49. Lê Văn Quang, "Về điều kiện bảo vệ người thứ ba ngay tình khi mua được tài
sản bán đấu giá", Tạp chí Kiểm sát số 17/2018, tr.23-27.
50. Lê Vĩnh Châu - Ngô Khánh Tùng, “Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng
trong doanh nghiệp qua một vụ án ly hôn”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7-2021,
tr.1-8
51. Lò Thị Việt Hà, "Bình luận Điều 355 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản", Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2018,
tr.1-2.
52. Mai Thị Lệ Quyên, “Nhận diện tội phạm tham ô tài sản trong lĩnh vực ngân
hàng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh”, Tạp chí Toà án nhân dân, số
10-2017, tr.21-24.
53. Ngô Hoàng Oanh, Phạm Quỳnh Lan, “Một số vấn đề về biện pháp phong tỏa tài
sản của người có nghĩa vụ theo Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghề
luật, Số 5/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.61-68.
54. Ngô Quốc Chiến, “Bất khả kháng và nghĩa vụ hoàn trả tài sản”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, Số 08(408)/Kỳ 2, tháng 4/2020, tr.51-55.
55. Ngô Thị Ánh Vân, Đặng Lê Phương Uyên, “Thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 6/2019, tr. 24-36.
56. Ngô Văn Lượng, “Vướng mắc về định giá tài sản trong vụ án hình sự”, Tạp chí
Kiểm sát, Số 06/2021, tr.35-39.
57. Nguyễn Đình Phước, “Tiền ảo có thể được xem là tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Số 21(421) - T11/2020, tr. 20-26.
58. Nguyễn Hà Thanh, “Khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng - kinh
nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
11(411)/Kỳ 1, tháng 6/2020, tr.59.
59. Nguyễn Hoài Thanh, Phạm Thị Thúy Hồng, “Thế chấp quyền tài sản phát sinh
từ hợp đồng mua bán nhà ở - Pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2018
- Năm thứ Mười Ba, tr.46-51.
60. Nguyễn Hồng Hải, "Tiếp cận mới, cơ bản về quyền đối với tài sản trong Bộ luật
Dân sự năm 2015", Tạp chí Kiểm sát số 13/2018, tr. 15-21.
61. Nguyễn Minh Hằng, Bùi Nguyễn Phương Lê, “Bàn về thi hành án có thay đổi
giá tài sản tại thời điểm thi hành”, Tạp chí Kiểm sát, Số 07/2020, tr.27-33.
62. Nguyễn Minh Hằng, Nguyễn Thị Thu Hà, “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
về thừa kế tài sản”, Tạp chí Nội chính, Số 79(7/2020), tr.24-28.
63. Nguyễn Ngọc Anh Đào và Nguyễn Đức Tĩnh, “Ngân hàng có được nhận thế
chấp đối với tài sản có bảo lưu quyền sở hữu không?”, Tạp chí Toà án nhân dân
online 15/9/2020.
64. Nguyễn Ngọc Điện, “Những điểm mới về quyền sở hữu và các quyền khác đối
với tài sản trong BLDS 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 7 (335)/Kỳ 1,
tháng 4/2017, tr.13-15.
65. Nguyễn Ngọc Điện, “Tiêu chí nhận diện và hệ quả pháp lý của việc chiếm hữu,
sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, Số 2+3(402+403)/kỳ 2 tháng 1 và kỳ 1 tháng 2/2020, tr.36-
42.
66. Nguyễn Ngọc Điện, “Xác định tài sản thế chấp theo tinh thần Bộ luật Dân sự
năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 2+3 (378+379)/Kỳ 1 tháng 2/2019,
tr.34-44.
67. Nguyễn Ngọc Huy, “Bàn về hiệu lực của hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận đối
tượng vay là ngoại tệ”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6-2021, tr.7-9
68. Nguyễn Nhật Huy, “Hạn chế phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm
2015 - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số
40/2019, tr. 51-58.
69. Nguyễn Nhật Khanh, “Bảo đảm sự thống nhất trong các quy định về biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8 (360)/Kỳ 2, tháng 4/2018, tr.41-50.
70. Phan Trung Hiền - Chử Duy Thanh, “Pháp luật về lập vi bằng đối với bất động
sản”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 24(400)/Kỳ 2, tháng 12/2019, tr.41-
46.
71. Hoàng Thị Loan, “Người lập di chúc và điều kiện luật định đối với người lập di
chúc”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 17 (393)/Kỳ 1, tháng 9/2019, tr.44 - 52.
72. Phan Thị Lan Phương, “Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát thu
nhập, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 8
(377)/Kỳ 2, tháng 4/2019, tr.32-37.
73. Nguyễn Phan Diệu Linh, “Định dạng chương trình truyền hình - Tài sản trí tuệ
mới cần được bảo hộ”, Tạp chí Luật học, số 08/2017, tr. 67-76.
74. Nguyễn Phương Anh, “Xử lý vật chứng vụ án hình sự là tài sản thế chấp”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 1(401)/Kỳ 01, tháng 01/2020, tr.50-56.
75. Nguyễn Phương Thảo, " Hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế quyền tác
giả", Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2019, tr.30-36.
76. Nguyễn Phương Thảo, “Quyền thừa kế của người thành thai và sinh ra sau thời
điểm thừa kế”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 20-2017, tr.1-5.
77. Nguyễn Phương Thảo, Huỳnh Quang Thuận, “Hoàn thiện quy định của pháp
luật về quyền từ chối nhận di sản”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 37/2018, tr.
86-95.
78. Nguyễn Quý Khuyến, “Về sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 09/2020,
tr.37-42.
79. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm
phạm - Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số
8/2017, tr. 34-40.
80. Nguyễn Thanh Phúc, “Quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu theo quy định tại
Điều 167 và 168 Bộ luật dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 3/2020,
tr. 29-36.
81. Nguyễn Thanh Thư, “Hình thức di chúc miệng”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số
2/2020, tr.23-31.
82. Nguyễn Thanh Thư, Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Mối liên hệ của quyền về lối đi
qua và các chế định khác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Đất
đai năm 2013”. Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 5/2017, tr.49-55.
83. Nguyễn Thanh Tú, “Một số vấn đề pháp lý về quyền sở hữu tài sản từ góc độ tài
sản mã hóa trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” Tạp chí Khoa
học Pháp Lý, Số 4/2020, tr.1-14.
84. Nguyễn Thế Đức Tâm – Lê Bảo Khanh, “Thừa kế theo pháp luật giữa anh chị
em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha”, Tạp chí Toà án nhân dân online,
09/4/2020.
85. Nguyễn Thị An Na, “Một số vấn đề cần lưu ý khi luật sư tham gia giải quyết
tranh chấp về quyền đối với tài sản”, Tạp chí Nghề luật, Số 6/2019 – Năm thứ Mười
Bốn, tr23-29.
86. Nguyễn Thị Hạnh, Vũ Thị Hương, “Bình luận các sai sót trong giải quyết một
vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, Tạp chí Nghề luật, Số 5/2019 - Năm thứ
Mười Bốn, tr.59-62.
87. Nguyễn Thị Hồng Vân, “Một số vấn đề về người làm chứng cho việc lập di
chúc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 2(335)-2020, tr.15- 9.
88. Nguyễn Thị Hường, “Bảo vệ quyền đối với bất động sản liền kề ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2019 - Năm thứ Mười Bốn, tr.12-16.
89. Nguyễn Thị Hường, “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6-2020, tr.18-24.
90. Nguyễn Thị Lan, “Quản lý, định đoạt tài sản chung của vợ chồng – nghiên cứu
so sánh pháp luật của Việt Nam với pháp luật của Pháp”, Tạp chí Pháp luật và thực
tiễn, số 36/2018, tr. 52-62.
91. Nguyễn Thị Long, “Nâng cao công tác xét xử tranh chấp hợp đồng vay tài sản”,
Tạp chí Nội chính, Số 79(7/2020), tr.36-40.
92. Nguyễn Thị Mỹ Linh, “Tài sản hình thành trong tương lai theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 4/2017, tr. 27-32.
93. Nguyễn Thị Nhung, “Bàn về thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Số 4/2017, tr. 33-35.
94. Nguyễn Thị Thu Hồng, “Đấu giá tài sản công bằng hình thức bỏ phiếu trực tiếp
tại cuộc đấu giá”, Tạp chí Nghề luật, Số 6/2019 - Năm thứ Mười Bốn, tr.72-79.
95. Nguyễn Thị Thu Trang, Châu Thanh Quyền, “Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
về tài sản đối với người thứ ba khi ly hôn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
12(345) - 2020, tr.50 - 54.
96. Nguyễn Thị Thúy, Lê Minh Khoa, “Quyền hưởng dụng - Từ góc độ pháp luật
dân sự Pháp đến kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số
8/2017, tr. 26-33.
97. Nguyễn Thị Trâm, “Kinh nghiệm kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp
thừa kế”, Tạp chí Kiểm sát, số 02 năm 2017, tr.60-63.
98. Nguyễn Thùy Trang, “Bình luận về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại và đảm bảo quyền đòi tài sản từ một vụ án cụ thể”, Tạp chí Nghề luật, Số
3/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.66-71.
99. Nguyễn Văn Hợi, “Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ Luật dân sự năm 2015
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra”, Tạp chí Luật học, số 07/2017,
tr. 27-39.
100. Nguyễn Văn Hợi, Giáp Minh Tâm, “Hoàn thiện quy định về bảo lưu quyền
quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số
2/2019, tr. 12-17.
101. Nguyễn Văn Tiến, "Quyền khởi kiện của Chấp hành viên trong việc xác định,
xử lý tài sản chung để thi hành án dân sự", Tạp chí Tòa án nhân dân số 2/2018,
tr.30-32.
102. Nguyễn Văn Vân, “Tài sản và sở hữu - Kinh nghiệm pháp luật Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 4/2020, tr. 31-44.
103. Nguyễn Viết Giang, “Bàn về vấn đề thừa kế và thừa kế thế vị giữa con riêng và
bố dượng, mẹ kế theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Toà án nhân
dân, số 7-2020, tr.23-24.
104. Nguyễn Viết Giang, “Thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015”, Tạp chí Nghề luật số 5/2017, tr. 3-7; 13
105. Nguyễn Viết Giang, Lê Nguyễn Thị Ngọc Lan “Quan điểm và bình luận từ một
số vụ án thừa kế”, Tạp chí Nghề luật số 5/2017, tr. 99 - 100.
106. Nguyễn Viết Giang, Lê Nguyễn Thị Ngọc Lan, “Quan điểm và bình luận từ
một vụ án thừa kế”, Tạp chí Nghề luật, Số 5/2017 - Năm thứ Mười Hai, tr.99-100.
107. Nguyễn Vinh Diện, “Hoàn thiện pháp luật về bồi thường cho đồng quyền sở
hữu đất, đồng sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 39/2019, tr. 17-24.
108. Nguyễn Vinh Hưng, “Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc”, Tạp chí Kiểm sát, Số 02/2021, tr.38-41.
109. Nguyễn Võ Linh Giang, “Điểm mới, điểm hạn chế của chế định hợp đồng vay
tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015 và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, số
08/2017, tr. 11-23.
110. Nguyễn Xuân Bình-Lê Thị Xuân, "Một số lưu ý khi giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015", Tạp chí Tòa án nhân dân
số 7/2018, tr.28-32.
111. Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Hồ Bích Hằng, “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số
5/2017, tr. 3.
112. Phạm Minh Tuyên, “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm theo
Bộ luật Hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19- 2017, tr.20-23.
113. Phạm Minh Tuyên, “Vướng mắc trong việc định tội và định khung hình phạt
với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2020, tr.44-48.
114. Phạm Thị Hằng, “Tặng cho tài sản có điều kiện và 1 số vướng mắc từ thực
tiễn”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 5-2017, tr. 15-18.
115. Phạm Thị Huệ, “Những tác động của hệ thống pháp luật về kiểm soát tài sản,
thu nhập đến công tác phòng, chống buôn bán động vật hoang dã trái pháp luật”,
Tạp chí Nội chính, Số 82(10/2020), tr.29-33.
116. Phạm Thị Thi, “Một số vấn đề về chế định thừa kế theo di chúc trong Bộ luật
Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2017, tr. 33-36.
117. Phạm Văn Lợi, “Một số tranh chấp phổ biến liên quan đến tình trạng pháp lý
của tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất từ thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm tại
Tòa án nhân dân tối cao”, Tạp chí Nghề luật, Số 09/2020 – Năm thứ Mười Lăm,
tr.3-6.
118. Phạm Xuân Việt, “Thực trạng công tác thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam,
nguyên nhân và một số giải pháp”, Tạp chí Nghề luật, Số 3/2018 - Năm thứ Mười
Ba, tr.25-33.
119. Phan Huy Hồng, “Bảo đảm sở hữu trong luật Đức”, Tạp chí Khoa học Pháp
Lý, Số 4/2020, tr.15-30.
120. Phan Thành Nhân, “Người thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự 2015”.
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 12/2020, tr. 39-45.
121. Phan Thị Văn Hương - Đặng Thị Phượng, “Áp dụng thời hiệu thừa kế đối với
di sản là bất động sản từ ngày 01/01/2017”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 15-2017,
tr.10-13.
122. Phùng Bích Ngọc, “Hoàn thiện quy định pháp luật về di chúc có điều kiện”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 11(344)-2020, tr.19-23.
123. Phùng Trung Tập, “Chế định tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí
Kiểm sát, số 03 năm 2017, tr.35-41.
124. Phùng Văn Hải, “Xác định các căn cứ pháp lý để tính toán lợi ích gắn liền với
việc sử dụng, khai thác một số loại tài sản”, Tạp chí Nghề luật, Số 10/2020 - Năm
thứ Mười Lăm, tr.28-33.
125. Quách Hữu Thái, “Một số vướng mắc, bất cập khi giải quyết các vụ án về chia
thừa kế và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1- 2021, tr.19-24.
126. Quách Hữu Thái, “Xác định di sản và phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật
Dân sự 2015 - một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Toà án
nhân dân, số 23-2020, tr.18-23.
127. Tạp chí Kiểm sát, “Trao đổi bài viết: “Lừa đảo hay cướp giật tài sản”, Tạp chí
Kiểm sát, số 11 năm 2017, tr.53-54.
128. Thiều Văn Thịnh, “Giải pháp hạn chế tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua
các nền tảng công nghệ số”, Tạp chí Kiểm sát, Số 23(tháng 12/2019),
tr.28-34.
129. Trần Hồng Minh Phượng, “Có công chứng thừa kế tài sản thế chấp được hay
không?”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 12(333)-2019, tr.52- 55
130. Trần Minh Ngọc, “Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu
tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 09/2018, tr. 59-66.
131. Trần Phương Thảo, “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế kê
biên tài sản chung”, Tạp chí Luật học, số 08/2019, tr. 83-92.
132. Trần Thị An Tuệ, “Các tiêu chí xác định hành vi chào bán cổ phiếu ra công
chúng theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 05/2019, tr. 93- 104.
133. Trần Thị Huệ, “Một số khía cạnh pháp lý về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, số 02/2020, tr. 22-
29.
134. Trần Thị Thu Hằng, “Cần xác định chính xác những điều kiện đặc thù của
người thừa kế bắt buộc trong giải quyết tranh chấp về thừa kế”, Tạp chí Nghề luật,
Số 10/2020 - Năm thứ Mười Lăm, tr.8-12.
135. Trần Văn Nam, “Nhận dạng một số bất cập về xác định giá trị tài sản của các
Startup ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 41/2019, tr. 54-63.
136. Trần Văn Trường, “Những điểm mới trong thủ tục giải quyết yêu cầu công
nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, Tạp chí Toà án
nhân dân, số 1-2017, tr.20-21.
137. Trần Vang Phủ, “Hoàn thiện chế định về thời hạn sở hữu nhà ở của cá nhân
nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 9/2019, tr. 28-32.
138. Trịnh Thục Hiền, “Bàn về chế định bảo lưu quyền sở hữu”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, Số 8/2019, tr.19.25.
139. Trịnh Tuấn Anh, Lê Khánh Tâm, “Quy định của pháp luật về đơn phương
chấm dứt hợp đồng thuê bất động sản và một số kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Số 02(426) - T1/2021, tr.44-49.
140. Trương Thị Diệu Thúy, “Một số suy nghĩ về quy định liên quan đến “vật
quyền” trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 3(331)/Kỳ 1,
tháng 2/2017, tr.22-27.
141. Từ Thị Ngân, “Một số lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp
hợp đồng vay tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 23(tháng 12/2019), tr.7-13.
142. Tưởng Duy Lượng - Phạm Thị Minh Ngọc, “Bình luận Án lệ số 19/2018/Al về
xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong tội "tham ô tài sản" và tình tiết định
khung”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 22-2020, tr.1-6.
143. Tưởng Duy Lượng, "Bàn về đăng ký biện pháp bảo đảm và xử lý tài sản bảo
đảm", Tạp chí Kiểm sát số 14/2018, tr.8-19.
144. Tưởng Duy Lượng, "Những nội dung cơ bản về hợp đồng vay tài sản trong Bộ
luật Dân sự năm 2015", Tạp chí Kiểm sát số 17/2018, tr.3-15.
145. Tưởng Duy Lượng, "Thế chấp tài sản - biện pháp bảo đảm thông dụng và một
số vấn đề cần lưu ý", Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2019, tr. 6-14.
146. Tưởng Duy Lượng, “Bàn thêm về áp dụng Điều 623, Điều 688 Bộ Luật Dân sự
2015 về thời hiệu thừa kế”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17- 2017, tr.27-31.
147. Tưởng Duy Lượng, “Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo quy
định của Bộ Luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 21-2017, tr.9-17.
148. Tưởng Duy Lượng, “Bình luận án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế
chấp”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1-2020, tr.14-19.
149. Tưởng Duy Lượng, “Cùng sử dụng di sản có là căn cứ chuyển hoá từ di sản
thành tài sản chung của người sử dụng?”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 16-2017, tr.1-
6.
150. Tưởng Duy Lượng, “Quy định của Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về
hưởng di sản theo thời hiệu”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 13 (341)/Kỳ 1,
tháng 7/2017, tr42-46.
151. Tưởng Duy Lượng, “Vai trò của đăng ký và cung cấp thông tin tài sản trong
giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại tại tòa án”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 14 (366)/Kỳ 2, tháng 7/2018, tr.36-42.
152. Tưởng Duy Lượng, “Về tính hợp lý của Khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số
04/2017/NQ-HĐTP”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1(353)-tháng 1/2018,
tr.33-37.
153. Tưởng Duy Lượng, “Vụ tranh chấp tài sản thừa kế và những vấn đề cần lưu ý
khi xét xử lại từ sơ thẩm”, Tạp chí Toà án nhân dân online, 07/8/2020.
154. Tưởng Duy Lượng,"Quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm
hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật trong Bộ luật Dân sự năm 2015",
Tạp chí Kiểm sát số 1/2018, tr. 44-50.
155. Võ Hoàng Khải, Võ Tuấn, “Bàn về xác định thiệt hại đối với tài sản bị xâm
phạm là di vật, cổ vật”, Tạp chí Kiểm sát, Số 07/2021, tr.54-57.
156. Võ Nguyễn Nam Trung-Lâm Thị Thu Thảo- Trần Thị Cẩm Nhung, "Di sản
dùng vào việc thờ cúng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015", Tạp chí Tòa
án nhân dân số 4/2019, tr. 21-24
157. Vũ Thế Hoài, "Pháp luật Việt Nam về đăng ký vật quyền và xác lập quyền đối
với tài sản", Tạp chí Kiểm sát số 17/2018, tr. 45-53.
158. Vũ Thị Hồng Yến, “Bình luận quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp
đồng tặng cho tài sản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 9/2018, tr. 36-43.
159. Vũ Thị Hồng Yến, “Thế chấp bất động sản hình thành trong tương lai - Bất cập
và giải pháp hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Luật học, số 03/2017, tr. 92-100.
160. Vũ Thị Thanh Huyền, “Hiệu lực của hợp đồng chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 6(339)- 2020, tr.48 -53.
161. Vũ Thị Thanh Huyền, “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp
đồng chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số 1(346)-2021, tr,12-17.
162. Vương Văn Bép, Nguyễn Thị Hồng Yến, “Những lưu ý trong kiểm sát việc
giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan đến các tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế”, Tạp chí Kiểm sát, Số
03/2021, tr.37-45.
BUỔI THẢO LUẬN 6: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC

I. HÌNH THỨC DI CHÚC:

Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên:
Đây là vụ việc tranh chấp di sản thừa kế giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu.

Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng.

Người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan.

Người kháng cáo.

Cụ thể như sau: Ngôi nhà mang số 27 đường Lê Lợi là tài sản sở hữu hợp pháp của
ông

Này, bà Trọng. Ngày 16/11/2008 ông Nguyễn Này qua đời. Trước khi qua đời, vào
ngày

19/12/2007 ông Nguyễn Này lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc
quyền sở

hữu chung của ông và bà Trọng cho Nguyễn Trung Hiếu là con riêng của ông Này,
được

cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên làm chứng. Ông Này đã lập di chúc
giao

toàn bộ cho ông Hiếu trong khi chưa có sự thỏa thuận của bà Trọng. Dẫn đến vụ
kiện

giữa các đương sự.

Tại phiên toàn, căn cứ bà kết quả tranh luận của các đương sự, Hội đồng xét xử
phúc

thẩm quyết định giữ nguyên như quyết định của bản án sơ thẩm. Tuyên xử bà Trọng
được
quyền sở hữu toàn bộ tài sản, nhà và đất. Đồng thời bà Trọng có trách nhiệm thanh
toán

lại cho ông Hiếu số tiền theo phần thừa kế được nhận theo di chúc.

Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao:

Đây là vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự là

Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang

Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Cụ thể như sau: Nhà, đất tranh chấp tại thôn Lê Xá là tài sản của tổ tiên cụ Đỗ Văn
Hằng

để lại cho vợ chồng cụ Hằng và cụ Đỗ Thị Hựu quản lí. Sau khi cụ Hằng chết vào
năm

1949, cụ Hựu tiếp tục quản lí nhà, đất đến khi cụ chết (năm 2005). Vào năm 2004,
năm

2005 bà Hoàng Thị Ngâm đại diện cho cụ Hựu đã đứng tên kê khai, đăng kí đối với
đất

tranh chấp. Đồng thời có xuất trình 01 bản di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội

dung cụ Hựu để lại tài sản nhà, đất cho bà Ngân và bà Lựu. Tuy nhiên, qua quá trình
xác

minh thì cụ Hựu là người không biết chữ.

Qua đó, Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm của
TAND

thành phố Hà Nội và hủy bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Đông Anh. Giao
hồ sơ

vụ án cho TAND huyện Đông Anh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp
luật.

Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 630, Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015:

“Người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn, sáng suốt vào
thời điểm lập di chúc. Để lập di chúc phải là người bình thường, không bị khiếm
khuyết thể chất liên quan đến các chức năng đọc, viết, nghe, nói, ký tên, điểm chỉ
( như câm, điếc, mù, cụt hai tay, mù chữ).”

Di chúc phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết tay bằng
chữ viết tay và tự mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc. Trường hợp người lập di
chúc đánh máy hoặc nhờ người khác viết hộ thì phải tuân theo quy định tại Điều
634 Bộ luật Dân sự 2015.

Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015, bất kỳ ai cũng có thể làm nhân chứng,
trừ những người sau đây: “ 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của
người lập di chúc; 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di
chúc; 3, Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự”.

Theo Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 người thừa kế theo pháp luật
được quy định sau đây:

“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;

b ) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột củ người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội cụ
ngoại.”

Người làm chứng cho di chúc của ông Này gồm cha, em gái, em trai ông
Này điểm chỉ và ký tên, xét thấy, người cha thuộc hàng thừa kế thứ nhất, em gái và
em trai thuộc hàng thừa kế thứ hai. Như vậy, họ là những người thừa kế hợp pháp
theo pháp luật nên việc họ điểm chỉ và ký tên làm chứng cho ông Này là không hợp
pháp.
Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì
sao?

Di chúc của ông Này là di chúc do ông tự viết tay.

Vì di chúc đã tuân thủ theo những quy định về hình thức được quy định tại
Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di
chúc”. Thêm vào đó, lúc lập di chúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.

Câu 4:Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.

Theo em, hướng giải quyết của Toà án liên quan đến hình thức di chúc của
ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay là hoàn toàn hợp lý. Theo Khoản
1 Điều 630, Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc là do ông tự viết tay khi lập di
chúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép và
có nhiều người làm chứng nên được coi là hợp pháp.

Câu 5: Di chúc của cậu Hựu đã được lập như thế nào?

Đối với di chúc đề ngày 25-11-1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình. Bà
Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ
Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau
đó ngày 04-01-1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là
trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu
trả lời?

Cụ Hựu không biết chữ.

Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 có câu: “Ông Quang xác định cụ
Hựu là người không biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?

Di chúc của người không biết chữ phải tuân thủ theo các quy định tại khoản
1 và khoản 3, Điều 630, Bộ luật Dân sự 2015 thì mới có hình thức phù hợp:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong lúc lập di chúc; không bị lừa dối,
đe dọa

hoặc cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội;

hình thức di chúc không trái quy định của luật.

3. Di chúc của người hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được

người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.

Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?

Các điều kiện đã được đáp ứng với di chúc của cụ Hựu là:

 Di chúc của cụ Hựu đã được làm chứng lập thành văn bản: Di chúc do
cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị
Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng…
 Di chúc của cụ Hựu đã có công chứng hoặc chứng thực: Ngày
04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là
Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
Câu 9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu.
Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là:

 Di chúc của ông Hựu chỉ có sự xác nhận của trưởng thôn Hoàng Văn
Thưởng và UBND xã Mai Lâm. Tuy nhiên, ông Hưởng không chứng
kiến cụ Hựu lập di chúc và UBND xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ kí của
ông Hưởng chứ không xác nhận nội dung di chúc.
 Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa
học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay trên bản di chúc
mờ, không hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.
 Không đủ căn cứ xác định di chúc trên là đúng với ý chí của cụ Hựu.

Câu 10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?

Theo em, di chúc nêu trên của cụ Hựu chưa thỏa mãn điều kiện hình thức vì:

Cụ Hựu là người không biết chữ (do ông Quang xác định), theo Khoản 3
Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 thì người không biết chữ phải được người làm chứng
lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, di chúc trên của cụ
Hựu không có sự chứng kiến của bên thứ ba và công chứng, chứng thực.

Dựa vào Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc phải thể hiện được ý chí
của cá nhân lập di chúc, nhưng trong trường hợp của cụ Hựu thì chưa đủ căn cứ để
xác định di chúc đó thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu.

Câu 11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.

Bản chất của các quy định này là rất tiến bộ và phù hợp với thực tiễn, xu
hướng phát triển của xã hội hiện nay. Vì chấp nhận bản đánh máy của di chúc chứ
không cứ bắt buộc phải thể hiện bằng bản viết tay. Việc người lập di chúc tự đánh
máy bản di chúc hoặc người đó nhờ đánh máy bản di chúc vẫn đảm bảo tính xác
thực của bản di chúc vì còn có sự tham gia của người làm chứng. Người làm chứng
là cơ sở cho việc khẳng định tính đúng đắn, tính xác thực của di chúc. Như vậy, có
thể thấy rằng pháp luật không hạn chế quyền tạo lập di chúc chủa người không biết
chữ.

II. TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC

Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013

Nguyên đơn là cụ Lê Thanh Quý

Bị đơn là ông Nguyễn Hữu Dũng, ông Nguyễn Hữu Lộc


Những người có quyền và nghĩa vụ liên quan về vụ án “Tranh chấp thừa kế”. Ngày
6/4/2009, cụ Hương chết, chia nhà đất số 302 cho 5 người con là ông Đức, ông
Nghĩa, ông Hiếu, ông Dũng và bà Kiều (vợ ông Trí) trong di chúc ngày 16/1/2009.
Nhưng cụ Quý yêu cầu chia tài sản làm 2 phần: 1/2 nhà bằng hiện vật, hưởng 2/3
suất thừa kế. Ông Dũng yêu cầu chia đúng theo di chúc, không đồng ý cho ông Lộc
hưởng diện tích di sản của cụ Hương. Nhưng ông Lộc yêu cầu được chia ½ căn nhà
vì không có chỗ ở. Tuy nhiên bà Hiếu không đồng ý cho ông Lộc hưởng di sản cụ
Hương. Còn ông Đức thì không thống nhất ý kiến với ý kiến của ông Dũng, yêu cầu
nhận phần di sản thừa kế theo di chúc ở phần bên trái từ ngoài nhìn vào. Cuối cùng,
Tòa quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy
bản án dân sự sơ thẩm số 162/2010/DS- ST ngày 11/08/2010 của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn cụ Lê
Thanh Quý với bị đơn ông Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Lộc, giao hồ sơ cho
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.

Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao Hà Nội về vụ án “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu”.

Nguyên đơn là ông Trần Văn Y

Bị đơn là Phòng công chứng M

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D1. Cụ Nguyễn Văn
D và cụ Nguyễn Thị C chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, hai
người có thửa đất số 38 là tài sản chung.Vì không có con với cụ C, cụ D chung sống
với cụ N và sinh ra ông D1 và sau đó cụ N cũng mất. Cụ C và cụ D lập di chúc để
lại phần tài sản là bất động sản tại thửa đất số 38 cho ông D1. Tuy nhiên, ông Y cho
rằng thửa đất này ông đã mua từ cụ C từ năm 1978. Việc Phòng công chứng M công
chứng di chúc của cụ D, văn bản công bố di chúc của hai cụ đã làm ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ông Y nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố các văn bản công chứng trên vô hiệu. Tuy nhiên, các tài liệu do ông Y xuất trình
chỉ có cụ C chuyển nhượng cho ông Y mà chưa có ý kiến của cụ D. Ngoài ra, trước
khi cụ C và cụ D mất thì thửa đất số 38 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-
UBND ngày 21/7/2010. Vì các lẽ trên, Tòa án quyết định giao hồ sơ cho Tòa án
nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy
định pháp luật, cụ thể là cần phải xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển
nhượng đất, bản di chúc do cụ D và cụ C lập cũng như Văn bản công bố di chúc
mới giải quyết triệt để vụ án.
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?

Cụ Hương đã định đoạt tài sản : định đoạt toàn bộ căn nhà và đất số 302
Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho các con là Nguyễn Ngọc
Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều.

Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy cụ Hương định đoạt tài sản là : “ Theo
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc nhà đất tại địa chỉ
25D/19 Nguyễn Văn Đậu ( nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú
Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ
Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ
nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,
Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều ( vợ ông Nguyễn Hữu Trí)”

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?

Trong Quyết định số 359 đoạn cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương : “ Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc
chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và
cụ Quý”

Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc ? Đoạn nào của Quyết định
số 359 cho câu trả lời ?

Tòa án đã công nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (1/2
nhà đất) cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật.

Đoạn cho thấy câu trả lời : “ Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của
cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương
( 1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều ( vợ
ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật;
còn 1/2 diện tích đất còn lại được chia cho cụ Quý; phần giá trị căn nhà theo kết
quả định giá của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Quý 1/2 và thêm 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa
kế theo di chức của cụ Hương là có căn cứ.”

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm.

Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý.

Cơ sở pháp lý:

 Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác”.
 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di
sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

Di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung thì
di sản được định đoạt là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý, nên Tòa án quyết
định chỉ công nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), phần di sản của cụ
được chia cho 5 người con theo giống phúc sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn hợp lý. Và cụ Quý được hưởng 1/2 tải sản nhà
đất trong phần tài sản chung của hai cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.

Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, nội dung của di chúc có giá trị pháp lý ở
phần chia đều nhà đất cho 5 người con và không phải chia 2/3 suất thừa kế theo
pháp luật cho cụ Quý. Tuy nhiên, di chúc vẫn không hợp lý ở phần cụ Hương định
đoạt hết tài sản chung.

Cơ sở pháp lý: căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 667 Bộ luật Dân sự 2005
quy định về “Hiệu lực pháp luật của di chúc” (điểm a khoản 2 Điều 643 Bộ luật
Dân sự 2015):

“2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường
hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc.”

Dựa theo di chúc của cụ Hương, cụ Hương đã tự định đoạt toàn bộ tài sản
chung của cụ và của cụ Quý, quyết định chia đều nhà đất cho 5 người con là chưa
hoàn toàn thuyết phục. Trong trường hợp cụ Quý chết trước, di chúc của cụ Hương
sẽ không bị mất giá trị pháp lý ở phần phải chia thêm cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế
theo pháp luật.

Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý
không? Vì sao?

Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý.

Cơ sở pháp lý: Điều 624 của Bộ luật Dân sự 2015: “Di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Di chúc được lập ra để cá nhân chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Vốn dĩ, cụ Hương đã có sẵn nửa phần tài sản trong phần tài sản chung với
cụ Quý, sau khi cụ chết thì phần tài sản đó sẽ được đem chia. Vì thế, di chúc ban
đầu của cụ Hương là sai vì cụ để lại toàn bộ căn nhà, nghĩa là cụ định đoạt cả phần
tài sản của cụ Quý trong khi đây là tài sản chung cả hai vợ chồng.

 Nếu như phần tài sản trong di chúc hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của
cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ sẽ hoàn toàn đúng
về mặt pháp lý.
Câu 7: Quyết định số 58 , đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết ?

Đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi
hai cụ chết là :

“ Ngoài di sản của cụ D , cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38 , tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208/QD - UBND ngày 21/7/2010 của
UBND thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất Đai nên 2 cụ có quyền
lập di chúc định đoạt tài sản cho ông D1 ”.

Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tóa án giám đốc thẩm xác
định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất ? Suy nghĩ của anh / chị về
hướng xác định vừa nêu của Tòa án giám đốc thẩm ?

Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất :

“ Quá trình giải quyết vụ án , Tòa án cấp sơ thẩm , Tòa án cấp phúc thẩm chưa
xem xét , đánh giá các tài liệu , chứng cứ do ông Y cung cấp và đánh giá hợp đồng
chuyển nhượng giữa ông Y và cụ C để từ đó xác định ông Y có quyền , lợi ích đối
với di sản là thửa đất số 38

Ngoài di sản của cụ D , cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38 , tờ bản
đồ số 13 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208/QD - UBND ngày 21/7/2010 của
UBND thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất Đai nên 2 cụ có quyền
lập di chúc định đoạt tài sản cho ông D1 ”.

Hướng xác định của Tòa là hoàn toàn hợp lí vì bảo vệ được quyền , lợi ích
hợp pháp của anh D1 trong di sản thừa kế .

Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi ? Suy nghĩ của anh /chị về hướng vừa nêu của Tóa giám đốc
thẩm .
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi :

“ Ngoài di sản của cụ D , cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38 , tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208/QD - UBND ngày 21/7/2010 của
UBND thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất Đai nên 2 cụ có quyền
lập di chúc định đoạt tài sản cho ông D1 ”.

Hướng giải quyết của Tòa là hợp lí vì thửa đất số 38 bị thu hồi nên hai cụ
vẫn có quyền lập di chúc định đọat giá trị quyền sử dụng đất cho ông D1.

III. DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

Tóm tắt bản án số 14/2017/DSST:

Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H

Bị đơn: anh Hoàng Tuyết H

Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Tháng 01/2016 ông X chết và
có để lại 1 bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/08/2015. Anh H, anh H2,
anh H3 không công nhận di chúc trên là hợp pháp. Bà H khởi kiện yêu cầu TA công
nhận di chúc chung của vợ chồng bà là hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của bàH phù
hợp quy định tại chương XXII của BLDS 2015. Trong quá trình giải quyết 12 vụ án,
các bên đương sự thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, không phải nằm điều trị
cho đến thời điểm trước khi chết. Nội dung của bản di chúc không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 Bộ luật
Dân sự 2015. Áp dụng Điều 627, Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 1, khoản 5
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quyết định: công nhận di chúc chung của ông
Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là hợp pháp, không chấp nhận yêu cầu của anh
Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X.

Câu 1:Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Pháp luật Đức ghi nhận di chúc chung của vợ chồng. Căn cứ theo quy định
tại Điều 2265 Bộ luật Dân sự Đức thì: “A joint will may be made only by spouses.”
tạm dịch là “Di chúc chung chỉ có thể được lập bởi vợ chồng”.

Câu 2: Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?

Điều 663 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: Di chúc chung của vợ chồng.

“Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.

Ông X, bà H làm di chúc chung của vợ chồng thể hiện việc định đoạt tài sản chung
phù hợp với điều luật nêu trên”.

Câu 3: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.

Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng Bộ
luật Dân sự 2015. Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 có Điều, khoản riêng quy định về
việc lập di chúc chung của vợ chồng như Bộ luật Dân sự 2005 ở Điều 663 nhưng
bản di chúc chung của vợ chồng vẫn có giá trị pháp lý ở Bộ luật Dân sự 2015 vì khi
Tòa án xét đến nội dung và các điều kiện khác được quy định ở Bộ luật Dân sự
2015 thì bản di chúc đó đạt đủ các điều kiện để trở nên hợp pháp. Đoạn của bản án
cho câu trả lời: “ Xét tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực:

Tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định di chúc hợp pháp:

1. Di chúc hợp pháp phải đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.” và “Công nhận
di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là
hợp pháp”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự 2015.

Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối
quan hệ với Bộ luật Dân sự 2015 là hợp lý. Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 không có
quy định cụ thể về trường hợp này như ở Bộ luật Dân sự 2005. Nhưng khi so với
các điều kiện để di chúc trở thành hợp pháp ở Bộ luật Dân sự 2015 thì:

1. Về người lập di chúc, ông X và bà H lập di chúc khi còn khỏe mạnh, minh mẫn,
không có sự ép buộc nào. Điều này được thể hiện ở bản án qua sự thừa nhận của các
bên đương sự, ông X luôn minh mẫn, tỉnh táo và không có vấn đề gì cho đến thời
điểm chết. Điều này phù hợp với Điều 630, khoản 1, điểm a của Bộ luật Dân sự
2015.

2. Về nội dung thì nội dung của bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật,
không trái với đạo đức xã hội phù hợp với Điều 630, khoản 1, điểm b Bộ luật Dân
sự 2015.

3. Về hình thức, phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 633 Bộ luật Dân sự
2015 về việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng. Cụ thể là bản di
chúc do chính tay ông X, bà H lập và tự ký xác nhận. Dựa theo kết luận giám định
số 1700/ KLGĐ ngày 28/8/2017 thì chữ ký đó chính xác là của ông X, còn việc chữ
ký của bà H không được giám định vì thời điểm xảy ra tranh chấp là thời điểm mà
bà H vẫn còn sống.

Như vậy, hướng giải quyết của Tòa án là hoàn toàn hợp lý mặc dù Bộ luật
Dân sự 2015 không có bất kỳ quy định nào về việc lập di chúc chung của vợ chồng
nhưng bản di chúc có đầy đủ các điều kiện cần về chủ thể lập di chúc, nội dung và
hình thức để là di chúc hợp pháp. Nên việc Tòa án công nhận bản di chúc chung của
ông X, bà H hợp pháp là hợp lý.

IV. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

Tóm tắt bản án số 211/2009/DSPT:

Nguyên đơn: anh Phan Văn Được


Bị đơn: anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương

Bà Nguyễn Thị Lùng có 7 người con là anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, anh Nhành,
chị Hoa, anh Được, chị Hương. Ngày 08/12/2005 bà Lùng chết. Tại tờ di chúc ngày
08/07/2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng
cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh
Được đồng ý chia di sản và giao lại cho anh Được sở hữu di sản. Căn cứ Điều 33,
179, khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 631, 632, 635,646, 647 và
khoản 2 Điều 305 BLDS; Điều 733, 734, 735 Luật Đất đai và Nghị định số 70/CP
quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn Được đối với anh Phan
Văn Tân và chị Phan Thị Hương về việc “tranh chấp di sản thừa kế”; giao cho anh
Được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà số 25 thị trấn Long Thành, huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai; anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa
kế cho anh Tân và chị Hương mỗi người 37.424.000đ.

Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Di sản được dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý trong những điều kiện:

 Di sản phải được người lập di chúc để lại một phần dùng vào việc thờ
cúng
 Di sản phải đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản.
Cơ sở pháp lý:

“Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng

1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không
thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.

Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?

Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc
thờ cúng:

“Tại tờ di chúc ngày 08/07/2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con

đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản,

hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở

hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.

Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?

Theo quy định tại điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 Tài sản của người chết phải
đủ để trả nghĩa vụ tài sản của người đó thì mới được dành phần di sản vào việc thờ
cúng. Và di chúc cũng không định đoạt toàn bộ di sản chỉ dùng vào việc thờ cúng.

Trong vụ việc đang nghiên cứu điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng
một cách hợp pháp là được thỏa mãn.

Cụ thể: Trong vụ việc không nói đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản của
bà Lùng nên có thể xem như nghĩa vụ đó không có hoặc đã được thực hiện xong và
phần tài sản bà Lùng để lại dùng vào việc thờ cúng là nhà đất, đây không phải toàn
bộ di sản của bà Lùng.

Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Những người đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng là: anh Thảo, anh
Xuân, chị Hoa, anh Nhành, anh Được và những người không đồng ý chia di sản
dùng vào việc thờ cúng là: anh Tân và chị Hương.
Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Ngày 08 tháng 07 năm 2004 mẹ anh
lập di chúc để lại nhà đất cho 7 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005
năm anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương
không đồng ý.”

Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng.

Đoạn của bản án cho câu trả lời là: “Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của anh Phan Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân, anh
Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”.”

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.

Các quy định thuộc chế định di sản dùng vào việc thờ cúng được đề cập
trong Bộ luật Dân sự nhìn chung là hợp lý, thuyết phục. Bởi vì chỉ khi có các chế
định về việc thờ cúng, ngăn chặn việc chia di sản vào việc thờ cúng để tránh trường
sẽ dẫn đến việc không còn nơi để thờ cúng ông bà, tổ tiên đảm bảo về mặt phong
tục tập quán của dân tộc.

Nhưng có quy định về chế định di sản dùng vào việc thơ cúng vẫn chưa rõ
ràng. Cụ thể là Khoản 3, Điều 648, Bộ luật Dân sự 2005 quy định người lập di chúc
để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng nhưng lại không nêu rõ một phần ở
đây là bao nhiêu và điều này sẽ tạo ra việc mỗi Toà án sẽ có cách xác định một phần
khác nhau. Do đó, cần có quy định cụ thể về việc này.

Giải pháp của Tòa án trong vụ việc này có phần chưa phù hợp với Bộ luật
Dân sự. Cụ thể căn cứ vào Khoản 1, Điều 670, Bộ luật Dân sự 2005 có quy định
phần di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế mà được giao cho một
người quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Ở đây Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của anh Được về việc chia di sản, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và
anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương.
Như vậy, giải pháp của Tòa án đã làm mất đi bản chất chỉ quản lý di sản để thờ cúng
mà không định đoạt nên chưa thỏa đáng so với quy định của Bộ luật Dân sự.

BÀI THẢO LUẬN 7: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Bài tập 1: Xác định vợ/ chồng của người để lại di sản:

Tóm tắt Bản án, Quyết định:

1. Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Toà phúc thẩm Toà án

nhândân tối cao Hà Nội;

Bản án số 20/2009/ DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Toà phúc thẩm Toà án nhân

dân tối cao Hà Nội về giải quyết vụ việc “tranh chấp chia thừa kế”. Với các đồng

nguyên đơn là: bà Nguyễn Thị Tiến, bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Triển đối

với ông Nguyễn Tất Thanh là bị đơn. Bố của các nguyên đơn và bị đơn là cụ

Nguyễn Tất Thái ( chết năm 1962) có 2 vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị Tần ( chết năm

1995), vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ ( chết năm 1992). Cụ Thát và cụ Tần có 4 người

con chung là: Nguyễn Thất Tăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn

Thị Triển. Cụ Thát và cụ Thứ có 1 ngừoi con là Nguyễn Thị Tiến. Ông Thăng

không công nhận cụ Thứ là vợ hai cụ Thát và bà Tiến là con cụ Thát. Nhưng ông

không đưa ra được giấy tờ chứng minh. Án sơ thẩm căn cứ vàolý lịch của bà Tiến
có xác nhận của chính quyền địa phương thì bà Tiến là con cụ Thát và là em ông

Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển cũng như xác nhận của họ hàng,

hàng xóm. Án phúc thẩm căn cứ vào sơ yếu lý lịch của bà Khiết có xác

nhận của Bí thư Ban chấp hành Đảng bộ xã Xuân La Ký ngày 05-7-1966 (bản

chính) có ghi: gì ghẻ Phạm Thị Thứ 45 tuổi; anh Nguyễn Tất Thăng 26 tuổi đi bộ

đội; em Nguyễn Thị Tiến 17 tuổi học sinh. Thời điểm mở thừa kế là vào các năm

1961 (cụ Thát chết), năm 1994 (cụ Thứ chết) và năm 1995 (cụ Tần chết). Di sản

thừa kế ở vụ tranh chấp này được xác định là nhà đất do các cụ Thát, cụ tần và cụ

Thứ để lại trừ đi phần công sức duy trì tôn tạo tài sản của gia

đình ông Thăng bằng 1/6 khối tài sản. Theo Toà án, tại phiên toà phúc thẩm ông

Nguyễn Phúc Thăng giữ nguyên đơn kháng cáo đề nghị huỷ án sơ thẩm với

ly do mẹ ông là bà Nguyễn Tần có để lại di chúc song Toà án cấp sơ thẩm lại giải

quyết chia thừa kế theo pháp luật. Quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân

tối cao Hà Nội là: chấp nhận đơn yêu cầu chia thừa kế của bà Nguyễn Thị Tiến, bà

Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Triển đối với ông Nguyễn Tất Thăng về việc yêu

cầu chia di sản thừa kế của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.

Tóm tắt Án lệ số 41/2021/AL:

Nguyên đơn là chị Trần Thị Trọng P1 (do bà Trần Thị S đại diện theo ủy quyền)

trình bày:

Năm 1969, ông T1 sống chung với bà T2 sinh được 02 người con (P2 và P3). Do

mâu thuẫn nên bà T2 đã bỏ đi và kết hôn với người khác. Năm 1985, ông T1 chung

sống với bà S có con chung là P1. Năm 1987, UBND thị xã K cấp cho ông T1

8.500m2 đất vườn tại phường Q, thị xã K. Năm 1993, ông làm đơn xin giao đất xây
dựng nhà ở, sau đó làm nhà ở trên phần đất được cấp đó. Năm 2000, ông T1 làm

đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà ở. Vào ngày 26/3/2003, ông T1 mất không để

lại di chúc, toàn bộ tài sản do anh P2 và P3 quản lý sử dụng. Ngày 08/10/2004, chị

P1 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của ông T1. Bà S cũng có đơn yêu

cầu chia tài sản chung giữa bà và ông T1.

Bà S trình bày: trong thời gian chung sống, bà và ông T1 đã tạo lập được khối tài

sản chung gồm: 01 ngôi nhà 36m2 trên diện tích đất 8.500m2, 01 xe máy Trung

Quốc, 02 máy bơm nước, 450kg cà ri, 05 con heo, 70 con gà, 22 con thỏ, 01 hồ cá,

01 tủ trà. bà S yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung giữa bà và ông T1, đồng

thời chia di sản thừa kế của ông T1 cho bà, chị P1, anh P2, anh P3 đối với diện tích

đất còn lại, kể cả diện tích đất mà anh P3 và anh P2 đã bán cho ông L và ông C.

Bị đơn là anh Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3 trình bày:

Tài sản trên là do ông T1 và hai anh tạo lập được, bà S không có công sức gì nên

không đồng ý chia cho bà S. về yêu cầu chia thừa kế cho chị P1 thì anh P2 và anh

P3 yêu cầu trưng cầu giám định ADN để xác định hàng thừa kế theo quy định của

pháp luật.

Câu 1.1: Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 quy định trường hơp thừa kế theo pháp luật

1.Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;


c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người

lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại

vào thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền

hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Câu 1.2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật
trong Bản án số 20.
Việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản án số là hợp lý vì trước

khi chết cụ Thát không để lại di chúc, ông Thắng không xuất trình được di chúc do

mẹ ông là bà Nguyễn Thị Tần để lại. Hơn nữa, các nguyên đơn cũng khẳng định là

chỉ có lời trăn trối của bà Tần nói với các con về việc chia đất do bà Bằng ghi lại

nhưng bị ông Thăng xé đi, do đó dẫn đến việc là không có di chúc. Vì vậy, áp dụng

Điểm a, Khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật

là hợp lý.

Câu 1.3: Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Vợ chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật thì

hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,

con nuôi của người chết. Hàng thừa kế thứ hai có cháu ruột của người chết,...
Câu 1.4: Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì
sao?
Cụ Thát và cụ Thứ không có đăng ký kết hôn trong Bản án số 20 vì cụ Thứ chỉ

ở nhờ tại gia đình cụ Thát và được cụ Thát xem như vợ hai chứ không có chứng cứ

nào chứng minh được cụ Thát và cụ Thứ là vợ chồng theo pháp luật quy định.

Câu 1.5 : Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trường hợp những người đó có tài sản chung hợp pháp, được tòa án công

nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế.

Cơ sở pháp lý: án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế.

Câu 1.6: Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào
trong Bản án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong Bản án số 20 ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ

Nguyễn Thị Tần (chết năm 1995).

Đoạn của bản án cho câu trả lời nằm trong phần trình bày của nguyên đơn:

“Bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm 1961) có 2 vợ, vợ cả là cụ Nguyễn

Thị Tần (chết năm 1995), vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (chết năm 1994)” hoặc trong

đoạn: “Cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là: Nguyễn Tất Thăng, Nguyễn Thị

Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển và cụ Thát và cụ Thứ có 1 người con là

Nguyễn Thị Triển”.


Câu 1.7: Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào
cuối năm 1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Mục 4 điểm a Nghị quyết 02/HĐTP/19/10/1990 - Về những

người thừa kế theo pháp luật quy định: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ

(trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối

với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật

được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ

đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không

bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người

thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế

hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”

Trong trường hợp của cụ Thát và cụ Thứ thì cả 2 người đang ở miền Bắc nên

nếu chỉ bắt đầu sống chung với nhau như vợ chồng mà không kết hôn vào cuối năm

1960 thì cụ Thứ không là người thừa kế của cụ Thát và ngược lại.

Câu 1.8: Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống
ở miền Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Mục 4 điểm a Nghị quyết 02/HĐTP/19/10/1990 - Về những

người thừa kế theo pháp luật quy định: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ

(trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối

với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật

được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ

đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không

bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người
thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế

hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”

Khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam thì cả 2 được xem như là vợ chồng

mà không cần phải đăng ký kết hôn và cả 2 đều được hưởng thừa kế hàng thứ nhất.

Câu 1.9: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa
kế của cụ Thát trong Bản án số 20.
Về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát trong Bản án số

20 là hoàn toàn hợp lý. Vì theo quy định tại mục 4 điểm a Nghị quyết

02/HĐTP/19/10/1990 - Về những người thừa kế theo pháp luật quy định: “Trong

trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật

Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày

công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối

với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy

thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật),

thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và

ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”.

Trường hợp cụ Thát và cụ Thứ ở chung với nhau như vợ chồng ở thời điểm trước

khi có luật Hôn nhân và gia đình 1960 thì việc 2 người sống chung như vợ chồng và

không đăng ký kết hôn thì vẫn hợp pháp và có quyền nhận thừa kế của cụ Thát. Như

vậy, việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hoàn toàn phù

hợp ở thời điểm đó khi xã hội còn theo chế độ phong kiến (trình độ dân trí còn thấp)

và hoàn toàn hợp pháp.


Câu 1.10: Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do
ông T1 để lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời.
Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S vẫn được hưởng di sản do ông T1

để lại.

Đoạn trong bản ấn thể hiện là :”Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với

ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con

chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên

được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ”.

Câu 1.11: Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của
ông T1 đối với bà T2 và bà S.
Việc Án lệ số 41/2021/AL xác định tư cách hưởng di sản của ông T1 đối với

bà T2 và bà S là hoàn toàn hợp lý. Vì ông T1 và bà T2 chỉ ở chung với nhau như vợ

chồng và đến năm 1982 thì bà T2 lấy ông D (không hề đăng ký kết hôn với ông T1)

thì việc bà T2 hưởng di sản của ông T1 là không thể vì cả 2 người không có quan hệ

hôn nhân hợp pháp, không còn nghĩa vụ với nhau từ lúc bà T2 đi. Còn với bà S thì

sống chung với ông từ 1985 cho đến khi ông T1 chết và có 1 con chung, có tài sản

chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản

chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là hoàn toàn có căn cứ. Nên việc

Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1 đối với bà T2 và bà S là hoàn toàn

phù hợp với pháp luật.

Bài tập 2: Xác định con của người để lại di sản:


Tóm tắt Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án

nhân dân tối cao:

Nguyên đơn: bà Phạm Thị Hồng Nga.


Bị đơn: ông Phạm Văn Tùng, bà Võ Thị Tinh.

Nội dung: Cụ Dung và cụ Cầu có một người con đẻ duy nhất là bà Nga.

Trước khi chết, cụ Dung và cụ Cầu không để lại di chúc nhằm định đoạt phần tài

sản gồm một ngôi nhà (hiện nay còn nền móng nhà) và các tài sản gắn với diện tích

đất 3.127m2 đất. Bà Nga vì không có điều kiện canh tác sử dụng nên năm 1976 giao

cho ông Tùng trông coi số tài sản trên, đồng thời ông Tùng cam kết khi bà Nga cần

sẽ trả lại. Trong quá trình quản lý, ông Tùng có xây dựng thêm nhà, cho anh Thanh

một phần đất để làm nhà trên tài sản đó. Nay bà Nga yêu cầu ông Tùng trả lại

nguyên trạng phần tài sản trên nhưng ông Tùng không đồng ý. Qua các lần điều tra

xét xử, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chỉ nhận định bà Nga cần phải trả thêm

công bảo quản tài sản. Đồng thời, vì chưa xác minh được thân phận con nuôi thực tế

của ông Tùng nên Tòa ra quyết định hủy toàn bộ hai bản án trước, giao xét xử sơ

thẩm lại.

Câu 2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
=> Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ theo

điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 quy định Những người đc thừa kế theo

pháp luật được quy định theo thứ tự: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha

đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”

Câu 2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại
di sản? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Một người được xác định là con nuôi của người để lại di sản khi thuộc các trường

hợp sau đây:

-Khi đã được xác lập mối quan hệ nuôi dưỡng với cha mẹ nuôi trước khi Luật Hôn

nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (03/01/1987) mà chưa đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định của Luật và trên thực

tế, thì vẫn được chấp nhận là con nuôi trên thực tế căn cứ theo điểm a Mục 6 Nghị

quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao hướng dẫn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

- Khi việc nhận nuôi con nuôi được xác lập trước ngày Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2000 có hiệu lực pháp luật (01/01/2001), mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà

nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và

Gia đình năm 2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được

xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vục của mình, thì được

pháp luật công nhận căn cứ theo Điều 17 Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày

27/3/2002.

- Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 cũng đã quy định

về Đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế như sau: “Việc nuôi con nuôi đã phát sinh

trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng

01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật

Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31

tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và

con nuôi.”

- Khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011:

"1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này

có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký

trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện

sau đây:

a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật
tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;

b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang

tồn tại và cả hai bên còn sống;

c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo

dục nhau như cha mẹ và con.”

Câu 2.3 Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con
nuôi không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong Bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.

Bản án số 20 thể hiện câu trả lời qua các đoạn:

“Các bà có nghe nói trước đây bố mẹ các bà có nhận bà Nguyễn Thị Tý là

con nuôi, sau đó bà Tý về với bố mẹ đẻ và đi lấy chồng.”;

“Anh Trần Việt Hùng, chị Trần Thị Minh Phượng, chị Trần Thị Hồng Mai,

chị Trần Thị Hoa trình bày: “Mẹ đẻ của các anh chị là bà Nguyễn Thị Tý trước đây

có là con nuôi cụ Thát và cụ Tần trong thời gian khoảng 6 đến 7 năm, sau đó bà Tý

về nhà mẹ đẻ sinh sống.”

Câu 2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn
nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.

Bản án số 20 thể hiện câu trả lời qua đoạn: “Xác định bà Nguyễn Thị Tý

không phải là con nuôi của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.”

Câu 2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tý: Tòa án xác định bà Tý không phải

là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.


Theo cá nhân tôi đây là giải pháp hợp lý của Tòa. Bởi vì quan hệ nuôi dưỡng

của cụ Thát, cụ Tần dành cho bà Tý diễn ra trong một khoảng thời gian khá ngắn (6-

7 năm) và sau đó thì bà Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống. Bên cạnh đó trong lý lịch của cụ

Thát và cụ Tần cũng không ghi phần con nuôi là bà Tý. Từ đó có thể thấy, không đủ

cơ sở để chứng minh rằng bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần. Điều đó cũng có

nghĩa là Tòa án đã đi đúng hướng và đưa ra giải pháp hoàn toàn phù hợp, công bằng

cho các bên.

Câu 2.6. Trong quyết định số 182 Tòa án xác định ông Tùng được hưởng thừa kế
với tư cách nào? Vì sao?
-Trong quyết định số 182 Tòa án xác định ông Tùng được hưởng thừa kế với tư

cách là con nuôi của cụ Dung và cụ Cầu. Vì theo lời khai của các nhân chứng và lời

khai của ông Tùng thì ông Tùng được hai cụ nuôi dưỡng từ nhỏ và ông Tùng chăm

sóc, phụng dưỡng hai cụ khi về già. Bên cạnh đó, ông Tùng còn được xem xét trích

công sức duy trì, bảo quản tài sản cho hai cụ từ sau khi hai cụ mất

- Cơ sở pháp lý: Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,

con nuôi của người chết”.

Câu 2.7. Suy nghĩ của anh chị về hướng xác định trên của tòa liên quan đến anh
Tùng?
- Việc Tòa án xác định ông Tùng là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng 2 cụ; xem

ông Tùng là con nuôi của 2 cụ và được hưởng di sản khi có yêu cầu là hợp lý và

thuyết phục. Ông Tùng là con nuôi của cụ thì ông Tùng phải được hưởng gia sản

dựa theo Điều 651 BLDS 2015:


“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,

con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị

ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà

nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu

ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác

ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là

cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở

hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng

di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Đồng thời Tòa án cũng cho rằng ông Tùng là người có công bảo quản, duy trì khối

tài sản này và xem xét trích công sức duy trì, bảo quản tài sản cho ông Tùng là hợp

lý, hợp tình. Vậy nên hướng xác định của Tòa án là hợp lý.

Câu 2.8 Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ
Cầu và cụ Dung không? Vì sao?
- Nếu xảy ra sau khi có Luật Hôn nhân và gia đình 1986 thì ông Tùng sẽ

không được hưởng thừa kế từ 2 cụ căn cứ theo Điều 37 của Luật này:

“Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú

của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”.
- Vì không có căn cứ nào công nhận ông Tùng là con nuôi của 2 cụ. Như vậy,

dù được hai cụ nuôi dưỡng, có công chăm sóc cho hai cụ nhưng ông Tùng

vẫn không được hưởng thừa kế, vì hai cụ không đăng ký để xác nhận ông

Tùng là con nuôi.

Câu 2.9 Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Theo điểm a khoản 1 điều 615 BLDS 2015 thì con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

- Cơ sở pháp lý: Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì: “Hàng thừa kế thứ nhất

gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người

chết”.

Câu 2.10: Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?
Đoạn cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát: “ Xác định cụ Thát và cụ Thứ

có 1 người con là Nguyễn Thị Tiến.” Và đoạn “Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy

khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là

Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ.”

Câu 2.11: Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà
Tiến.
Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tiến là hợp lý. Vì bà Tiến có đầy đủ

giấy tờ và chứng cứ chứng minh bà là con đẻ của cụ Thát và các anh em cùng cha

khác mẹ cũng công nhận điều đó : “ Các nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi sinh

năm 1922 ở tổ 37, cụm 5, dân phố và ông Nguyễn Văn Chung sinh năm 1940 năm

2002 là tổ trưởng tổ dân phố và ông Nguyễn Hoàng Đăm sinh năm 1947 ở cụm 10,

tổ 52, phường Bưởi, cụ Nguyễn Tất Vặn – cụ Vặn là em trai ruột cụ Nguyễn Tất
Thát) đều khẳng định cụ Thứ là vợ hai cụ Thát, bà Tiến là con của cụ Thát và cụ

Thứ.”

Câu 2.12: Ở Việt Nam, con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa
kế của người để lại di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015: Người thừa kế theo pháp luật

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con

nuôi của người chết;

Hàng thừa kế thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em

ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà

ngoại;

Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì

ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô

ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”

Như vậy, căn cứ theo hệ thống pháp luật Việt Nam thì con dâu, con rể không

thuộc hàng thừa kế nào nên không được hưởng thừa kế trừ khi họ được để lại di sản

theo di chúc.

Câu 2.13: Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là
người thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp
luật mà anh / chị biết.
Hệ thống pháp luật nước Pháp có xác định con dâu, con rể là người thừa kế

của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ.

Theo Điều 734 Bộ luật Dân sự Pháp về thứ tự hưởng thừa kế


“Nếu không có vợ hoặc chồng có quyền thừa kế, những người thân thích được

hưởng thừa kế theo thứ tự sau:

1. Con và ti thuộc của con;

2. Cha mẹ; anh, chị, em ruột và ti thuộc của những người này;

3. Các tôn thuộc khác không phải là cha mẹ;

4. Những người thân thích về bàng hệ khác ngoài anh ruột, chị ruột, em ruột và ti

thuộc

của những người này;

Mỗi một nhóm trên đây tạo thành một hàng thừa kế. Những người ở hàng thừa kế

sau

chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước.”

Ngoài ra căn cứ Điều 735 Bộ luật Dân sự Pháp: “ Con và ti thuộc của con

hưởng thừa kế từ cha mẹ hoặc các tôn thuộc khác không phân biệt giới tính, sinh

trước hay sinh sau, ngay cả khi họ không cùng cha cùng mẹ.”

Do đó, theo hệ thống pháp luật của Pháp thì con dâu, con rể hoàn toàn được

hưởng thừa kế.

Bài tập 3: Con riêng của vợ/ chồng:


Tóm tắt bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội:

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Khiết, bà Nguyễn


Thị Triển, bà Nguyễn Thị Tiến

Bị đơn: ông Nguyễn Tất Thăng


Nội dung: Cụ Thất và cụ Tần có 4 người con chung là: ông Thăng, bà
Bằng, bà Khiết, bà Triển. Cụ Thất và cụ Thứ có 1 người con là bà Tiến. Cụ
Thất (chết năm 1961), cụ Thứ (chết năm 1994) không để lại di chúc. Cụ Tần
(chết năm 1995) có để lại mấy lời dặn dò, bà Bằng chắp bút ghi lại ngày
08/06/1994 về việc cho bà Tiến một phần nhà đất nhưng ông Thăng không
công nhận. Ông Thăng khai mẹ ông chết có để lại di chúc, nhưng ông không
xuất trình được di chúc. Các nguyên đơn khẳng định chỉ có lời trăn trối của cụ
Tần về việc chia đất cho bà Tiến do bà Bằng ghi lại nhưng bị ông Thăng xé.
Ông Thăng không công nhận cụ Thứ là vợ hai cụ Thất và bà Tiến là con cụ
Thất nhưng không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cụ Thứ Không phải
là vợ cụ Thất. Căn cứ vào lý lịch bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa
phương, bà Tiến là con cụ Thất và là em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà
Triển cũng như xác nhận của họ hàng, hàng xóm khẳng định cụ Thứ là vợ cụ
Thất và bà Tiến là con cụ Thất cụ Thứ. Về di sản thừa kế: các đương sự đều
thống nhất khẳng định nguồn gốc 5 căn nhà và 2 gian bếp trên 640m2 đất. Số
tài sản trên hiện tại do ông Thăng quản lý, sử dụng. Khi còn sống cụ Tần cho
các con đất ao, đất phần trăm, nay không tính là di sản thừa kế. Di sản thừa kế
ở vụ tranh chấp này là nhà đất do các cụ Thất, cụ Tần, cụ Thứ để lại trừ đi
phần công sức duy trì tôn tạo tài sản của gia đình ông Thăng bằng 1/6 khối tài
sản như án sơ thẩm là có lý.

Câu 3.1: Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến là con riêng của của chồng cụ Tần vì:

Cụ Thất - chồng của cụ Tần có vợ cả là cụ Tần và vợ hai là cụ Thứ. Cụ


Thất và cụ Tần có với nhau bốn người con gồm ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết
và bà Triển, ngoài bốn người con này ra thì cụ Thất còn có một người con với
cụ Thứ là bà Tiến. Bà Tiến xuất trình được lý lịch và giấy khai sinh chính do
Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tấn Thất,
mẹ là Phạm Thị Thứ. Các nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi, ông Nguyễn
Văn Chung và ông Nguyễn Hoàng Đăm đều khẳng định cụ Thứ là vợ hai của
cụ Thất, bà Tiến là con của cụ Thất và cụ Thứ.

Câu 3.2: Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của
vợ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ trong điều kiện cả hai
người có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con. Căn cứ Điều 654
BLDS 2015 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di
sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.

Câu 3.3: Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần
không? Vì sao?
Bà Tiến không đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần. Vì

Căn cứ Điều 679 BLDS 2005 về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế thì không có đủ cơ sở để xác nhận cụ Tần coi bà Tiến như con.
Trong bản án không đề cập đến việc bà Tiến chăm sóc hay nuôi dưỡng cụ
Tần, mặc dù có đề cập đến việc bà Tần có để lại lời dặn dò chia đất cho bà
Tiến được bà Bằng ghi lại nhưng không đủ chứng cứ để xác minh.
Câu 3.4: Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần
thì bà Tiến được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà
Tiến được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần.

Căn cứ vào Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.”

Căn cứ vào Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quan hệ thừa kế
giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ:

“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.”

Căn cứ vào Điều 654 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quan hệ thừa kế
giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế:

“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng


nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa
kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”

Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách
thừa kế của bà Tiến đối với di sản củaa cụ Tần.
Theo quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự: “Con riêng và bố dượng, mẹ
kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được
thừa kế di sản của nhau và được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và
Điều 653 của bộ luật này.”
Dựa vào Bản án thì bà Tiến không có quan hệ huyết thống nào với bà
Tần và không có cơ sở nào là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ
con nên việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối với di
sản của cụ Tần là hợp lý. Ngoài ra, trong Bản án có đề cập đến lời trăn trối
của cụ Tần về việc chia đất cho bà Tiến do bà Bằng ghi lại nhưng bị ông
Thăng xé và việc này cũng không có bằng chứng xác thực sự việc.

Câu 3.6: Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến
hoàn cảnh của con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.
Căn cứ vào Điều 654 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quan hệ thừa kế
giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế:

“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng


nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa
kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”

Ở điều này vẫn chưa nên rõ ràng, không thống nhất về thời gian hay mức
độ nuôi dưỡng nên rất dễ xảy ra những ý kiến trái chiều về việc này gây ảnh
hưởng đến việc công nhận quyền thừa kế di sản của nhau

Bài tập 4: Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba:
Tóm tắt Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp

cao tại Hà Nội.

Nguyên đơn: anh Thiều Văn C1

Bị đơn: ông Đỗ Quang V

Nội dung: Ngày 9/3/2018, anh Thiều Văn C1 khởi kiện ông Đỗ Quang V về “Tranh

chấp quyền thừa kế”. Theo đó, bà T5 (chết năm 2009) có con nuôi là chị C3 (chết

năm 2007). Sau khi chết bà T5 không để lại di chúc đối với di sản của bà gồm thửa

đất số 203, tờ bản đồ số 12, diện tích 127,3 m2 tại khối 7 (tổ 12 cũ), phường L,
thành phố H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 1886580, trên đất

có ngôi nhà cấp 4 và tài sản gắn liền với đất. Năm 2011, anh C1 sửa lại nhà và làm

thủ tục khai nhận thừa kế cho cháu T1 và cháu H4 – 2 con của anh C1 và là cháu

của bà T5 nhưng bị ông V ngăn cản, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và

cũng yêu cầu hủy bỏ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T5. Xét

thấy còn nhiều sai sót ở bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp

cao đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân

dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Câu 4.1: trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng
thừa kế của cụ T5 không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 vẫn được hưởng thừa kế của
cụ T5.

Vì:

- Mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà T5 và chị C3 tồn tại trên thực
tế, được phía gia đình bị đơn thừa nhận.
- Căn cứ vào sổ hộ khẩu (BL238) gia đình bà Đỗ Thị T5 do Công an thị
xã H (nay là Công an thành phố H) cấp năm 1995, thể hiện chị C3 có
quan hệ với bà T5 là con, ngoài chị C3 thì bà T5 không có con nào
khác.
- Theo điểm a Điều 6 Nghị quyết 01/NQ-HddTP ngày 20/01/1988 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì trường hợp bà T5 nhận
nuôi chị c3 là con nuôi thực tế. Nên, chị C3 là người thừa kế duy nhất ở
hàng thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất của bà T5 theo quy định
tại điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005.

Câu 4.2: Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị
trong trường hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có
quyền hưởng di sản) không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh
chị biết.
Ở nước ngoài, đã có hệ thống pháp luật ghi nhận thừa kế thế vị trong trường hợp từ

chối di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản). Cụ thể tại

Điều 805 BLDS Pháp quy định: “Người thừa kế từ chối nhận thừa kế được coi là

chưa bao giờ là người thừa kế. Trên cơ sở tuân thủ các quy định tại điều 845, phần

thừa kế của người từ chối sẽ thuộc về những người thừa kế thế vị; nếu không sẽ

thuộc về những người đồng thừa kế; nếu người thừa kế là duy nhất thì phần di sản

đó sẽ được chuyển giao cho hàng thừa kế thấp hơn.”

Câu 4.3: ở Việt nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Ở Việt Nam, áp dụng chế định thừa kế thế vị khi: con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản.

Cơ sở pháp lí: Điều 652 BLDS 2015 “Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu
cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.”
Câu 4.4: vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được
hưởng thừa kế thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Vợ/chồng người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa
kế thế vị.

Cơ sở pháp lí: Điều 652 BLDS 2015 “Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu
cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.”

Câu 4.5: trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy là thuyết phục. Vì:
- Chị C3 là con nuôi thực tế của cụ T5 nên chị C3 được quyền thừa kế di sản

của cụ T5.
- Chị C3 mất trước cụ T5, căn cứ theo điều 652 BLDS 2015 thì con của chị là

cháu T7 và cháu H4 sẽ được hưởng thừa kế thế vị.

Cũng căn cứ theo điều 652 BLDS 2015 thì chồng chị không thuộc đối tượng được

nêu nên chồng chị sẽ không được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5.

Câu 4.6: Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố
có thể được hưởng thừa kế thế vị không?

 Theo quan điểm của tác giả- ThS.GVC Chế Mỹ Phương Đài: “ Trường hợp

con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi thì con đẻ của người con nuôi ( tức là
cháu của cha nuôi, mẹ nuôi của người chết) được hưởng phần di sản mà đáng

lẽ cha, mẹ của cháu còn sống vào thời điểm mở thừa kế được hưởng. Nhưng

nếu là con nuôi của con đẻ thì trường hợp này lại không được thừa kế thế

vị”. Như vậy, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể được hưởng thừa

kế thế vị.

Câu 4.7: Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3
được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5?

 Trong phần Nhận định của Toà án, về nội dung, “ Mối quan hệ mẹ nuôi, con

nuôi giữa bà T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế, được phía gia đình bị đơn thừa

nhận. Đồng thời căn cứ vào sổ hộ khẩu (BL238) gia đình bà Đỗ Thị T5 do

Công an thị xã H ( nay là Công an thành phố H) cấp năm 1995, thể hiện chị

C3 có quan hệ với bà T5 là con, ngoài chị C3 thì bà T5 không có nào khác.

Mặt khác, theo điểm a Điều 6 Nghị quyết 01/NQ- HĐTP ngày 20/01/1988

của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số

quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì trường hợp bà T5 nhận con nuôi

thực tế. Nên chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất của bà

T5 theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005”.
Câu 4.8: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5.

 Theo em, việc Toà án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của

cụ T5 là hoàn toàn hợp lý. Trong Bản án, Toà đã khẳng định chị C3 là con

nuôi thực tế của cụ T5, chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ

nhất, nên con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là đúng.
 Theo Điều 652 BLDS 2015: Thừa kế thế vị: trường hợp con của người để lại

di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu

được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn

sống”

Câu 4.9: Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với
thừa kế theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

 Thừa kế thế vị chỉ được áp dụng đối với phần di sản được chia theo quy định

của pháp luật, không áp dụng đối với phần di sản được định đoạt theo di

chúc, bởi vì nếu người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời

điểm với người lập di chúc thì di chúc đó không có hiệu lực pháp luật.
 Theo Khoản 2 Điều 643 BLDS 2015: Trường hợp có nhiều người thừa kế

theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập

di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo

di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có

liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
Câu 4.10: Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường
hợp thừa kế theo di chúc không? Vì sao?

 Theo em, không nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa

kế theo di chúc.
 Vì thừa kế theo thế vị là trường hợp đặc biệt trong thừa kế, là sự bảo đảm

việc truyền di sản của người chết xuôi xuống cho cháu, chắt theo trực hệ - là

quan hệ huyết thống – có tính chính thức và được coi trọng hơn cả so với các

quan hệ huyết thống khác trong ý thức và tập quán của nhân dân ta. Còn thừa

kế theo di chúc thì phần di sản này được chia theo ý nguyện của người để lại

di chúc, người hưởng di chúc có thể là người không cùng huyết thống với

người để lại di chúc. Do vậy, nên không thể áp dụng chế định thừa kế cho cả

trường hợp thừa kế theo di chúc.

4.11. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Căn cứ vào điểm b, c khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015:

“b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,

chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,

bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú

ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người

chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà

người chết là cụ nội, cụ ngoại.”


4.12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, bà Đỗ Thị T5 có nhận chị Đỗ Đức Phương C3 làm con

nuôi. Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015: “Hàng thừa kế thứ

nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người

chết”. Theo quy định này, chị C3 là con nuôi thực tế của bà T5 thì chị C3 sẽ là

người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà T5. Tuy nhiên, chị C3 đã chết ngày

05/3/2007 và bà T5 chết ngày 10/2/2009 thì tại thời điểm mở thừa kế không còn ai

thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5.

4.13. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015: “Hàng thừa kế thứ

hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của

người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại,

bà ngoại”. Trong vụ việc trên, bà Đỗ Thị T2 thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ Đỗ

Thị T5 do bà T2 là chị ruột của cụ T5.

4.14. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc
trên? Vì sao?
Tòa án không áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc trên. Bởi vì trong

phần Nhận định của Tòa án không nhắc đến mối quan hệ giữa cụ T5 và bà T2. Cụ

T5 chết năm 2009 mà không để lại di chúc. Chị C3 chết năm 2007 nên Tòa án đã

quyết định trao quyền thừa kế thế vị cho hai con của chị C3 là cháu T7 và H4. Căn

cứ theo Điều 652 BLDS năm 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết

trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di

sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước

hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản

mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Chị C3 là hàng thừa kế thứ
nhất của cụ T5 nhưng chị chết trước nên các con của chị được hưởng di sản. Thực

tiễn xét xử cho thấy, khi nào có người thừa kế thế vị theo pháp luật hiện hành thì

không có cơ hội áp dụng cho hàng thừa kế thứ hai, thứ ba dù ở thời điểm mở thừa

kế những người ở hàng thừa kế thứ nhất đã chết.

4.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai).
Hướng giải quyết của Tòa án là hoàn toàn thuyết phục, hợp tình, hợp lý.

Trong vấn đề nêu trên, đáng lẽ cần phải áp dụng chia di sản theo hàng thừa kế thứ

hai, nhưng Tòa án đã chia theo thừa kế thế vị. Việc xét xử này của Tòa đã bảo vệ

những lợi ích chính đáng của những người thân thuộc nhất của người để lại di sản,

nhằm bảo vệ quyền được hưởng di sản của các cháu của người để lại di sản một

cách trực tiếp.


BUỔI THẢO LUẬN THÁNG THỨ NHẤT (VẤN ĐỀ CHUNG)

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Tình huống sau: A đe dọa để ép B xác lập một giao dịch dân sự.

1.1 Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?

- Những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự là các quan hệ

về tài sản và quan hệ về nhân thân.

+ Quan hệ tài sản là: Quan hệ giữa người với người về những lợi ích vật chất (dưới dạng tư liệu sản
xuất hoặc tư liệu tiêu dùng) được tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất của xã hội. Các nhóm
quan hệ tài sản do pháp luật dân sự điều chỉnh bao gồm:

a. Quan hệ về sở hữu.

b. Quan hệ về nghĩa vụ và hợp đồng.

c. Quan hệ về bồi thường những thiệt hại đã gây ra cho người khác do có hành vi trái pháp luật.

d. Quan hệ về dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống (thừa kế).

+ Quan hệ nhân thân là: Quan hệ giữa người với người về những lợi ích tinh thần là những lợi ích
không có giá trị kinh tế, không tính ra được thành tiền và không thể di chuyển vì nó gắn liền với
những cá nhân với những tổ chức nhất định. Nó ghi nhận đặc tính riêng biệt và sự đánh giá của xã
hội đối với cá nhân hay tổ chức đó. Quan hệ nhân thân bao gồm:

a. Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản.

b. Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản.

1.2 Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015
không? Vì sao?

- Quan hệ giữa A và B không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015. Vì xét thấy
quan hệ giữa A và B phát sinh không dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng mà ở đây, A đã đe dọa để
ép B xác lập giao dịch dân sự, vậy quan hệ giữa A và B không thuộc phạm vi điểu chỉnh của pháp
luật dân sự.

- Căn cứ vào Điều 1 BLDS 2005: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho
cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và
tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây
gọi chung là quan hệ dân sự).
- Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần
tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội.”

- Điều 1 BLDS 2015: Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan
hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩu sự
phát triển kinh tế-xã hội.

VẤN ĐỀ 2: TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT

Tóm tắt Quyết định số 272/2018/QĐST-DS.

Bà Bùi Thị T là người yêu cầu giải quyết việc dân sự. Bà T yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Trần
Văn C là đã chết.

Cuối năm 1985, Ông C bỏ nhà đi biệt tích, gia đình bà T đã tổ chức tìm kiếm nhưng không
nhận được tin tức của ông C. Đến năm 2017 vẫn không có tin tức gì của ông C.

Tòa án nhân dân quận 9 thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận yêu cầu tuyên bố ông C đã chết
và xác định ngày chết của ông C là ngày 01/01/1986.

Tóm tắt Quyết định số 04/2018/GĐST-DS.

Anh Quản Bá Đ là người yêu cầu giải quyết việc dân sự. Anh Đ yêu cầu Tòa án tuyên bố chị
Quản Thị K (chị gái anh Đ) là đã chết.

Từ năm 1992, chị K đã bỏ nhà đi khỏi địa phương. Đến năm 2017, mặc cho mọi nỗ lực tìm
kiếm và thông báo của gia đình anh Đ và Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, nhưng
cũng không có thông tin về chị K.

Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa chấp nhận yêu cầu tuyên bố chị K đã chết
của anh Đ và xác định ngày chết của chị K là ngày 19/11/2018.

Tóm tắt Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS.

Bà Phạm Thị K là người yêu cầu giải quyết việc dân sự. Bà K yêu cầu Tòa án tuyên bố bố đẻ
của bà là cụ Phạm Văn C là đã chết.

Cụ C đã bỏ nhà đi từ tháng 01 năm 1997, từ đó đến nay cụ không trở về nhà. Đến năm 2019,
khi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thông báo tìm kiềm thông tin về cụ C thì vẫn không có tin
tức về cụ C.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chấp nhận yêu cầu tuyên bố cụ C đã chết của bà K và xác
định ngày chết của cụ C là ngày 01/05/1997.
Tóm tắt Quyết định số 02/2020/QĐST-DS.

- Chủ thể tham gia:


 Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Ông Đ H.
 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà N T.
- Tranh chấp: Yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết.
- Lý do: Từ năm 2008, do có mâu thuẫn vợ chồng với Bà N T, Ông Đ H đến tỉnh khác sinh
sống nhiều năm mà không liên lạc với gia đình. Vào ngày 02/3/2011 Tòa án nhân dân huyện
C đã tuyên Ông Đ H mất tích, vào ngày 20/5/2020 ông bị tuyên bố đã chết và vào ngày
14/6/2011 Tòa án nhân dân huyện C đã cho Bà N T ly hôn với Ông Đ H. Ngày 20/11/2019,
Ông Đ H quay trở lại và yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người đã chết.
- Hướng giải quyết của Tòa án:
 Chấp nhận đơn yêu cầu của Ông Đ H.
 Đối chiếu kết quả tra cứu hồ sơ hộ khẩu và chứng minh nhân dân để xác định Ông Đ H vẫn
còn sống.
 Hủy bỏ quyết định yêu cầu tuyên bố một người là đã chết đối với Ông Đ H.
2.1 Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người
đã chết.

- Căn cứ theo Điều 68, 69, 70, 71, 72, 73 các điểm giống nhau giữa tuyên bố một người mất tích và
tuyên bố một người đã chết là:

+ Người có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu Tòa án tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích khi
đủ các điều kiện theo luật định.

+ Đối tượng tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích: Tòa Án

- Về quyền nhân thân và tài sản:

+ Vợ/chồng của người bị tuyên bố mất tích hoặc đã chết có quyền ly hôn và được Tòa án cho phép.
Kể cả khi quyết định hủy bỏ tuyên bố một người mất tích hoặc chết thì việc ly hôn vẫn có hiệu lực.

+ Tài sản của người bị tuyên bố mất tích hoặc đã chết được giải quyết theo luật.

+ Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết hoặc mất tích phải được
gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy
định của pháp luật về hộ tịch.

- Các điểm khác nhau:


Tuyên bố một người mất tích Tuyên bố một người đã chết

CSPL Điều 68, 69, 70 BLDS 2015 Điều 71, 72, 73 BLDS 2015

Thời 2 năm liền kể từ ngày biết được Sau 3 năm liền kể từ ngày quyết
gian tin tức cuối cùng về người đó định tuyên bố mất tích của Tòa
mặc dù đã áp dụng các biện án có hiệu lực mà vẫn không có
pháp thông báo, tìm kiếm theo tin tức xác thực là còn sống.
quy định của pháp luật. Không có tin tức xác thực là còn
sống kể từ ngày chiến tranh kết
thúc sau 5 năm.
Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên
tai mà sau 2 năm kể từ ngày xảy
ra thảm họa, thiên tại đó chấm
dứt vẫn không có thông tin xác
thực là còn sống.
Biệt tích 5 năm liền và không có
tin tức xác thực là còn sống.

Quan hệ Vợ hoặc chồng của người bị Khi quyết định của Tòa án tuyên
nhân tuyên bố mất tích xin ly hôn thì bố một người là đã chết có hiệu
thân được tòa án giải quyết cho ly lực pháp luật thì quan hệ về hôn
hôn theo quy định của pháp luật
nhân, gia đình và các quan hệ
(Theo Khoản 2, Điều 68 BLDS
nhân thân khác của người đó
2015).
được giải quyết như đối với
người đã chết.
Quan hệ nhân thân của người bị
tuyên bố là đã chết được khôi
phục khi Tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố
người đó là đã chết.

Quan hệ Người đang quản lý tài sản của Quan hệ tài sản của người bị Tòa
tài sản người vắng mặt tại nơi cư trú án tuyên bố là đã chết được giải
quy định tại Điều 65 của Bộ quyết như đối với người đã chết;
luật này tiếp tục quản lý tài sản tài sản của người đó được giải
của người đó khi người đó bị quyết theo quy định của pháp
Tòa án tuyên bố mất tích và có luật về thừa kế.
các quyền, nghĩa vụ quy định Người bị tuyên bố là đã chết mà
tại Điều 66 và Điều 67 của Bộ còn sống có quyền yêu cầu
luật này. những người đã nhận tài sản
thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài
Trường hợp Tòa án giải quyết sản hiện còn.
cho vợ hoặc chồng của người bị
tuyên bố mất tích ly hôn thì tài Trường hợp người thừa kế của
sản của người mất tích được người bị tuyên bố là đã chết biết
giao cho con thành niên hoặc người này còn sống mà cố tình
cha, mẹ của người mất tích giấu giếm nhằm hưởng thừa kế
quản lý; nếu không có những thì người đó phải hoàn trả toàn
người này thì giao cho người bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi,
thân thích của người mất tích lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải
quản lý; nếu không có người bồi thường.
thân thích thì Tòa án chỉ định
người khác quản lý tài sản.

Người bị tuyên bố mất tích trở


về được nhận lại tài sản do
người quản lý tài sản chuyển
giao sau khi đã thanh toán chi
phí quản lý.

2.2 Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao lâu thì có
thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?

- CSPL: điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015 quy định: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có
tin tức xác thực là còn sống” thì được tuyên bố đã chết.

- Như vậy, theo quy định của Pháp luật hiện hành, biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức
xác thực là còn sống mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định
của pháp luật thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan.

2.3 Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích
từ thời điểm nào? Vì sao?
 Quyết định số 272/2018/QDST- DS:

- CSPL: Điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015, khoản 1 Điều 68 BLDS 2015.

- Ông Trần Văn C bị tuyên bố chết vào ngày 01/01/1986.

- Giải thích:
+ Bà T đã xác nhận rằng ông C đã bỏ đi biệt tích từ cuối năm 1985, Công an phường Phước
Bình, Quận 9 không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng của ông nên nhận định đây
thuộc trường hợp không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng của ông. Do vậy ngày biệt
tích của ông C được xác định vào ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng (tức
ngày 01/01/1986) theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015.

+ Tiếp đó, áp dụng theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở
lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều
68 của Bộ luật này”.

 Quyết định số 04/2018/QDST – DS:


- CSPL: điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015, khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015
- Chị Quản Thị K bị tuyên bố chết vào ngày 19/11/2018.
- Giải thích:

+ Chị K được gia đình xác nhận là đã bỏ nhà đi từ năm 1992 dù đã tìm kiếm nhiều lần nhưng không
có tin tức. Như vậy, theo khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015 không xác định được ngày tháng có tin
tức cuối cùng của chị K nên nhận định rằng chị K đã biệt tích từ ngày 1/1/1993.

+ Theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức
xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này”.

 Quyết định số 94/2019/QDST – DS


- CSPL: Điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015, khoản 1 Điều 68 BLDS 2015.
- Cụ Phạm Văn C được xác định chết vào ngày 1/5/1997.
- Giải thích:

+ Cụ Phạm Văn C được gia đình xác nhận đi khỏi nhà vào khoảng tháng 1/1997. Theo văn bản trả
lời của cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội ngày 13/11/2019, việc chi trả lương hưu cho cụ
C chỉ được thực hiện đến hết tháng 4/1997, như vậy đây là thời điểm nhận được tin tức cuối cùng
của cụ C. Đồng thời, do không biết chính xác ngày biệt tích của cụ nên áp dụng theo Khoản 1 Điều
68 BLDS 2015 “nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ
ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng”. Vậy thời điểm biệt tích của cụ C là
ngày 1/5/1997.

+ Theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác
thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này”.
2.4 Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu cơ sở pháp lý
và ví dụ minh hoạ.

- Việc xác định ngày chết của một cá nhân là vô cùng quan trọng vì thời điểm chết của một cá nhân
sẽ nảy sinh những sự kiện pháp lý có liên quan đến quan hệ về nhân thân, về tài sản, về hôn nhân và
gia đình, về quyền và nghĩa vụ và về thừa kế của cá nhân đó theo khoản 1, khoản 2 Điều 72 BLDS
2015. Việc một cá nhân chết còn liên quan đến thời điểm mở thừa kế theo khoản 1 Điều 611 BLDS
2015: “ thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết…”. Vì vậy, việc xác định ngày chết
của một cá nhân sẽ giải quyết được các vấn đề về các mối quan hệ, giải quyết tranh chấp thừa kế.

2.5 Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào? Đoạn nào của các
Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời?

- Theo quyết định số 272/2018/QĐST-DS, Tòa án xác định ngày chết của ông Trần Văn C là ngày
01/01/1986, cụ thể ở đoạn: “Tuyên bố ông Trần Văn C; nơi cư trú cuối cùng; phường Phước Bình,
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh là đã chết. Ngày chết của ông Trần Văn C là ngày 01/01/1986.”

- Theo quyết định số 04/2018/QĐST-DS, Tòa án xác định ngày chết của chị Quản Thị K là ngày
19/11/2018, cụ thể ở đoạn: “Tuyên bố chị Quản Thị K – sinh 1969 đã chết ngày 19/11/2018. Ngày
19/11/2018 là ngày làm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ về nhân thân, về tài sản,
về hôn nhân gia đình, về thừa kế của chị Quản Thị K.”

- Theo quyết định số 94/2019/QĐST-VDS, Tòa án xác định ngày chết của cụ Phạm Văn C là ngày
01/05/1997, cụ thể ở đoạn: “Tuyên bố cụ Phạm Văn C, sinh năm 1927; Hộ khẩu thường trú;
Phường Bạch Mai; Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, đã chết kể từ ngày 01/05/1997.”

2.6 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định trên (quyết
định năm 2018 và 2019).

- Tại Quyết định số 272/2018, ông C được Tòa án tuyên bố chết ngày 01/01/1986, căn cứ theo lời bà
T khai ông C đã bỏ đi từ cuối năm 1985, không xác định rõ ngày, tháng ông vắng mặt tại địa
phương. Đây thuộc trường hợp không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng của ông C nên
ngày chết của ông được tính là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

- Tại Quyết định số 04/2018, Tòa án xác định ngày chết của chị K là vào cùng ngày Tòa án tuyên bố
chị chết, tức ngày 19/11/2018. Đây là ngày làm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ về
nhân thân, về tài sản, về hôn nhân gia đình, về thừa kế.

- Tại Quyết định số 94/2019, Tòa án tuyên bố cụ C chết ngày 01/5/1997, căn cứ vào tài liệu, cơ sở
xác định cụ C đã biệt tích từ đầu năm 1997, tin tức cuối cùng về cụ là tháng 4/1997. Ngày chết được
tính là ngày đầu tiên của tháng tiếp theo có tin tức cuối cùng.
- Theo khoản 2 Điều 71 BLDS 2015: “Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này,
Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.”, để xác định ngày chết của cá nhân bị
tuyên bố là đã chết, Tòa án cần căn cứ khoản 1 Điều 71, trường hợp của ông C, chị K, cụ C thuộc
điểm d Điều khoản này: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời
hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.” Theo khoản 1 Điều 68: “Khi
một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm
kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc
người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể
tuyên bố người đó mất tích.”

- Vậy thời hạn để có thể tuyên bố cá nhân đã chết là biệt tích 5 năm liền, tính từ ngày có tin tức cuối
cùng. Việc xác định ngày chết của các nạn nhân trong các Quyết định trên là chưa hợp lý, căn cứ
theo khoản 2 Điều 71, tại khoản 1 Điều này để xác định ngày chết. Do đó, ngày chết của ông C phải
được xác định là ngày 02/01/1991, đây là ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn 5 năm đủ để tuyên bố
đã chết. Tương tự trường hợp chị K phải là ngày 02/01/1998, cụ C được xác định ngày chết là ngày
02/04/2002.

2.7 Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa án tuyên hủy
quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù hợp với quy định
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- CSPL: Điều 73 BLDS 2015

- Căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố 1 người là đã chết là: “Khi một người bị tuyên bố là đã
chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của
người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã
chết.”

- Quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 là phù hợp. Bởi vì: Ngày
20/11/2019 Ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C và có đơn yêu cầu hủy quyết định
tuyên bố một người là đã chết. Sau khi thụ lý giải quyết Ông Đ H đã cung cấp đơn xin xác nhận
còn sống tại A, xã L, huyện C có xác nhận của UBND xã L ngày 09/12/2019. Qua đối chiếu kết
quả tra cứu hồ sơ hộ khẩu và chứng minh nhân dân đã có đủ căn cứ để xác định Ông Đ H vẫn còn
sống. Tòa án nhân dân huyện C có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định
tuyên bố một người là đã chết theo Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.

2.8 Cho biết kinh nghiệm nước ngoài (ít nhất một hệ thống) điều chỉnh hệ quả về tài sản và
nhân thân khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân đã chết.

- CSPL: Điều 92, 130, 131 và 132 BLDS Pháp hiện hành

- Đầu tiên, về việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân đã chết:
+ Điều 92 quy định: “Nếu một người bị tòa án tuyên bố là đã chết trở về thì Viện trưởng Viện Công
tố hoặc bất kỳ người nào có liên quan đều có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố
người đó là đã chết, theo thủ tục quy định tại điều 89 và các điều tiếp theo. Trong trường hợp cần
thiết có thể áp dụng quy định tại các điều 130, 131 và 132. Việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết được ghi chú vào lề sổ hộ tịch”.

- Tiếp theo, về việc điều chỉnh hệ quả về tài sản và nhân thân:

+ Quan hệ về tài sản: Điều 130 quy định: “Người mất tích được tòa án xác nhận còn sống sẽ nhận
lại tài sản của mình và tài sản được hưởng trong lúc vắng mặt theo hiện trạng các tài sản ấy, tiền
bán các tài sản đã bị chuyển nhượng hoặc tài sản có được do sử dụng các khoản tiền gốc, tiền lãi
của người đó”.

+ Quan hệ về nhân thân: Điều 131 quy định: “Bên có liên quan yêu cầu tòa án tuyên bố một người
là mất tích, nếu có gian lận, thì phải hoàn lại cho người mất tích mà tòa án xác nhận còn sống, mọi
khoản lợi thu được từ tài sản đã hưởng dụng và trả các khoản tiền lãi theo luật định kể từ ngày thu
lãi, không kể các khoản bồi thường thiệt hại khác, nếu có”.

“Nếu người vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích có hành vi gian lận, thì người bị tuyên
bố mất tích có thể phản đối việc thanh toán chế độ tài sản trong hôn nhân mà bản án tuyên bố mất
tích đã quyết định chấm dứt.”. Mặt khác, Điều 132 vẫn quy định về hôn nhân của người mất
tích:“Hôn nhân của người mất tích bị chấm dứt, ngay cả khi bản án tuyên bố đã bị hủy”.

2.9 Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có còn được coi
là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Đối với vụ việc trên thì bà T và ông H không còn đc xem là vợ chồng nữa, vì:

+ Theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về ly hôn theo yêu
cầu của một bên khi có quyết dịnh của Toà án tuyên bố vợ hoặc chồng mất tích như sau: “Trong
trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Toà án giải
quyết cho ly hôn”. Vì vậy, trong trường hợp người chồng bị tuyên bố mất tích thì người vợ có quyền
đơn phương ly hôn và sau khi có quyết định tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật,
quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng đã hoàn toàn chấm dứt.

+ Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật dân sự thì vợ/chồng của người tuyên bố là đã chết
đã được Toà án cho ly hôn thì quyết định ly hôn vẫn còn hiệu lực pháp luật.

2.10 Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như thế nào sau
khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Theo Điều 73 Bộ luật dân sự 2015: Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu
những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
VẤN ĐỀ 3: TỔ HỢP TÁC

Tóm tắt bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11-01-2021

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế Th.

Bị đơn: Tổ trưởng Tổ hợp tác X, xã N.

- Loại tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất.

- Lí do: Ngày 13/09/2018 tổ hợp tác X kí hợp đồng thuê quyền sử dụng đất của ông Th nhưng đến
ngày 11/01/2019 tổ hợp tác X ra thông báo số 01/TB-THT về việc chấm dứt hợp đồng thuê đất do
hoàn cảnh thay đổi theo Điều 420 của Bộ luật dân sự năm 2015. Ông Th không đồng ý và đã kê đơn
khởi kiện tổ hợp tác X phải bồi thường thiệt hại cho ông Th.

- Quyết định của tòa án: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Th. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số
14/2020/DS-ST ngày 27/07/2020 để giải quyết lại vì chưa xác định rõ được chủ thể giao dịch giữa
tổ hợp tác X với ông Th.

3.1 Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ của anh/chị
về những điểm mới.

- BLDS năm 2005 quy định tổ hợp tác là chủ thể hạn chế của quan hệ pháp luật dân sự tại Điều 111
– 120 BLDS năm 2015 đã bãi bỏ quy định này, nên hiện nay, tổ hợp tác không còn được coi là chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự. Vì không thể là chủ thể nên tổ hợp tác cũng không có tư cách
pháp nhân, do đó khi tham gia xác lập giao dịch dân sự phải do người đại diện theo ủy quyền thực
hiện. Trường hợp thành viên của tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân tham gia giao dịch dân sự
không được thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên trực tiếp tham gia là chủ
thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
- Theo tôi, BLDS năm 2015 đã sửa đổi theo hướng tổ hợp tác tham gia vào quan hệ dân sự thông
qua đại diện theo ủy quyền đã giải quyết được vướng mắc, bất cập kéo dài trong nhiều năm qua liên
quan đến việc tham gia các quan hệ dân sự của tổ hợp tác trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
Tòa án và cơ quan nhà nước khác, do đây là tập hợp các cá nhân có quan hệ với nhau về tài sản, số
lượng cá thể có thể khác nhau với nhiều hoặc ít thành viên, ý chí có thể không đồng nhất. Ngoài ra,
trên thực tế xét xử chưa có vụ kiện nào có nguyên đơn hoặc bị đơn là tổ hợp tác. Khoản 1 Điều 56
BLTTDS chỉ quy định đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tại đây, tổ hợp tác không được xác định là
đương sự trong vụ án dân sự. Chính vì vậy, việc loại bỏ tư cách chủ thể của tổ hợp tác là hợp lý,
đúng đắn.

3.2 Trong quyết định 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử dụng đất)
được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác.
- Đoạn “ Ngày 13/9/2018, tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác) ký hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2 đất tọa lạc tại thôn 06, xã N, huyện
Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là
một phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m2 theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số Y do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th
và bà Bùi Thị H ” cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th
và bà H với Tổ hợp tác.

3.3 Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà H)? Hướng xác
định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Theo Tòa Án, bên phía Tổ hợp tác, ông Bùi Vĩnh H là bên trong giao dịch với ông Th và bà H. Tòa
án xác định bị đơn là ông Bùi Vĩnh H chứ không phải là Tổ hợp tác. Vì ông H là người trực tiếp ký
kết hợp đồng là bị đơn trong vụ án, còn các thành viên trong tổ hợp tác chỉ là người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Căn cứ theo Điều 101 của BLDS 2015 “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ
chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”; “Trường
hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan
hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể
của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện”.

3.4 Theo Tòa án, ai là bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết phục không?
Vì sao?

- Theo Tòa án, bị đơn là ông Bùi Vĩnh H

- Hướng xác định như vậy của Tòa án là thuyết phục bởi vì thời điểm kí kết hợp đồng là ông Bùi
Vĩnh H, là người kí kết hợp đồng quyền sử dụng đất cũng là Tổ trưởng tổ hợp tác tại thời điểm đó
không phải là ông Nguyễn Thăng L.

- Theo khoản 3 Điều 68 Luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị
nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị
người đó xâm phạm”.

- Tại Điều 113 BLDS 2005 quy định về đại diện của tổ hợp tác:

+ Khoản 1: đại diện của Tổ hợp tác trong giao dịch dân sự là tổ trưởng do các tổ viên cử ra.

+ Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho tổ viên để thực hiện những công việc nhất định
+ Khoản 2: Giao dịch dân sự do người đại diện của tổ hợp tác xác lập, thực hiện vì mục đích hoạt
động của tổ hợp tác theo quyết định của đa số tổ viên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của tổ hợp tác.

- BLDS 2005 quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể hạn chế của quan hệ pháp luật dân sự tuy
nhiên BLDS 2015 đã bãi bỏ quy định này nên hiện nay, hộ gia đình, tổ hợp tác không còn được coi
là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. BLDS 2015 có quy định thêm một thực thể xã hội nữa là
các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

- Theo khoản 1 Điều 101 BLDS 2015 quy định về chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia
đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiên
giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.

- Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham
gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó
là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.

- Tuy nhiên tại đơn khởi kiện của ông Th khởi kiện bị đơn là Tổ hợp tác xã N, người đại diện: Ông
Bùi Vĩnh H, chức vụ: tổ trưởng. Lẽ ra cấp sơ thẩm phải hướng dẫn ông Th sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện đối với bị đơn là ông Bùi Vĩnh H, chứ không phải là tổ hợp tác, vì ông H là người trực
tiếp kí kết hợp đồng, là bị đơn trong vụ án, còn các thành viên trong Tổ hợp tác tại thời điểm ký kết
hợp đồng là người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân nên ông
Bùi Vĩnh H không phải là người đại diện cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng
BÀI TẬP THÁNG THỨ 2: TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC SỞ HỮU

Câu 1: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2005? Nêu rõ các hình thức sở hữu trong

BLDS.
Theo Bộ luật Dân sự 2005 thì nước ta có 6 hình thức sở hữu bao gồm:

(1) Sở hữu nhà nước;

(2) Sở hữu tập thể;

(3) Sở hữu tư nhân;

(4) Sở hữu chung;

(5) Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

(6) Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội –nghề nghiệp.

Câu 2: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự 2015? Nêu rõ các hình thức sở

hữu trong BLDS.


Theo Bộ luật Dân sự 2015 thì nước ta chỉ có 3 hình thức sở hữu là:

(1) Sở hữu toàn dân;

(2) Sở hữu riêng;

(3) Sở hữu chung;

Câu 3: Suy nghĩ của anh/ chị về những thay đổi về hình thức sở hữu giữa hai Bộ luật trên.
Những sự thay đổi về hình thức sở hữu giữa hai Bộ luật trên là hoàn toàn hợp lý. Vì nếu như

liệt kê rõ từng chủ thể như Bộ luật Dân sự 2005 là không hợp lý vì có thể có những chủ thể, loại

hình tổ chức hoặc các nhóm người có thể phát sinh thêm, vì vậy việc liệt kê từng chủ thể là việc làm

không khoa học và không thể đảm bảo được quyền lợi cho các nhóm người các tổ chức phát sinh

thêm trong quá trình phát triển xã hội. Vì sự bất cập trên mà việc thay đổi về hình thức đã được Bộ
luật Dân sự 2015 khắc phục rút gọn lại chỉ còn 3 hình thức sở hữu (1) Sở hữu toàn dân; (2) Sở hữu

riêng; (3) Sở hữu chung. Ta có thể thấy ở Bộ luật Dân sự rõ ràng hơn, quy định chung cho các chủ

thể khác nhau trong từng mục khác nhau việc làm này sẽ mang lại đầy đủ quyền lợi cho các chủ thể

phát sinh sau này trong quá trình phát triển xã hội mà không cần phải bổ sung vào các điều luật.

Điều này cho thấy được tầm nhìn của các nhà làm luật. Ngoài ra Bộ luật Dân sự 2015 còn quy định

một hình thức sở hữu đặc biệt là sở hữu toàn dân (thay thế cho hình thức sở hữu nhà nước ở BLDS

2005) là để phù hợp với Hiến pháp 2013.

VẤN ĐỀ 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ


Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 382/2008/DS-GĐT
Năm 2003 ông Dương Bình và bà Trần Thị Như quyết định từ chị Dương Thị Thu Nga (con

nuôi của cả hai) vì lý do là đã không thực hiện đúng nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ nuôi nhưng không

được chấp nhận. Bên cạnh đó, tài liệu cho rằng chị Nga bạc đãi hai ông bà không đủ căn cứ. Năm

2005, bà Trần Thị Như lập di chúc với tinh thần tỉnh táo và dưới sự làm chứng của ông Lương Văn

On và ông Huỳnh Minh Hiếu, bản di chúc hợp lệ.Tòa sơ thẩm và phúc thẩm không công nhận di

chúc đó vì Bệnh xá Công an tỉnh An Giang không có chức năng khám sức khỏe để lập di chúc.

Nhưng Giám đốc thẩm cho rằng lý do đó là không có căn cứ. Ông Bình chết không để lại di chúc

nên bà Như và bà Nga được hưởng theo hàng thừa kế thứ nhất. Phần di sản của bà Như do ông

Truyền, bà Hằng được hưởng theo di chúc

Câu 1: Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di chúc có

giá trị pháp lý không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.


Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di chúc không có

giá trị pháp lý.

Theo khoản 1 Điều 625 Bộ luật Dân sự 2015: “Người thành niên có đủ điều kiện theo quy

định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của

mình”.

Theo khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015: “Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện

sau đây:
a)Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b)Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di

chúc không trái quy định của luật”.

Câu 2: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc

năm 2005 cụ Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã quyết định như vậy?
Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Toà phúc thẩm, khi lập di chúc năm

2005 cụ Như không còn minh mẫn. Vì Toà phúc thẩm căn cứ vào lý do Bệnh xá Công an tỉnh An

Giang để xác định tình trạng sức khoẻ của bà Như.

Câu 3: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ Như có

minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy?
Theo Toà giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ Như vẫn còn minh mẫn. Vì trong quá

trình giải quyết vụ án ông On, ông Kiếm và ông Hiếu. đều có lời khai xác nhận tại thời điểm bà Như

lập di chúc, trạng thái tinh thần của bà Như vui vẻ, minh mẫn. Kết luận của bác sĩ Hiền về tình trạng

sức khoẻ và tinh thần của bà Như được ghi trong giấy chứng nhận khám sức khoẻ ngày 26/12/2004,

trước ngày bà Như lập di chúc 5 ngày không mâu thuẫn với lời khai xác nhận của ông On, ông

Kiểm và ông Hiếu. Trên cơ sở các lời khai xác nhận như vậy, Toà phúc phẩm đã quyết định bà Như

vẫn còn minh mẫn trong lúc lập di chúc.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Tòa đã công nhận di chúc của bà Như là

di chúc hợp pháp, đảm bảo được ý chí của người để lại di sản và người được hưởng thừa kế. Căn cứ

điều 655, 656, 657 và 659 của Bộ luật Dân sự năm 1995.

Khoản 1, Điều 655 Bộ luật Dân sự 1995:

“1- Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc

cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của

pháp luật.”

Điều 656 Bộ luật Dân sự 1995 về nội dung của di chúc bằng văn bản:

“1- Di chúc phải ghi rõ:

a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

d) Di sản để lại và nơi có di sản;

đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

2- Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang, thì mỗi trang

phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.”

Điều 657 Bộ luật Dân sự 1995 về người làm chứng cho việc lập di chúc:

“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.”

Điều 659 Bộ luật Dân sự 1995 về di chúc bằng văn bản có người làm chứng:

“Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác

viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào

bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ

của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 656

và Điều 657 của Bộ luật này.”


Câu 5: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc

năm 2001 cụ Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã quyết định như vậy?
Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc năm

2001 cụ Biết không minh mẫn. Căn cứ vào bản án, Tòa án phúc thẩm cho rằng:

 Cụ Biết lập di chúc 3/1/2001 đã 84 tuổi. Trước đó tháng 11,12/ 2000 cụ Biết phải nhập
viện điều trị với triệu chứng theo chẩn đoán là (thiếu máu cơ tim, xuất huyết não, cao
huyết áp; .... Cụ Biết lập di chúc 3/1/2001 thì ngày 14/1/2001 cụ Biết chết. Vậy nên cụ
Biết lập di chúc trong tình trạng thiếu minh mẫn, sáng suốt, là không có căn cứ.
 Tòa phúc thẩm đã quyết định như vậy bởi vì người lập di chúc lập đã cao tuổi và có
những biểu hiện của bệnh ảnh hưởng đế tinh thần minh mẫn cũng như cách hành vi
ứng xử mâu thuẫn với nhau. Cụ Biết lập di chúc trước ngày chết 11 ngày, trong lúc
sức khỏe suy giảm vì thế Tòa phúc thẩm có quyết định là cụ Biết lập di chúc trong tình
trạng thiếu minh mẫn, sáng suốt là hoàn toàn có căn cứ.

Câu 6: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ Biết có

minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy?
Vụ việc vừa nêu, theo Tòa giảm đốc thẩm khi lập di chúc ngày 3/1/2001 cụ Biết vẫn minh

mẫn. Sở dĩ Tòa có quyết định như vậy, Tòa án đã căn cứ vào các lời khai của ông Dầm ngày

7/2/2002 và của ông Thắng 1/4/2002 đều xác nhận khi lập di chúc, cụ Biết là người minh mẫn và

đọc (nói) nội dung di chúc cho ông Thắng viết, mặt khác, cụ Biết kí (điểm chỉ) hợp đồng cho bà Mỹ

thuê vườn cây và khi cụ Biết (điểm chỉ) vào bản hợp đồng thì cụ Biết là người minh mẫn, còn chỉ

dẫn cho bà Mỹ cách chăm sóc vườn cây. Do đó, hoàn toàn có căn cứ cụ Biết lập di chúc 3/1/2001

trong tình trạng minh mẫn. Vì vậy, dựa vào các lời khai trên Tòa giám đốc thẩm cho rằng cụ Biết

vẫn minh mẫn trong lúc lập di chúc 3/1/2001.

Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là công nhân bản di chúc 3/1/2001 là hợp pháp.

Theo điểm a khoản 1 Điều 630 quy định di chúc hợp pháp khi: “Người lập di chúc minh

mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc: không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”. Trong trường hợp này,
cụ Biết hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt. Mặt khác, di chúc của cụ Biết là di chúc miệng. Theo khoản

5 Điều 630 BLDS 2015 “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý

chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng

thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn

05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được

công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người

làm chứng”.

Bản di chúc của cụ Biết có 2 người làm chứng là ông Thắng và ông Dầm nên Tòa giám đốc

đốc thẩm công nhận bản di chúc ngày 3/1/2001 là hoàn toàn hợp lý.

Câu 8: Di tặng là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.


Theo khoản 1 Điều 646 Bộ luật Dân sự 2015, di tặng được định nghĩa là: “Di tặng là việc

người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong

di chúc.”

Câu 9: Để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn những điều kiện gì? Nêu cơ sở pháp lý khi

trả lời.
Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn

sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.

Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 646 Bộ luật Dân sự 2015:

“2. Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn

sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp

người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”

Câu 10: Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng cho ai? Đoạn nào của Quyết định cho

câu trả lời?


Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng cho 3 người cháu ngoại: ông Hùng,bà Diễm

và ông Hoàng.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Cụ Biết di tặng tài sản riêng và chung cho 3 cháu

ngoại là ông Hùng, bà Diễm và ông Hoàng”

Câu 11: Di tặng trên có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả

lời?
Việc di tặng đó không được Tòa án chấp nhận.

Đoạn của Quyết định cho câu trả lời“Tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 và

“tờ di chúc” ngày 15/9/2000 bởi các văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật cả về

nội dung và hình thức văn bản là có căn cứ”.

Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến di tặng.
Theo em hướng giải quyết của toà án là hợp lý và đủ thuyết phục.

Căn cứ pháp lý: khoản 5 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 thì “5. Khi một người để lại nhiều

bản di chúc đố ivới một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực”

Vì vậy theo điều này, chỉ có “tờ di chúc” được lập ngày 03/01/2001 là có hiệu lực pháp luật,

mà trong tờ di chúc này không có đề cập tới di tặng.

Tuy nhiên Bộ luật Dân sự có quy định, người để lại di sản chỉ “dành một phần di sản để tặng

người khác” nhưng Bộ luật Dân sự không nói rõ “ một phần di sản” là bao nhiêu, được tính như thế

nào. Do đó việc bà Biết đã di tặng toàn bộ di sản của mình là không phù hợp với quy định pháp luật.

Câu 13: Truất quyền thừa kế là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Người lập di chúc có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế .Người để lại

di sản có quyền chỉ định rõ ai được hưởng di sản cũng như ai không được hưởng di sản do mình để

lại mà không cần nêu rõ bất cứ lí do gì. Đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với khối tài sản

của mình. Do đó, pháp luật quy định một trường hợp ngoại lệ.

Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015


Câu 14: Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của ai? Đoạn nào của

Quyết định cho câu trả lời?


Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của vợ chồng bà Nguyệt và con

nuôi của bà Nguyệt.

Đoạn của Quyết định có câu trả lời: Ngoài ra bà Thuyết còn khai như sau: “Ngày20/09/1997, cụ

Biết có lập tờ truất quyền hưởng thừa kế có nội dung: Cụ Biết được cụ Kiệt giao quyền định đoạt tài

sản theo tờ ủy quyền 16/07/1997, cụ Biết truất quyền hưởng thừa kế của bà Nguyệt cùng chồng và

con nuôi của bà Nguyệt đối với những tài sản chung và riêng của cụ Kiệt và cụ Biết tại ấp Bình

Phước.

Câu 15: Truất quyền trên của cụ Biết có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của Quyết

định cho câu trả lời?


Truất quyền trên của cụ Biết không được Tòa án chấp nhận.

Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: Tòa án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất

quyền hưởng di sản” lập ngày 20-9-1997 và “Tờ di chúc” ngày 15-9-2000 bởi các văn bản này

không phù hợp quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức văn bản là có căn cứ.”

Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến truất quyền

thừa kế.
Hướng giải quyết của Tòa án là hoàn toàn hợp lý

“Tờ truất quyền hưởng tài sản” là không phù hợp với quy định của pháp luật cà về nội dung

và hình thức văn bản

Dựa vào khoản 1 Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015: “Người lập di chúc có quyền sau đây: Chỉ

định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”.

Bà Biết là người lập di chúc và có quyền lập “Tờ truất quyền hưởng di sản”, nhưng văn bản

này phải đáp ứng đúng hình thứcvà nội dung. Việc “Tờ truất quyền hưởng di sản” của bà Biết lập bị

Tòa án khôngcông nhận là cần thiết để đảm bảo tính nghiêm của luật pháp. Nên hướng giải quyết

của Tòa án là hoàn toàn hợp lý.


Câu 17: Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản nào? Đoạn nào của Quyết

định cho câu trả lời?


Trong di chúc năm 2001, cụ Biết đã định đoạt tài sản của mình trong khối tài sản chung với

cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết được hưởng thừa kế di sản của cụ Kiệt.

Theo đoạn: “Do đó, Hội đồng giám đốc thẩm…” cho đến “...bà Nguyệt, bà Thuyết”.

Câu 18: Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý phần nào?

Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?


Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý phần di sản của cụ

Biết.

Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “ Tại các quyết định giám đốc thẩm số 61/GĐT-DS

ngày 25/5/2004 và số 231/2006/DS-GĐT ngày 28/9/2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

đều hủy các bản án dân sự phúc thẩm số 48/DS-PT ngày 21/4/2003 và số 122/2006/DS-PT ngày

22/6/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh

Bình Dương xét xử phúc thẩm lại theo hướng công nhận di chúc của cụ Biết lập ngày 03/01/2001 là

hợp pháp phần di sản của cụ Biết, phần di sản của cụ Kiệt chia theo pháp luật…”.

Câu 19: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Viện Kiểm Sát và Tòa dân sự
Hướng giải quyết của Viện kiểm sát và Tòa dân sự là hợp lý.

Tòa dân sự và Viện kiểm sát đã bảo vệ ý chí của người lập di chúc, giám sát việc xét xử của

vụ án, quyền lợi của các bên, các bản di chúc và truất quyền thừa kế có hợp lệ không: “Tòa án cấp

phúc thẩm không công nhận “Tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/09/1997 và “Tờ di chúc”

ngày 15/09/2000 bởi các văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật cả về nội dung và

hình thức văn bản là có căn cứ”. Tòa án nhân dân Tối cao giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân

tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại, nhưng cả 2 lần xét xử vẫn không chấp nhận di chúc của cụ Biết

là hợp pháp và không chấp hành nghiêm túc quyết định của Tòa ángiám đốc thẩm.

Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm lại, nếu không có chứng cứ mới phải

công nhận di chúc lập ngày 3/1/2001 có hiệu lực với di sản của cụ Biết. Phần của cụ Biết chia theo

di chúc, phần của cụ Kiệt chia theo pháp luật.


Câu 20 : Sự khác nhau giữa “ truất quyền thừa kế” và “ không được hưởng di sản” trong chế

định thừa kế. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

 Truất quyền thừa kế

Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền của người lập di chúc:

“Người lập di chúc có quyền sau đây:

1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”

Như vậy thì truất quyền thừa kế là quyền của người lập di chúc.

Có thể hiểu, truất quyền thừa kế là việc người lập di chúc không muốn để lại di sản thừa kế

của mình cho một người nào đó và ý chí này được ghi trong di chúc mà không cần nêu lý do.

Lưu ý: Di chúc muốn hợp pháp phải đảm bảo điều kiện luật định. Nếu di chúc không hợp pháp thì

xem như nội dung truất quyền thừa kế trong di chúc xem như không có hiệu lực.

Bên cạnh đó, việc truất quyền thừa kế cũng có liên quan đến việc chia hàng thừa kế theo

pháp luật.

Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015: Người thừa kế theo pháp luật

“3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế

trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di

sản.”

Theo quy định này, nếu hàng thừa kế trước không còn ai (có thể do bị truất quyền thừa kế

hoặc không được quyền nhận di sản,…) thì người ở hàng thừa kế tiếp theo sẽ được hưởng thừa kế.

 Không được hưởng di sản:


Tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây không được quyền

hưởng di sản:

 Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược
đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân
phẩm của người đó;
 Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
 Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
 Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
 Những người nêu trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi
của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

Câu 21: Trong Quyết định năm 2008, theo Viện Kiểm sát và Tòa Dân sự, bà Nga có hành vi vi

phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bÌnh không? Đoạn nào của quyết định cho câu

trả lời.
Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà Nga không có hành vi vi

phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình.

Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa có cơ sở xác

định bà Nga đã có hành vi bạc đãi cha mẹ, nên cũng không có cơ sở để xác định bà Nga đã có hành

vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình, bà Như để xác định bà Nga không được

hưởng thừa kế tài sản của ông Bình, bà Như theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 646 Bộ luật dân

sự năm 1995”.
Câu 22: Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi

dưỡng ông Bình thì bà Nga có được hưởng thừa kế di sản của ông Bình không? Nêu cơ sở

pháp lý khi trả lời.


Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông

Bình thì bà Nga không được hưởng thừa kế di sản của ông Bình.

Căn cứ vào điểm b, khoản 1, Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Người không được

quyền hưởng di sản:

“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;”

Câu 23: Suy nghĩ của anh/ chị ( nếu có) về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến

hành vi của bà Nga.


Hướng giải quyết trên của Toà án liên quan đến hành vi của bà Nga là thuyết phục.

Vì theo các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa có cơ sở xác định bà Nga đã có hành vi bạc đãi

cha mẹ và thêm vào đó mặc dù đã về sống tạm ở công ty cổ phần vận tải tỉnh An Giang nhưng vẫn

thường xuyên về thăm nom cha mẹ nên cũng không có cơ sở để xác định bà Nga đã có hành vi vi

phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình, để xác định bà Nga không được hưởng di sản

của ông Bình, bà Như.


DÂN SỰ HỌC KỲ
VẤN ĐỀ 1
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC
- Nguyên đơn là bà Định Thị T
- Bị đơn là ngân hàng A - chi nhánh T.H (bà Hoàng Lan H là đại diện theo ủy
quyền)
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần đầu tư phát triển M.N
(ông Mai Thanh P là đại diện theo ủy quyền)
Loại tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Lý do tranh chấp: Bà T cho Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển M.N vay số tiền
7.000.000.000 đồng, có đảm bảo bằng bảo lãnh của Ngân Hàng A. Do Công ty M.N
không thanh toán đúng hạn số tiền vay nêu trên cho bà T, Ngân hàng A cũng không
đồng ý thanh toán tiền vay và tiền lãn theo Thư bảo lãnh nên bà T khởi kiện yêu
cầu Tòa án buộc Ngân hàng A phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Nhận định của Tòa án: Việc Ngân hàng A cho rằng ông H1 không có quyền đại
diện cho Ngân hàng A để ký bảo lãnh vay vốn trong nước là quy định nội bộ trong
Ngân hàng A. Công ty M.N và bà T không phải biết và không buộc phải biết các
quy định nội bộ nêu trên. Do đó, Ngân hàng A buộc phải có trách nhiệm thực hiện
cam kết bảo lãnh tại Thư bảo lãnh do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H phát hành.

Tóm tắt Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại TPHCM
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP K – Chi nhánh Đồng Nai

Bị đơn: Công ty TNHH N

Loại tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Lý do tranh chấp: Ngân hàng TMCP K – Chi nhánh Đồng Nai có ký hợp đồng tín
dụng với Công ty TNHH N để Công ty N vay vốn 2.000.000.000 đồng, thời hạn vay
là 08 tháng. Bao gồm các tài sản thế chấp khác. Ngày 14/9/2010, Ngân hàng K đã
giao cho Công ty N số tiền 02 tỷ đồng, nhưng Công ty N vi phạm nghĩa vụ thanh
toán, dù Ngân hàng K đã nhiều lần yêu cầu nhưng Công ty N vẫn không thực hiện.
Sau đó, Công ty N đã thanh toán số tiền lãi là 77.613.890 đồng. Ngày 14/12/2010,
Ngân hàng K chuyển toàn bộ số vốn vay thành khoản nợ quá hạn. Ngân hàng K yêu
cầu Công ty N phải thanh toán số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng, tiền lãi gồm lãi
suất quá hạn và lãi phạt, tổng là 2.890.456.069 đồng.

Nhận định của Tòa án: Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất, cụ T là chủ sở hữu hợp pháp đối với nhà đất vì vậy cụ T có quyền ký hợp
đồng thế chấp bảo lãnh theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, cụ T là chủ sở
hữu nhà đất nên cụ T có quyền ủy quyền cho ông T2 toàn quyền sử dụng

Căn cứ xác lập đại diện

1.1 Điểm mới của BLDS 2015 (so với năm 2005) về người đại diện.

BLDS 2015 BLDS 2005

Pháp nhân đại Đại diện là việc cá nhân, pháp Đại diện là việc một người (sau
diện nhân (sau đây gọi chung là đây gọi là người đại diện) nhân
người đại diện) nhân danh và danh và vì lợi ích của người
vì lợi ích của cá nhân hoặc khác (sau đây gọi là người
pháp nhân khác (sau đây được được đại diện) xác lập, thực
gọi chung là người đại hiện giao dịch dân sự trong
diện) xác lập, thực hiện giao phạm vi đại diện. Người đại
dịch dân sự (Điều 134). diện phải có năng lực hành vi
+ Pháp nhân có thể đại diện dân sự đầy đủ, trừ trường hợp
cho cá nhân và pháp nhân quy định tại khoản 2 Điều 143
khác. của Bộ luật này.
+ Không thừa nhận khả năng
đại diện của pháp nhân (Điều
139).

Số người đại Một người hay nhiều người Một người (Điều 139 BLDS
diện cùng đại diện. 2005).

Phân loại đại Phân loại dựa vào căn cứ Phân loại dựa vào tiêu chí căn
diện xác lập quyền và chủ thể đại cứ xác lập quyền (Theo pháp
diện luật hay theo ủy quyền):
+ Đại diện theo pháp luật của + Đại diện theo pháp luật
cá nhân + Đại diện theo ủy quyền
+ Đại diện theo pháp luật của
pháp nhân
+ Đại diện theo ủy quyền

Năng lực của Trường hợp pháp luật quy Người đại diện phải có năng
người đại diện định thì người đại diện phải lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
có năng lực pháp luật dân sự, trường hợp quy định tại khoản
năng lực hành vi dân sự phù 2 Điều 143 (khoản 5 Điều
hợp với giao dịch dân sự được 139)
xác lập, thực hiện (Khoản 3
Điều 134)

Hình thức ủy Bỏ qua quy định về hình thức Hình thức ủy quyền do các bên
quyền (vì nếu có quy định buộc ủy thỏa thuận, trừ trường hợp
quyền theo một hình thức pháp luật quy định việc ủy
nhất định thì các quy định quyền phải được lập thành văn
chung về giao dịch dân sự đã bản (khoản 2 Điều 142)
buộc phải tuân thủ)

Hậu quả pháp Điều 139 Bộ luật dân sự 2015 Người được đại diện có quyền,
lý của hành vi (mới ở khoản 2) nghĩa vụ phát sinh từ giao
đại diện dịch dân sự do người đại
diện xác lập (khoản 4 điều
139)

Thời hạn đại Điều 140 BLDS 2015 Thời Quy định thời hạn 1 năm chỉ
diện và phạm Hạn đại diện được xác định đối với đại diện theo ủy quyền
vi đại diện theo văn bản ủy quyền, theo
quyết định của cơ quan có
thẩm quyền, theo điều lệ của
pháp nhân hoặc theo điều lệ
của pháp luật. Đại diện theo
ủy quyền cũng như đại diện
theo pháp luật.

Không-có Không nhập hai trường hợp + Không có quyền đại diện
quyền đại trong cùng một điều luật Điều 142 BLDS 2005
diện + Không có quyền đại diện:
Điều 142 BLDS 2015 đã sửa
từ “đồng ý” thành cụm từ
“công nhận giao dịch” và bổ
sung thêm hai trường hợp.
Không nhập hai trường hợp
trong cùng một điều luật
+ Không có quyền đại diện:
Điều 142 BLHS 2015 đã
sửa từ “đồng ý” thành cụm từ
“công nhận giao dịch” và bổ
sung thêm hai trường hợp.

1.2 Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho ngân hàng là đại diện theo
pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Ông H1 là đại diện cho Ngân hàng A theo ủy quyền. Theo khoản 4 Điều 92
BLDS 2005 có quy định “Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện
nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.”

 Hoàn cảnh của người được đại diện


1.3 Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý trường hợp
đại diện không hợp lệ, nhất là việc khai thác lý thuyết “đại diện bề
ngoài/apparent agent”? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Các nước theo hệ thống thông luật (Common Law) thường có những quy định
về apparent authority cởi mở hơn nhằm tăng cường bảo vệ bên thứ ba ngay tình
trong giao dịch với công ty, đồng thời tạo ra sức ép để các công ty hoàn thiện cơ chế
quản lý nội bộ.
“Nhằm mục đích bảo vệ bên thứ ba ngay tình (tức là không biết và không thể
biết người đại diện mà mình giao dịch cùng có đủ thẩm quyền hay không), hệ thống
pháp lý nhiều nước đã thiết kế nên nguyên tắc đại diện hiển nhiên (tiếng Anh là
apparent agency/apparent representation và tiếng Nhật là đại diện biểu kiến - dairi
hyoken). Nguyên tắc này có nội dung cơ bản như sau:
“...Hợp đồng khi được lập bởi người đại diện vượt quá thẩm quyền của mình sẽ
không ràng buộc người được đại diện trừ trường hợp người này (người được đại
diện) thừa nhận chấp thuận hành vi đã thực hiện của người đại diện. Tuy nhiên,
người được đại diện sẽ chịu ràng buộc, kể cả khi không thừa nhận, nếu bằng lời nói
hoặc hành vi của mình đã cho phép một người hiện diện ra với thế giới bên ngoài
như là đại diện của mình và bên thứ ba, bằng suy luận hợp lý, tin rằng người này là
người đại diện (của người được đại diện), vì thế đã giao kết hợp đồng. Trong
trường hợp này, thân chủ (người được đại diện) không thể vô hiệu việc đại diện
“hiển nhiên” này nếu (việc vô hiệu) gây tổn thất cho bên thứ ba”.[1]
Tại Nhật Bản, các nhà làm luật đã thiết kế nên 3 điều luật rất quan trọng trong
Bộ luật Dân sự (BLDS) Nhật Bản. Đó là các điều: Điều 109 “Đại diện biểu kiến",
Điều 110 “Đại diện biểu kiến khi vượt quá thẩm quyền" và Điều 112 “Đại diện biểu
kiến khi hết thẩm quyền đại diện”.
Điều 109 quy định rằng: “Người khiến cho bên thứ ba tin tưởng rằng mình đã
trao quyền đại diện nhất định cho một người khác phải chịu trách nhiệm cho hành
vi trong phạm vi được cho là ủy quyền của người này đối với bên thứ ba”. Vì vậy,
bất kể có hay không hành vi ủy quyền thực, nếu một người (người được đại diện)
khiến bên thử ba tin rằng anh ta đã trao quyền đại diện cho một người khác – người
đại diện cho mình (bằng quảng cáo trên báo chỉ, thông bảo, giấy ủy quyền chung,
ủy quyền không, cho phép sử dụng con dấu hay trụ sở v.v..) thì người này sẽ bị ràng
buộc bởi giao dịch xác lập giữa người đại diện cho mình và bên thứ ba trong phạm
vi được cho là ủy quyền đại diện. Trong một vụ án nổi tiếng tại Nhật Bản, nhân viên
làm việc tại Tòa sơ thẩm Tokyo đã lập một văn phòng trong khuôn viên của Tòa và
đặt tên là “Văn phòng phúc lợi của Tòa sơ thẩm”. Nguyên đơn bản văn phòng
phẩm cho văn phòng này nhưng văn phòng không thanh toán. Nguyên đơn kiện
Nhà nước Nhật Bản với lập luận rằng. Tòa sơ thẩm Tokyo và cơ quan trên nó là Nhà
nước Nhật Bản và Nhà nước Nhật Bản phải chịu trách nhiệm cho giao dịch của văn
phòng này, vì đã khiến cho nguyên đơn tin tưởng rằng đó thực sự là một cơ quan
thuộc Tòa sơ thẩm. Dù thực tế không có mối liên quan chính thức nào giữa Văn
phòng phúc lợi và Tòa sơ thẩm, nhưng Tòa án tối cao Nhật Bản vẫn tuyên rằng Tòa
sơ thẩm đã tạo cho Văn phòng phúc lợi vẻ bề ngoài rằng, Văn phòng là một bộ phận
của Tòa và vì vậy, Tòa sơ thẩm có trách nhiệm phải thanh toán cho nguyên đơn.[2]
Điều 110 BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu người đại diện đã có hành vi vượt
quá thẩm quyền của mình và bên thứ ba có lý do chính đáng để tin rằng người đại
diện có thẩm quyền để thực hiện hành vi đó thi quy định của Điều 109 sẽ được áp
dụng tương tự”. Trường hợp tại Điều 110 khác Điều 109 ở chỗ là người đại diện
thực tế đã được ủy quyền đại diện. Tuy nhiên người đại diện khi thực hiện đại diện
đã vượt quá phạm vi thẩm quyền của mình. Trong một vụ án, người đại diện được
ủy quyền đi đăng ký sở hữu miếng đất. Để đăng ký, người được đại diện đã trao
giấy tờ và con dấu cho người đại diện. Tuy nhiên, thay vì đăng ký, người đại diện
lại đem bán miếng đất cho bên thứ ba. Tòa án tối cao đã phán quyết cho phép bên
mua thứ ba được sở hữu miếng đất. [3]
Điều 112 quy định: “Việc chấm dứt thẩm quyền đại diện không thể dùng để đối
kháng với bên thứ ba ngay tinh trừ khi bên này vi lỗi vô ý đã không biết". Nó có
nghĩa là nếu bên thứ ba tin rằng người đại diện được ủy quyền đại diện (dù thẩm
quyền này thực ra đã chấm dứt) mà giao dịch với người này thì, trừ trường hợp bên
thứ ba biết hoặc buộc phải biết là thẩm quyền đại diện đã chấm dứt, thân chủ (người
được đại diện) sẽ bị ràng buộc bởi giao dịch của người đại diện.
Tại các nước theo hệ thống thông luật, nguyên tắc đại diện hiển nhiên được áp
dụng tại các án lệ, ví dụ: Royal British Bank v. Turquand [1856], Freeman &
Lockyer v. Buckhurst Park Properties (Mangal) Ltd [1964] v.v."
[1] Hugh Beale & Arthur Hartkamp et al, Cases, Materials and Text on Contract
Law, trang 927 (Hart Publishing Co., 2002).
[2]TATC Nhật Bản, Minzhū 11-2-227, ngày 07/02/1957.
[3]TATC Nhật Bản Minshu 25-4-455, ngày 03 05/1971.
Trích “Nguyên tắc “đại diện hiển nhiên” trong pháp luật hợp đồng”, Bài viết
đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22(278), tháng 11/2014,
TS.Nguyễn Quốc Vinh.
Theo luật công ty Úc, người thứ ba ngay tình có quyền suy đoán (statutory
assumptions) về “thẩm quyền đương nhiên" (apparent authority) hoặc thẩm quyền
mặc định (implied actual authority) của một đại diện công ty khi thực hiện các giao
dịch với người đại diện. Nghĩa là về nguyên tắc, hợp đồng do người đại diện kỹ
vượt quá phạm vi thẩm quyền đại điện (defective contracts) vẫn có hiệu lực, trừ khi
công ty (người được đại diện) có thể chứng minh rằng người thứ ba không ngay
tỉnh. Câu chuyện vượt quá thẩm quyền đại diện chỉ là câu chuyện của hai bên - bên
đại diện và bên được đại diện - chứ không phải gánh nặng của bên thứ ba - người có
giao dịch với công ty thông qua người đại diện. Úc đã đưa những quy định này vào
trong Luật công ty Úc ở điều 128 và 129 Luật Công ty 2001 và gọi là statutory
assumptions.
1.4 Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng phải
chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở
các quy định về đại diện hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu của
Hội đồng thẩm phán có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng phải chịu
trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Căn cứ theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2015 về đại diện hiện nay, theo tôi, hướng giải quyết vừa nếu của
Hội đồng thẩm phán có thuyết phục. Cụ thể, theo quy định tại điểm b và điểm c
khoản 1 quy định về “Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực
hiện vượt quá phạm vi đại diện” như sau:
“Điều 143. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện:
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao
dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau
đây:
a) Người được đại diện đồng ý;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt
quá phạm vi đại diện.”
Căn cứ theo hai quy định nêu trên và nhận định của Tòa về vụ án, tại có thể thấy
Ngân hàng A - Chi nhánh T.H. đã vi phạm quy định tại điểm b Điều 143 Bộ luật
Dân sự 2015, vì trong quá trình, Tòa xác định được Ngân hàng A đã biết về việc
ông H1 (nguyên Giám đốc Ngân hàng) ký phát hành Thư bảo lãnh. Tuy nhiên, ngân
hàng A đã có động thái không phản đối trong thời hạn hợp lý đối với Thư bảo lãnh
này, thậm chí ngân hàng A - Chi nhánh T.H cũng có Văn bản số 217 ngày 21/7/2011
xác nhận việc phát hành Thư bảo lãnh trên là có thực và đúng thẩm quyền của Giám
đốc A. Đồng thời, Tòa nhận định tại mục [4] như sau: “Ngân hàng A - Chi nhánh
T.H là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng A, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một
phần chức năng của pháp nhân là Ngân hàng A; khi Chi nhánh Ngân hàng A xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng A.
Do đó, trong trường hợp này Ngân hàng A phải có trách nhiệm thực hiện cam kết
bảo lãnh tại Thư bảo lãnh do Ngân hàng A - Chi nhánh T.H phát hành theo quy
định tại Điều 93 Bộ luật Dân sự 2005…”. Đồng thời, trích nhận định của Tòa án tại
mục [6] như sau: “Thư bảo lãnh do ông H ký với tư cách là Giám đốc Ngân hàng A
- Chi nhánh T.H nên Thư bảo lãnh là văn bản do Ngân hàng A phát hành, trong đó
ông H1 chỉ ký với tư cách là người đại diện của Ngân hàng A”.
Theo đó, Ngân hàng A - Chi nhánh T.H đã vi phạm điểm b khoản 1 Điều 143 Bộ
luật Dân sự 2015 khi không phản đối hành vi giao dịch dân sự do ông H1 (người đại
diện) xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, đồng thời vi phạm điểm c khoản
1 Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 khi phát hành văn bản xác nhận việc phát hành
Thư bảo lãnh trên là có thực và đúng thẩm quyền của Giám đốc (Văn bản số 217
ngày 21/7/2011). Văn bản số 217 có thể xem là “lỗi” đến từ phía Ngân hàng A
(pháp nhân được đại diện) làm người giao dịch (bà Đinh Thị T.) không biết về việc
người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình (ông H1) vượt quá phạm vi
đại diện. Do đó, theo tôi quyết định của Tòa án tại Quyết định số 09 yêu cầu Ngân
hàng phải chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập là hợp lý và
đúng theo quy định của pháp luật.

 Hoàn cảnh của người đại diện


1.5 Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với
giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
Theo quy định của pháp luật hiện hành, người đại diện không phải chịu trách
nhiệm đối với giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện, nếu giao dịch
đó phù hợp với phạm vi đại diện. Cụ thể, căn cứ theo khoản 1 và 2 Điều 139 Bộ luật
Dân sự 2015 quy định về “Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện” như sau:
“Điều 139. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp
với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
2. Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục
đích của việc đại diện.”
Đồng thời, đối với các giao dịch dân sự có người đại diện xác lập, thực hiện
vượt quá phạm vi đại diện nhưng thuộc về các trường hợp được quy định tại khoản
1 Điều 143 thì người đại diện cũng không phải chịu hậu quả pháp lý. Cụ thể:
“Điều 143. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao
dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau
đây:
a) Người được đại diện đồng ý;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt
quá phạm vi đại diện.”
Tuy nhiên, trong các trường hợp khác được quy định tại Điều 141 về “Phạm vi
đại diện”, khoản 2 Điều 139 về “Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện” và khoản 2
Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 về “Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện”, trong trường hợp người đại diện tự ý
thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện được quy định tại khoản 1 và
2 Điều 141 quy định sẽ phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định tại khoản 2 Điều
143, trừ ngoại lệ được liệt kê tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể:
“Điều 141. Phạm vi đại diện
1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản
1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao
dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác
nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của
người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của
mình.”.
“Điều 143. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện
2. Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm
vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với
phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại
diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch
vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về
việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.”
1.6 Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, việc đưa ông H1 vào tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là
không cần thiết và không phù hợp với các quy định của pháp luật.
Cụ thể, trích đoạn mục [6] Nhận định của Tòa án ghi nhận như sau: “Thư bảo lãnh
do ông H ký với tư cách là Giám đốc Ngân hàng A - Chi nhánh T.H nên Thư bảo
lãnh là văn bản do Ngân hàng A phát hành, trong đó ông H1 chỉ ký với tư cách là
người đại diện của Ngân hàng A. Do đó, Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định việc
giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T có liên quan đến trách nhiệm của ông H1
trong việc ký Thư bảo lãnh là cần thiết đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù hợp với các quy
định của pháp luật.”
1.7 Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội
đồng thẩm phán (về vai trò của người đại diện).
Theo tôi, hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán về vai trò của
người đại diện là hợp lý. Theo nhận định của Tòa án về vai trò của người đại diện
(ông H1), ông H1 chỉ phải chịu trách nhiệm cá nhân với pháp nhân là Ngân hàng A,
còn “liên quan đến trách nhiệm của ông H1 trong việc ký Thư bảo lãnh là cần thiết
đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án là không phù hợp với các quy định của pháp luật.” (trích mục
[6]).
Trong trường hợp này, Ngân hàng A - Chi nhánh T.H là bên có lỗi khi biết về sự
tồn tại của hành vi ký Thư bảo lãnh của ông H1 đối với bà T. vào thời điểm đó
nhưng không có động thái phản đối (vi phạm điểm b khoản 1 Điều 143 BLDS
2015) và thậm chí phát hành Văn bản 217 xác nhận (vi phạm điểm c khoản 1 Điều
143 BLDS 2015). Do đó, theo tôi quyết định của Tòa án tại Quyết định số 09 nhận
định về vai trò của người đại diện không phải chịu trách nhiệm tố tụng với tư cách
là người có quyền và nghĩa vụ liên quan là hợp lý. Và vì quy định về phạm vi đại
diện thuộc về quy định trong Điều lệ của pháp nhân (Ngân hàng A - Chi nhánh
T.H), đồng thời trách nhiệm kiểm tra, thẩm định, quyết định thuộc về Ngân hàng
với ông H1 nên đây là trách nhiệm giữa cá nhân với pháp nhân.

 Quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện
1.8 Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu ít
nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Xét theo kinh nghiệm của pháp luật dân sự nước Pháp về quyền của người đại
diện trong hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thuộc phạm vi đại diện của
người đại diện. Ta có thể thấy, Bộ luật Dân sự Pháp ghi nhận ba dạng đại diện là
“đại diện theo luật, đại diện tư pháp hay đại diện theo thỏa thuận” (Điều 1153 sau
sửa đổi năm 2016). Ở đây, đại diện theo luật là trường hợp người đại diện có quyền
đại diện “từ luật”. Chẳng hạn, đó là trường hợp của cha và mẹ, người quản lý theo
pháp luật đối với tài sản của con chưa thành niên hay trường hợp của người giám
hộ. Đó còn là trường hợp thẩm quyền đại diện của nhiều cơ quan trong doanh
nghiệp trong lĩnh vực doanh nghiệp”[1]. Đại diện tư pháp là trường hợp người đại
diện “được trao quyền trên cơ sở quyết định của Tòa án (…). Chẳng hạn, khi người
vợ hay chồng hay đồng sở hữu không thể trong tình trạng thể hiện được ý chí của
mình hay khi một người bị biệt tích”[2].
- Đối với đại diện theo pháp luật:
Người được đại diện không có/còn quyền: Trước sửa đổi BLDS năm 2016,
BLDS Pháp chưa thực sự rõ ràng về khả năng tự xác lập, thực hiện giao dịch của
người được đại diện trong đại diện theo pháp luật.
Với cải cách năm 2016, đã có “những thay đổi về đại diện”[3] và Điều 1159
BLDS của Pháp ngày nay quy định “Trong trường hợp thẩm quyền đại diện được
xác lập theo luật hoặc theo quyết định của tòa án thì trong thời hạn đại diện, người
được đại diện không có các quyền hạn đã được trao cho người đại diện”. Với quy
định này, “khi đại diện theo luật hay tư pháp được triển khai, người được đại diện
không có/còn quyền hạn đã được trao cho người đại diện trong toàn bộ thời gian
đại diện” [4], “người được đại diện không còn có thể tự tiến hành các giao dịch mà
người đại diện theo luật hay tư pháp đã được trao quyền triển khai”[5]. Với nội
dung nêu trên, “do luật không phân biệt, việc không có/còn quyền này áp dụng cho
giao dịch về quản lý cũng như cho giao dịch về định đoạt tài sản”[6].
Ở đây, “khi không có/còn quyền, người được đại diện không còn có thể tự tiến
hành các giao dịch mà người đại diện theo luật hay tư pháp được trao quyền.
Người được đại diện bị loại bỏ việc thực hiện các quyền của mình trong toàn bộ
thời gian đại diện. Người được đại diện bị loại bỏ quyền trong trường hợp này rơi
vào hoàn cảnh tương đồng với hoàn cảnh của người không có năng lực” [7].
Cơ sở của việc không có/còn quyền: Như đã nêu “trong đại diện theo luật hay
tư pháp, có việc chuyển giao mang tính áp đặt quyền hạn của người được đại diện
cho người đại diện mà luật hay tòa án buộc họ phải theo”[8]. Khi đưa ra hướng
này, nội tại Điều 1159 BLDS Pháp chưa cho biết lý do vì sao người được đại diện
không có hay không còn quyền tự xác lập, thực hiện các giao dịch được trao cho
người đại diện.
Theo các tác giả Pháp, “đại diện theo luật hay tư pháp được triển khai để bảo
vệ người được đại diện hay người thứ ba đối với giao dịch mà người được đại diện
có thể thực hiện nên người được đại diện không có khả năng thực hiện các giao
dịch đó là chính đáng”[9]. Ở đây, “đại diện có mục đích bảo vệ hay trừng phạt
người được đại diện nên việc không còn cho họ quyền xác lập, thực hiện giao dịch
là cần thiết”[10]. Trong trường hợp đại diện theo luật hay tư pháp, lý do cho việc
chuyển giao quyền xác lập, thực hiện giao dịch được lý giải bởi nhu cầu bảo vệ hay
nhu cầu trừng phạt người được đại diện. Người được đại diện không còn quyền nữa
vì cần bảo vệ họ hay do họ bị trừng phạt. Nói cách khác, “chính vì đại diện theo
luật hay tư pháp được áp đặt cho người được đại diện với vai trò trừng phạt hay
bảo vệ mà đại diện theo luật hay tư pháp làm mất quyền của người được đại
diện”[11].
Bên cạnh đó, còn lý do nữa cho hướng giải quyết nêu trên là “việc không còn
cho phép người được đại diện còn quyền đối với giao dịch có chức năng chính yếu
là tránh những xung đột về giao dịch giữa người được đại diện và người đại
diện”[12].
Phạm vi không có/còn quyền: Với quy định trên, người được đại diện không
có/còn quyền đối với giao dịch thuộc thẩm quyền đã được trao cho người đại diện.
Điều đó có nghĩa là phạm vi không có/còn quyền của người được đại diện lệ thuộc
vào mức độ, phạm vi quyền được trao cho người đại diện.
Ở đây, “điều luật chỉ điều chỉnh việc không có/còn quyền thông qua đối tượng
của nó. Cụ thể, việc không có/còn quyền được triển khai đối với quyền được trao
cho người đại diện. Nó có tính hình học biến vì phụ thuộc vào phạm vi thẩm quyền
được trao cho người đại diện. Thực tế, người đại diện có thể được trao quyền thực
hiện một giao dịch hay một loạt các giao dịch (…). Vì thế, người được đại diện tiếp
tục được triển khai các giao dịch và thực hiện các quyền của mình không nằm trong
nhiệm vụ của người đại diện”[13].
Với nội dung trên, chúng ta hiểu rằng, phạm vi không có/còn quyền của người
được đại diện lệ thuộc phạm vi thẩm quyền được trao cho người đại diện. Thẩm
quyền của người đại diện càng lớn, việc không có/còn quyền của người được đại
diện càng cao nên khả năng tự triển khai các giao dịch của người đại diện càng nhỏ.
- Đối với đại diện theo ủy quyền:
Người được đại diện có/còn quyền: Trước sửa đổi BLDS năm 2016, BLDS
Pháp chưa thực sự rõ ràng về khả năng tự xác lập, thực hiện giao dịch của người
được đại diện trong đại diện theo ủy quyền.
Với cải cách năm 2016, đã có “những thay đổi về đại diện”[14] và khoản 2
Điều 1159 BLDS ngày nay quy định liên quan đến đại diện theo thỏa thuận như sau:
“trong trường hợp đại diện theo thỏa thuận, người được đại diện vẫn được thực
hiện các quyền của mình”. Ở đây, cơ chế đại diện theo thỏa thuận “không loại trừ
khả năng người được đại diện tự hành động”[15], “vẫn mở ra cho người ủy quyền
khả năng hành động ở bất kỳ thời điểm nào”[16].
Trên cơ sở nguyên tắc nêu trên, “các giao dịch thuộc nhiệm vụ của người được
ủy quyền không bị cấm đối với người ủy quyền dù đó là giao dịch mang tính quản lý
hay mang tính định đoạt tài sản, dù đó là giao dịch mang tính tài sản hay không
mang tính tài sản”[17]. Nói cách khác, quy định trên được thiết lập theo hướng ủy
quyền đại diện không làm cho người ủy quyền mất đi khả năng tự hành động;
“người ủy quyền có thể thực hiện các giao dịch mà việc triển khai đã được trao cho
người được ủy quyền. Có việc cạnh tranh quyền xác lập, thực hiện giao dịch”[18].
Cơ sở của việc có/còn quyền: Đối với đại diện theo thỏa thuận, phần trên đã cho
thấy BLDS Pháp quy định theo hướng “người được đại diện vẫn có thể thực hiện
một cách hợp pháp các quyền của mình, giao dịch mà người được đại diện xác lập
không bị vô hiệu vì người được đại diện vẫn giữ các quyền mà họ ủy quyền cho
người khác việc thực hiện”[19].
Theo các chuyên gia Pháp, “so với đại diện theo pháp luật hay tư pháp, trong
trường hợp của đại diện theo thỏa thuận thì người được đại diện vẫn còn khả năng
thực hiện quyền của mình. Sự khác biệt được lý giải bởi việc đại diện theo luật hay
tư pháp có mục đích bù đắp việc không có khả năng của người được đại diện trong
việc thể hiện ý chí của mình còn đại diện theo thỏa thuận được thiết lập để tạo điều
kiện cho việc xác lập giao dịch mà người được đại diện có thể tự xác lập”[20]. Ở
đây, “đại diện theo thỏa thuận không làm cho người được đại diện không có hay
không còn quyền. Người ủy quyền trao cho người đại diện quyền hành động ở vị trí
và địa điểm của người được đại diện nhưng họ không bị mất quyền tự hành động.
Đại diện theo thỏa thuận tạo ra nhân bản pháp lý không ảnh hưởng tới khả năng
của bản gốc”[21].
Nói cách khác, đại diện theo thỏa thuận là sự lựa chọn mà người đại diện tiến
hành, đó chỉ là một trong các cách thức mà người được đại diện thực hiện quyền
nên họ không mất quyền tự hành động cho dù đã ủy quyền cho người khác. Ở đây,
có việc ủy quyền chứ không có việc chuyển quyền nên người được đại diện vẫn còn
quyền, vẫn có thể tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người
đại diện.
Về khả năng thỏa thuận khác: Quy định trên được thiết lập theo hướng người
được đại diện theo ủy quyền (theo thỏa thuận) vẫn có quyền thực hiện các giao dịch
thuộc phạm vi trách nhiệm của người đại diện: “trong đại diện theo thỏa thuận,
người được đại diện vẫn giữ các quyền năng của mình”[22].
Điều 1159 BLDS Pháp vẫn chưa cho biết các bên được thỏa thuận theo hướng
khác hay không? Theo các chuyên gia Pháp,“quy định này không mang tính mệnh
lệnh”[23] mà có tính chất “tùy nghi”[24] nên các bên có thể thỏa thuận khác như
thỏa thuận chỉ bên đại diện được hành động đối với một số giao dịch cụ thể.
Với cách quy định theo hướng trên, có thể có “ủy quyền độc quyền”[25], tức chỉ
người đại diện được hành động đối với giao dịch liên quan. Trong những trường
hợp như vậy, “nếu giao dịch do người được đại diện xác lập vi phạm thỏa thuận
giữa người được đại diện và người đại diện, giao dịch này có thể làm phát sinh trách
nhiệm dân sự của người được đại diện đối với người đại diện và vẫn cho phép thực
hiện thỏa thuận giữa người được đại diện và người đại diện như vẫn phải thanh toán
thù lao cho người được ủy quyền”[26].
1.9 Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì sao?
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề quyền tự xác lập,
thực hiện giao dịch của người được đại diện trong phạm vi đại diện của người đại
diện như sau:
- Đối với đại diện theo pháp luật:
Nhận diện đại diện theo pháp luật: Điều 135 BLDS năm 2015 quy định
“Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại
diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau
đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”. Ở đây, đại diện theo pháp luật khác với
đại diện theo ủy quyền (được phân tích ở phần sau) và bao gồm đại diện được xác
lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như theo quyết định của
Tòa án, theo điều lệ của pháp nhân như “người được pháp nhân chỉ định theo điều
lệ” (điểm a khoản 1 Điều 137 BLDS năm 2015) hay theo quy định của pháp luật
như “Cha, mẹ đối với con chưa thành niên” và “Người giám hộ đối với người được
giám hộ” (khoản 1 và 2 Điều 136 BLDS năm 2015) là người đại diện theo pháp
luật.
Đối với pháp nhân: “Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: a)
Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; b) Người có thẩm quyền đại diện theo
quy định của pháp luật; c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa
án” (khoản 1 Điều 137 BLDS năm 2015). Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có
quy định tương tự như Pháp theo hướng khi có đại diện theo pháp luật thì người
được đại diện không có tự quyền xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại
diện của người đại diện theo pháp luật.
Thực ra, pháp nhân là một chủ thể pháp luật do con người tạo ra, tự thân pháp
nhân không thể tự xác lập, thực hiện giao dịch với người khác. Do là chủ thể hư cấu
(do con người tưởng tượng ra), pháp nhân không thể tự xác lập, thực hiện giao dịch
cho mình khi dù có đại theo pháp luật hay không có đại diện theo pháp luật. Đó là
nguyên lý chung của pháp nhân, không là điểm đặc thù riêng biệt của pháp nhân
Việt Nam, “dù có bị loại bỏ quyền hay không bị loại bỏ quyền của mình, pháp nhân
không thể tự thực hiện quyền của mình”[15].
Do đó, pháp nhân không thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch nên dù không
có quy định như Pháp nêu trên, kết quả vẫn như nhau là khi có đại diện theo pháp
luật, pháp nhân (người được đại diện) không thể tự thực hiện các giao dịch thuộc về
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Đối với cá nhân: Nếu pháp nhân luôn cần có người đại diện do không thể tự xác
lập, thực hiện các giao dịch thì cá nhân có thể cần người đại diện nhưng cũng có thể
không cần người đại diện mà tùy vào hoàn cảnh. Có trường hợp cá nhân cần có
người đại diện theo pháp luật như trường hợp của người mất năng lực hành vi dân
sự (người đại diện có cả vai trò là người giám hộ theo (khoản 2 Điều 136 BLDS
năm 2015). Trong trường hợp này, pháp luật Việt Nam chưa có quy định như Pháp
đã được nêu ở trên nhưng có quy định hướng tới kết quả gần tương tự. Bởi lẽ,
BLDS năm 2015 có quy định, theo đó “Giao dịch dân sự của người mất năng lực
hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” (khoản 2
Điều 22) và “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại
diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của
pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng
ý” (khoản 1 Điều 125). Ở đây, BLDS của chúng ta không có quy định như của Pháp
đã được nêu ở trên nhưng, với những quy định như vừa nêu, chúng ta có kết quả
tương đồng: Người được đại diện (là người mất năng lực hành vi dân sự) không thể
tự xác lập, thực hiện giao dịch vì nếu họ tự xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch
của họ rơi vào trường hợp vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện.
Tuy nhiên, có trường hợp cá nhân có người đại diện theo pháp luật nhưng chúng
ta lại chưa rõ là người được đại diện có thể tự xác lập, thực hiện giao dịch hay
không. Chẳng hạn, đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
Tòa án “chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”
(khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015) như sau: khi quyết định tuyên bố bà E “có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”, Tòa án quyết định “chỉ định bà A là người
giám hộ của bà E. Bà A thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ theo quy
định tại Điều 57, 58 Bộ luật Dân sự và thực hiện quản lý tài sản của người được
giám hộ theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Dân sự”[16]. Ở đây, chúng ta biết người
giám hộ (bà A) có quyền đại diện cho người được giám hộ (bà E) theo điểm b khoản
1 Điều 57 BLDS năm 2015, nhưng chúng ta chưa rõ là người được giám hộ (bà E)
có bị loại trừ khả năng tự xác lập, thực hiện giao dịch hay không và cũng không
chắc chắn về khả năng áp dụng khoản 1 Điều 125 nêu trên, do chưa rõ đây có phải
là giao dịch “phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý”. Nói
cách khác, đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì chúng ta
chưa thực sự rõ là việc có đại diện theo pháp luật có làm mất quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch của họ hay không.
Tương tự, BLDS năm 2015 có quy định về quản lý tài sản của người bị tuyên bố
mất tích (chưa bị coi là đã chết) tại Điều 69 theo hướng áp dụng các quy định tại
Điều 66 và 67 của cùng Bộ luật, trong đó người quản lý có việc “Bán ngay tài sản
là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng”, “Thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng, thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài
sản của người đó theo quyết định của Tòa án”. Ở đây, người quản lý được trao
quyền xác lập một số giao dịch và đây là giao dịch trên danh nghĩa của người bị
tuyên bố mất tích nhưng BLDS vẫn chưa cho biết người bị tuyên bố (chưa bị coi là
chết) có quyền tự tiến hành các giao dịch này hay không.
- Đối với đại diện theo ủy quyền:
Thực trạng văn bản: Phần trên cho thấy Pháp đã có quy định trong phần chung
về đại diện, theo đó “trong trường hợp đại diện theo thỏa thuận, người được đại
diện vẫn được thực hiện các quyền của mình”. Văn bản, cụ thể là BLDS của chúng
ta lại chưa có quy định tương tự.
Ở đây, chúng ta có quy định theo hướng người đại diện theo ủy quyền có quyền
xác lập, thực hiện giao dịch cho người đại diện như quy định, theo đó “Cá nhân,
pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự” (khoản 1 Điều 138 BLDS năm 2015) và người đại diện “được xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (khoản 1 Điều 141 BLDS năm
2015).
Tuy nhiên, chúng ta lại chưa có quy định cho biết là sau khi ủy quyền cho người
đại diện, người được đại diện có được tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi
đại diện của người đại diện hay không? Nói cách khác, chúng ta chưa có hướng xử
lý rõ ràng như Pháp trong văn bản, chúng ta không có văn bản cho biết hướng xử lý
rõ ràng về quyền của người được đại diện đối với giao dịch sau khi ủy quyền cho
người khác.
Thực tiễn xét xử: Trước sự không rõ ràng của văn bản, thực tiễn xét xử đã thể
hiện sự lúng túng trong việc xác định quyền của người được đại diện đối với giao
dịch sau khi ủy quyền cho người khác.
Để hiểu rõ hơn, chúng ta tham khảo nội dung sau đây của một quyết định giám
đốc thẩm. Cụ thể, theo một quyết định giám đốc thẩm năm 2018, “Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm còn nhận định rằng vào ngày 09/9/2010, cụ Tư đã lập hợp đồng
ủy quyền cho ông Tuấn toàn quyền sử dụng nhà đất với thời hạn 05 năm, trong khi
hợp đồng ủy quyền chưa chấm dứt thì cụ Tư đã ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh là
không đúng với Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự. Do cụ Tư là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù cụ Tư có
ủy quyền cho ông Tuấn toàn quyền sử dụng thì cũng không làm hạn chế hoặc làm
mất đi quyền về tài sản theo quy định pháp luật của cụ Tư. Do đó, nhận định của
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng là không chính xác”[31].
Nội dung trên cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm phân tích theo hướng
một khi đã ủy quyền rồi thì người ủy quyền (mở rộng ra là người được đại diện)
không còn có thể tự thực hiện các quyền đã ủy quyền cho người khác nữa như
không thể tự xác lập giao dịch nữa (và đó cũng là quan điểm của một số công chứng
viên hiện nay). Tuy nhiên, hướng đó đã không được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận.
1.10 Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền có được
tự xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
Theo Quyết định số 44, người ủy quyền được tự xác lập giao dịch đã ủy quyền
cho người khác. Cụ thể, trích nhận định của Tòa án tại mục [3] như sau:“…Do cụ
Nguyễn Thị T là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù cụ T có ủy quyền cho ông T2
toàn quyền sử dụmg thì cũng không làm hạn chế hoặc làm mất đi quyền về tài sản
theo quy định của pháp luật của cụ T.”
1.11 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân tích đối
với đại diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).
- Đại diện theo pháp luật:
 Đối với pháp nhân:
Thực ra, pháp nhân là một chủ thể pháp luật do con người tạo ra, tự thân pháp
nhân không thể tự xác lập, thực hiện giao dịch với người khác. Do là chủ thể hư cấu
(do con người tưởng tượng ra), pháp nhân không thể tự xác lập, thực hiện giao dịch
cho mình khi dù có đại theo pháp luật hay không có đại diện theo pháp luật. Đó là
nguyên lý chung của pháp nhân, không là điểm đặc thù riêng biệt của pháp nhân
Việt Nam, “dù có bị loại bỏ quyền hay không bị loại bỏ quyền của mình, pháp nhân
không thể tự thực hiện quyền của mình”[15].
Do đó, pháp nhân không thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch nên dù không
có quy định như Pháp nêu trên, kết quả vẫn như nhau là khi có đại diện theo pháp
luật, pháp nhân (người được đại diện) không thể tự thực hiện các giao dịch thuộc về
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
 Đối với cá nhân:
BLDS của chúng ta không có quy định như của Pháp đã đươc nêu ở trên nhưng,
với những quy định như vừa nêu, chúng ta có kết quả tương đồng: Người được đại
diện (là người mất năng lực hành vi dân sự) không thể tự xác lập, thực hiện giao
dịch vì nếu họ tự xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch của họ rơi vào trường
hợp vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện.
Tuy nhiên, có trường hợp cá nhân có người đại diện theo pháp luật nhưng chúng
ta lại chưa rõ là người được đại diện có thể tự xác lập, thực hiện giao dịch hay
không. Chẳng hạn, đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
Tòa án “chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”
(khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015) như sau: khi quyết định tuyên bố bà E “có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”, Tòa án quyết định “chỉ định bà A là người
giám hộ của bà E. Bà A thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ theo quy
định tại Điều 57, 58 Bộ luật Dân sự và thực hiện quản lý tài sản của người được
giám hộ theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Dân sự”[16]. Ở đây, chúng ta biết người
giám hộ (bà A) có quyền đại diện cho người được giám hộ (bà E) theo điểm b khoản
1 Điều 57 BLDS năm 2015, nhưng chúng ta chưa rõ là người được giám hộ (bà E)
có bị loại trừ khả năng tự xác lập, thực hiện giao dịch hay không và cũng không
chắc chắn về khả năng áp dụng khoản 1 Điều 125 nêu trên, do chưa rõ đây có phải
là giao dịch “phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý”. Nói
cách khác, đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì chúng ta
chưa thực sự rõ là việc có đại diện theo pháp luật có làm mất quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch của họ hay không.
Tương tự, BLDS năm 2015 có quy định về quản lý tài sản của người bị tuyên bố
mất tích (chưa bị coi là đã chết) tại Điều 69 theo hướng áp dụng các quy định tại
Điều 66 và 67 của cùng Bộ luật, trong đó người quản lý có việc “Bán ngay tài sản là
hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng”, “Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng,
thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của
người đó theo quyết định của Tòa án”. Ở đây, người quản lý được trao quyền xác
lập một số giao dịch và đây là giao dịch trên danh nghĩa của người bị tuyên bố mất
tích nhưng BLDS vẫn chưa cho biết người bị tuyên bố (chưa bị coi là chết) có
quyền tự tiến hành các giao dịch này hay không.
- Đại diện theo ủy quyền:
Chúng ta có quy định theo hướng người đại diện theo ủy quyền có quyền xác
lập, thực hiện giao dịch cho người đại diện như quy định, theo đó “Cá nhân, pháp
nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự” (khoản 1 Điều 138 BLDS năm 2015) và người đại diện “được xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (khoản 1 Điều 141 BLDS năm 2015).
Tuy nhiên, chúng ta lại chưa có quy định cho biết là sau khi ủy quyền cho
người đại diện, người được đại diện có được tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc
phạm vi đại diện của người đại diện hay không? Nói cách khác, chúng ta chưa có
hướng xử lý rõ ràng như Pháp trong văn bản, chúng ta không có văn bản cho biết
hướng xử lý rõ ràng về quyền của người được đại diện đối với giao dịch sau khi ủy
quyền cho người khác.

VẤN ĐỀ 2
Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao:
- Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê.

- Bị đơn: Chị Võ Thị Thu Hương, Anh Nguyễn Quốc Chính.

- Lí do: Bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có diện tích 101 m 2
đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê. Bà
đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông
Lưu cùng với chị Hương.
- Nội dung: Ngày 26-10-1964, ông Võ Văn Lưu kết hôn với bà Nguyễn Thị Thẩm
có đăng kí kết hôn. Chị Hương là con chung của ông Lưu và bà Thẩm. Sau ngày
miền nam giải phóng, ông Lưu chuyển công tác vào miền Nam, còn mẹ con chị vẫn
ở lại Phú Thọ. Ngày 07-10-1994, ông Lưu nhận chuyển nhượng 101 m 2 đất của bà
Nguyễn Thị Bướm để cất nhà ở. Ngày 21-10-1996, ông Lưu làm thủ tục đăng kí kết
hôn với bà Cao Thị Xê và chung sống đến khi ông Lưu chết (Năm 2003). Vào 2003,
vợ chồng chị Võ Thi Thu Hương, anh Nguyễn Quốc Chính đã vào sống tại căn nhà
này chung với bà Xê. Trước khi chết, ông Lưu có để lại di chúc cho bà Xê được
quyền sử dụng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng trong gia đình nên bà yêu cầu
được thừa kế theo di chúc của ông Lưu.

- Quyết định của Tòa: Bà Xê được hưởng toàn bộ di sản của ông Lưu mà không
chia cho bà Thẩm được thừa kế 2/3 kỳ phần thừa kế theo pháp luật là không đúng,
làm thiệt hại đến quyền lợi của bà Thẩm.

Tóm tắt Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn : Phạm Thị Ơn.

- Bị đơn: Lý Thị Chắc.

- Lý do : Bà Ơn yêu cầu bà Chắc dọn đi và trả lại căn nhà và một số tài sản vật dụng
trong nhà nhưng bà Chắc không đồng ý.

- Nội dung: Cha chồng của bà Ơn (cụ Huệ) đã tạo dựng căn nhà là 148,8 m 2 trên
diện tích 921,4m2. Đến năm 1991 thì được Sở xây dựng tỉnh Tiền Giang cấp giấy
chứng nhận. Trước khi chết, cụ Hà để lại di chúc cho ông Hà (con cụ Huệ), ông Hà
chết không để lại di chúc. Theo thỏa thuận, bà Ơn (vợ ông Hà) sẽ là người được
hưởng toàn bộ tà sản. Nhưng bà Chắc đã ở nhờ căn nhà này rất lâu dưới sự cho
phép của cụ Thiệu (mẹ đẻ cụ Huệ), nên khi được bà Ơn yêu cầu dọn đi thì bà Chắc
không đồng ý. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp
luật của vụ án là “Đòi nhà bị chiếm dụng ”là không đúng, mà phải xác định là “Đòi
nhà cho ở nhờ”. Viện Kiểm Sát kháng nghị và chỉ rõ ra điểm sai của Tòa án sơ
thẩm-phúc thẩm, đồng thời xem xét lại quyền lợi cho bà Chắc trong công sức quản
lí và bảo vệ nhà đất.
- Quyết định của Tòa: Hủy bản sơ thẩm–phúc thẩm, gia hồ sơ vụ án lại cho Tòa án
nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử.

Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp.
Hồ Chí Minh
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Khót, Ông An Văn Tâm.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Tài Nhật.

- Loại tranh chấp: Tranh chấp không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

- Lý do tranh chấp: Bà Khót khởi kiện yêu cầu được hưởng thừa kế của cụ Khánh
theo quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc.
- Quyết định của tòa án: Tòa án Nhân dân tối cao quyết định xác định di sản của cụ
Khánh là giá trị quyền sử dụng đất và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Khót
và ông Tâm.

Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hồng Vũ, bà Nguyễn Thị Kim Oanh, bà Nguyễn Thị
Kim Dung.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng Vân.
- Loại tranh chấp: Tranh chấp di sản thừa kế.
- Nội dung: Tài sản của cụ Phúc, cụ Thịnh gồm khoảng 200m2 đất trên có 2 ngôi
nhà 2 tầng, công trình phụ và đồ dùng khác tại số 708 Ngô Gia Tự. Ngoài ra còn
thừa đất ở 167 Nguyễn Văn Cừ đã cho ông Vũ bởi cụ Thịnh. Cụ Phúc có ý nguyện
sau khi bán nhà, đất tại 708 Ngô Gia Tự thì chia cho con gái mỗi người 30 triệu
đồng, còn con trai mỗi người 100 triệu đồng, còn lại để cho cụ Thịnh. Ngày
07/02/2006, cụ Thịnh họp gia đình và nhất trí sang tên sổ đỏ cho ông Vân. Ngày
08/05, cụ Thịnh viết di chúc để lại toàn bộ tài sản của mình cho ông Vân và ông trả
tiền cho các anh em.
- Quyết định của Tòa án:
Tòa sơ thẩm: Bác yêu cầu kiện đòi chia thừa kế của bà Nguyễn Thị Kim Oanh và bà
Nguyễn Thị Kim Dung, không chấp nhận yêu cầu đòi chia bằng hiện vật của ông
Nguyễn Hồng Vũ, giao cho vợ chồng ông Vân thửa đất số 26 và yêu cầu ông Vân
trả cho ông Vi 150 triệu đồng và ông Vũ 110 triệu đồng, xác nhận di chúc của cụ
Thịnh hợp pháp, xác nhận thửa đất số 26 là di sản của 2 cụ Phúc và Thịnh.

Tòa phúc thẩm: chấp nhận đơn yêu cầu thừa kế của bà Dung và bà Oanh, ông Vân
phải trả tiền cho ông Vũ, ông Vi đồng thời trả cho ba Oanh và bà Dung mỗi người
40 triệu đồng.

Tòa giám đốc thẩm: Hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời giao lại cho tỉnh
Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tóm tắt Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân
dân TP. Hồ Chí Minh.
- Người yêu cầu: Ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Yue Da Mining Limited.

- Nội dung tranh chấp: Yue Da Mining Limited yêu cầu tiến hành thủ tục xử lý tài
sản đảm bảo theo quy định tại Điều 5.1 của Hợp đồng bảo đảm ngày 05/9/2013 mà
Yue Da Mining Limited đã ký với ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân,
bà Trần Thị Bông Thành.
- Quyết định phán quyết của trọng tài: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc các bị đơn thanh toán cho nguyên đơn, các bị đơn có nghĩa vụ
thanh toán cho nguyên đơn trong 30 ngày kể từ ngày phán quyết có hiệu lực nếu
không toàn bộ tài sản bảo đảm được giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý, các bị
đơn có nghĩa vụ bồi hoàn phí cho nguyên đơn phí trọng tài và phí Luật sư trong thời
hạn 30 ngày nếu không phải thanh toán với mức lãi suất 10%/năm theo Điều 357,
khoản 2 Điều 468 BLDS 2015, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về số tiền
chậm lãi và các yêu cầu khác, phán quyết có hiệu lực từ ngày lập ra phán quyết. Tòa
án quyết định không hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM.

 Hình thức sở hữu tài sản


2.1 Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài
sản.
+ Điều 211 của BLDS 2005: Sở hữu tư nhân

+ Điều 205 của BLDS 2015: Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng

Sự khác nhau của 2 điều luật này là “sở hữu riêng” và “sở hữu tư nhân”, điều
này có nghĩa là cả cá nhân và pháp nhân đều là đối tượng được quyền sở hữu riêng.
Các tài sản hợp pháp của 2 đối tượng này thuộc sở hữu riêng sẽ không bị hạn chế về
số lượng và giá trị (điều này không được nêu rõ trong BLDS 2005).

+ Điều 213 của BLDS 2005: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu tư.

+ Điều 206 của BLDS 2015: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng.

Bản chất của 2 điều trên không thay đổi, chỉ thay đổi cụm từ “sở hữu tư nhân”
thành “sở hữu riêng”.

2.2 Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kì
hôn nhân với bà Thẩm không ? Đoạn nào trong Quyết định số 377 (sau đây là
viết gọn Quyết định 377) cho câu trả lời .
- Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt đươc ông Võ Văn Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Nguyễn Thị Thẩm.

- Trong Quyết định số 377 nêu rõ : “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6,
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
với bà Thẩm. Thực tế, từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác,
nhưng giữa ông Lưu và bà Thẩm có kinh tế riêng và ông Lưu đứng tên riêng đối với
nhà đất trên do ông Lưu tự tạo lập và là tài sản riêng của ông Lưu, cho thấy bà
Thẩm không có đóng góp về kinh tế cũng như công sức tạo lập nên ông Lưu có
quyền định đoạt với căn nhà nêu trên”.

2.3 Theo bà Thẩm căn nhà thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu
riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời.
- Theo bà Thẩm căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà.
- Trong Quyết định số 377 nêu rõ: “còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A Lý
Thường Kiệt trên diện tích 101m2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên không
nhất trí theo yêu cầu bà Xê.”

2.4 Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của
Quyết định 377 cho câu trả lời.
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của ông
Lưu.

- Trong Quyết định số 377 nêu rõ: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6,
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
với bà Thẩm. Thực tế, từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác,
nhưng giữa ông Lưu và bà Thẩm có kinh tế riêng và ông Lưu đứng tên riêng đối với
nhà đất trên do ông Lưu tự tạo lập và là tài sản riêng của ông Lưu, cho thấy bà
Thẩm không có đóng góp về kinh tế cũng như công sức tạo lập nên ông Lưu có
quyền định đoạt với căn nhà nêu trên”.

2.5 Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?
Phán quyết của Tòa án về vụ việc trên là hoàn toàn hợp lí vì ông Lưu và bà
Thẩm vẫn là mối quan hệ hôn nhân hợp pháp cho đến khi ông kết hôn với bà Xê và
ông chết. Mặt khác, hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê là bất hợp pháp nhưng ông đã
để lại di chúc cho bà Xê được hưởng toàn bộ tài sản. Trong khoảng thời gian ông
Lưu công tác ở miền Nam, bà Thẩm đã chăm sóc nuôi dưỡng các con và để đảm
bảo quyền lợi của người vợ hợp pháp nên bà phải được hưởng tài sản của ông.

2.6 Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.
Nếu căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm
thì ông Lưu không quyền định đoạt toàn bộ căn nhà. Ông phải thỏa thuận với bà
Thẩm về việc định đoạt tài sản chung chứ không tự mình định đoạt di sản theo di
chúc.

- CSPL: khoản 3 Điều 213 BLDS 2015.

 Diện thừa kế
2.7 Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không? Vì sao?
- Bà Thẩm, chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu vì bà Thẩm là vợ
hợp pháp của ông, chị Hương là con chung của 2 người.

- Bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu vì hôn nhân của 2 người
không được pháp luật công nhận.

2.8 Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?
Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì bà Xê sẽ thuộc hàng thừa
kế thứ nhất.

- CSPL : khoản a Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP

“ a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (Trước ngày 13-01-1960- ngày công
bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-03-
1977- ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả
nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập
kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bán án có hiệu lực
pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các
người vợ”.

2.9 Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?
- Chị Hương không được chia di sản của ông Lưu vì không được ông nhắc đến
trong di chúc mặc dù là con ông.
- Ở khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 có nhắc đến các trường hợp người thừa kế được
chia di sản khi không được nhắc đến trong di chúc, nhưng chị Hương không thuộc
các trường hợp được nêu ở điều khoản này.

- Có 2 trường hợp được nhắc đến ở điều khoản trên:

+ “ Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng”

+ “ Con thành niên mà không có khả năng lao động”

2.10 Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại ? Nêu cơ sở khi trả lời.
- Người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại là
tại thời điểm mở thừa kế phải còn sống hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di sản chết.

- CSPL : Điều 613 BLDS 2015: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di
chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.

2.11 Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp ? Vì sao?
- Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, thời điểm người thừa kế có
quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp là sau ngày 12/05/2008, sau khi ông Hà
chết.

- Vì sau khi người đó (ông Hà) mất đi thì người được hưởng thừa kế phải có quyền
và nghĩa vụ đối với di sản đó.

- CSPL: Điều 613 BLDS 2015.

 Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc


2.12 Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc
toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Đoạn trong Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài
sản của ông Lưu cho bà Xê: “Trước khi chết, ông Lưu có để lại di chúc cho bà được
quyền sử dụng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng trong gia đình nên bà yêu cầu
được thừa kế theo di chúc của ông Lưu”

2.13 Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
Chỉ có bà Thẩm thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc đối với tài sản của ông Lưu vì bà vẫn là vợ hợp pháp trên pháp luật của
ông Lưu.

Căn cứ theo “Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp
họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản
ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động”.

Vì vậy, chị Hương dù là con của ông Lưu nhưng lại không thuộc điều kiện theo
khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 nên không thuộc diện được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với tài sản của ông Lưu. Còn về bà Xê do
cuộc hôn nhân của bà và ông Lưu là trái pháp luật nên không được xem là vợ hợp
pháp.

2.14 Theo Tòa dân sự TANDTC, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?
Theo Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì bà là vợ
hợp pháp của ông Lưu và trong suốt thời gian từ khi ông vào miền Nam thì bà đã
trực tiếp nuôi dưởng con chung từ nhỏ đến khi trưởng thành và không còn khả năng
lao động.

Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Tuy nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp
pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn khả năng lao động, theo quy định tại Điều
699 BLDS thì bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào
nội dung di chúc của ông Lưu.”

2.15 Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì
sao?
Theo căn cứ theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 thì:

Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di
sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Vì vậy nếu bà Thẩm khoẻ mạnh, có khả năng lao động thì vẫn được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu. Vì trên
phương diện pháp luật bà Thẩm vẫn là vợ hợp pháp của ông Lưu.

2.16 Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ được
hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 nếu di sản của ông Lưu có
giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền bằng hai phần ba của
suất thừa kế theo pháp luật là: 2/3 xuất thừa kế theo pháp luật = 200 triệu Bà thẩm
được nhận 200 triệu.
2.17 Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm thì
yêu cầu được chấp nhận vì theo BLDS 2015 khoản 2 Điều 660 có quy định:
“Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không
thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định
giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì
hiện vật được bán để chia.”

Và trên thực tế bà Thẩm và ông Lưu có tài sản chung trên thực tế là một căn nhà
số 150/6A Lý Thường Kiệt, diện tích 101 m2, thành phố Mĩ Tho. Mặc dù căn nhà
được tạo bằng nguồn thu nhập của ông Lưu tuy nhiên đó vẫn là tài sản chung của bà
Thẩm và ông Lưu nên bà Thẩm vẫn được quyền chia sản bằng hiện vật đó là nhà và
đất.

2.18 Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án
cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Đoạn của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh
là: “cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An Văn Lầm có hai con là bà Nguyễn Thị Khót
sinh năm 1929 ông An Văn Tâm sinh năm 1932. cụ Khánh và của Nguyễn Tài Ngọt
có một con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930. năm 2000 cụ Khánh chết, mặc
dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh một cách đầy đủ nhưng đều
thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, Ông Tâm, ông Nhật.”

2.19 Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
Ông Nhật là người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản tranh chấp.

“Ngày 30-55-1992 tại phòng công chứng nhà nước số 2, Thành phố Hồ Chí
Minh cụ Khánh lập di chúc cho ông Nhật là người di nhất được quyền thừa kế căn
nhà 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2”

2.20 Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tại thời điểm cụ Khánh chết là năm 2000, bà Khót 71 tuổi (sinh năm 1929), ông
Tâm 68 tuổi (sinh năm 1932), như vậy tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông
Tâm là con đã thành niên của cụ Khánh.

Đoạn của bản án cho câu trả lời là: “Xét yêu cầu của ông Tâm, bà Khót về việc
được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc do không có khả
năng lao động vì tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi lại
là thương binh 2/4, thấy tại Điều 140, 145 của Bộ luật lao động năm 1994 quy định
độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và từ 15
tuổi đến 55 tuổi đối với nữ”.

Cơ sở Pháp lý: Điều 20 BLDS 2015: “Người thành niên là người từ đủ mười tám
tuổi trở lên.”

2.21 Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không ? Đoạn nào của bản án cho câu
trả lời?
Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Đoạn của bản án cho câu trả lời là: “Hơn nữa từ trước đến nay ông Tâm và bà
Khót có đời sống kinh tế độc lập không phụ thuộc vào cụ Khánh, bà Khót có gia
đình có tài sản riêng bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của
nhà nước theo diện người có công với cách mạng khoảng 400 000 đồng còn ông
Tâm tuy là thương binh 2/4 theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là
62% nhưng ông đã được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng lãnh
hơn 2 000 000 đồng nên hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận
yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào
di chúc”.

2.22 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo em, hướng giải quyết của Tòa Án là hợp lý.
Bởi vì; Cơ sở Pháp lý:

+ Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: (1) Những
người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó: (a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; (b) Con
thành niên mà không có khả năng lao động.”

+ Nghị quyết 03 ngày 8 tháng 7 năm 2006 của TANDTC thì để được xác định là
“người không có khả năng lao động” thì: (1) Họ phải rơi vào các trường hợp bị:
“liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn
từ 81% trở lên (2) Và cần có người thường xuyên chăm sóc.”

Như vậy, tại các điều khoản nêu trên, ông Tâm và bà Khót không thuộc trường
hợp trên nên không được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.

2.23 Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?
Trong trường hợp khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động thì hướng giải
trong trường hợp này ông tâm sẽ được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.
Bởi vì:

Cơ sở Pháp lý:

+ Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: (1) Những
người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó: (a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; (b) Con
thành niên mà không có khả năng lao động.”
+ Tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì để được xác
định là “người không có khả năng lao động” thì: (1) Họ phải rơi vào các trường hợp
bị: “liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh
viễn từ 81% trở lên (2) Và cần có người thường xuyên chăm sóc.”

Khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động, có nghĩa ông sẽ thuộc vào
trường hợp ở “Tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì
để được xác định là “người không có khả năng lao động” thì: (1) Họ phải rơi vào
các trường hợp bị: “liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các
trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả
năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên" như thế ông là người không có khả năng
lao động và thuộc điểm b khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 nên được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào di chúc.

2.24 Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
- Giống nhau:

+ Thể hiện ý chí tự do định đoạt của chủ sở hữu.

+ Bên sở hữu tài sản chuyển tài sản cho một bên khác mà không cần phải yêu

cầu đền bù.

+ Đều là người phải còn sống

-Điểm khác nhau:

Di chúc Tặng tài sản


Chủ thể Cá nhân Cá nhân, Pháp nhân
Khái niệm Thể hiện ý chí của cá nhân nhằm Sự thỏa thuận giữa các bên, theo
chuyển tài sản của mình cho đó bên tặng cho giao tài sản của
người khác sau khi chết. mình và chuyển quyền sở hữu
(Điều 624 BLDS 2015) cho bên được tặng cho mà không
yêu cầu đền bù, bên được tặng
cho đồng ý nhận.
(Điều 457 BLDS 2015)

Đặc điểm Thể hiện ý chí đơn phương của Là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí
một người định đoạt tài sản của cá song phương giữa người cho và
nhân của mình cho những người người được tặng và họ phải còn
thừa kế; sống tại thời điểm cho nhận tài
Người thừa kế thường là người sản;
thân của người lập di chúc; Người được tặng cho thường là
Những người được thừa kế không một người không thân thích;
phụ thuộc vào nội dung di chúc Những người thừa kế không phụ
vẫn được hưởng 2/3 của 1 suất thuộc vào nội dung của di chúc
thừa kế theo pháp luật không được phép đòi chia di sản
đã được tặng cho.

Đối tượng Tài sản hiện có hoặc tài sản được Tài sản hiện có, đang tồn tại chứ
hình thành trong tương lai. không phải tài sản được hình
thành trong tương lai.
Thời điểm Người thừa kế chỉ được nhận di Nếu hợp đồng tặng cho là động
sản sau khi người lập di chúc chết. sản: Có hiệu lực kể từ thời điểm
bên được tặng cho nhận được tài
sản;
Nếu hợp đồng tặng cho là bất
động sản: Phải lập thành văn bản
có công chứng, chứng thực hoặc
phải đăng ký và có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký
2.25 Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà
trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông
Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên
không?
- Căn cứ theo Điều 644, BLDS 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc:

“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp
họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản
ít hơn hai phần ba suất đó:

a. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là nhũng người không có quyền hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”.

Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, đồng thời không còn khả năng lao động, do
đó, bà Thẩm thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc đối với di sản của ông Lưu.

- Chị Hương là người đã thành niên và có khả năng lao động, do đó, chị Hương
không thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
đối với di sản của ông Lưu.

- Bà Xê không là vợ hợp pháp của ông Lưu, do đó, bà Xê không thuộc diện được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông
Lưu.

2.26 Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế
nào?
- Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tại Điều 954 có quy định:

“Trong trường hợp việc tặng cho bị hủy bỏ bởi các điều kiện kèm theo không được
thực hiện, người tặng cho được trả lại các tài sản đã tặng cho và không bị ràng buộc
bởi bất kỳ nghĩa vụ và hợp đồng thế chấp nào; người tặng cho có mọi quyền đối với
người thứ ba đang chiếm giữ bất động sản tặng cho như đối với người được tặng
cho”.

2.27 Suy nghĩ của anh/chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứucho
cả hợp đồng tặng cho.
Theo em khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng cho
là cần thiết vì còn một số vướng mắc:

Về vướng mắc:

Quy định Hợp đồng tặng cho tài sản và quy định tặng cho tài sản có điều kiện
tại các Điều 457, Điều 462 BLDS 2015 không phải là quy định mới. Vì các quy
định này đã quy định tại các Điều 465, Điều 470 BLDS được Quốc hội thông qua
ngày 14/06/2005 (sau đây viết là BLDS năm 2005) mà quy định tại các Điều 457,
Điều 462 BLDS 2015 về nội dung là căn bản giữ nguyên quy định tại các Điều 465,
Điều 470 BLDS năm 2005. Tuy có sửa đổi một vài từ, nhưng không ảnh hưởng đến
nội dung chính của điều luật. Các vướng mắc bao gồm:

a) Đối với cụm từ “không được bán” ghi trong hợp đồng tặng cho tài sản là nhà ở,
đất ở được hiểu như thế nào là đúng? Ví dụ ông A là bố của anh H. Ông A viết giấy
cho anh H căn nhà xây 02 tầng trên diện tích đất 200 m. Trong Giấy cho nhà ở, ông
A có ghi là: “cho nhà để ở, không được bán”. Nội dung ghi như thế này hiện đang
có hai ý kiến khác nhau như sau:

+ Ý kiến thứ nhất cho rằng cụm từ “không được bán” trong Giấy cho nhà là chấp
nhận được. Vì không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức xã hội.
+ Ý kiến thứ hai cho rằng từ “không được bán” trong Giấy cho nhà của ông A là ảnh
hưởng đến quyền định đoạt của anh H. Vì theo quy định tại Điều 457 BLDS hiện
hành thì hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng “chuyển quyền sở hữu”.

Đối với căn nhà mà ông A đã làm hợp đồng cho anh H, khi anh H đã đăng ký
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà ở, đất ở mà ông A đã
cho anh H thì kể từ thời điểm anh H đăng ký quyền sở hữu nhà ở thì anh H là chủ
sở hữu căn nhà và là người được sử dụng đất ở đối với căn nhà mà ông A đã cho.
Nói cách khác là, ông A đã chuyển quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở từ ông
A sang anh H. Cũng kể từ thời điểm anh H đăng ký quyền sở hữu nhà ở mà ông A
cho, thì anh H toàn quyền định đoạt căn nhà mà ông A đã cho anh H.

Nếu có cụm từ: “không được bán” trong Giấy cho nhà ở thì cụm từ này đã hạn
chế quyền định đoạt căn nhà đối với anh H cho đến khi ông thay đổi ý chí hoặc đến
khi ông A chết. Như vậy, cụm từ: “không được bán” trở thành điều kiện tặng cho tài
sản mà không rõ thuộc trường hợp khoản nào của Điều 462 BLDS.

Cụ thể là:

- Khoản 2 Điều 462 BLDS quy định về trường hợp người được nhận tài sản tặng
cho phải thực hiện nghĩa vụ trước khi được nhận tài sản tặng cho.

- Khoản 3 Điều 462 BLDS quy định về trường hợp người được nhận tài sản tặng
cho phải thực hiện nghĩa vụ sau khi nhận tài sản tặng cho.

- Khoản 1 Điều 462 BLDS quy định quyền được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ của
người tặng cho đối với người được tặng cho.

Đây là một vướng mắc chưa có lời giải.

b) Tên gọi của hợp đồng như thế nào là đúng đối với trường hợp tặng cho quyền sử
dụng đất? Cụ thể như sau:

+ Điều 105 BLDS hiện hành quy định về tài sản như sau: “1) Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2) Tài sản bao gồm: bất động sản và động sản. Bất
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
+ Điều 115 BLDS hiện hành quy định về “quyền tài sản” như sau: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền bao g ồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ, quyền sử dụng đất và cá quyền tài sản khác”. Theo quy định này thì quyền
sử dụng đất là “quyền tài sản” và theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS hiện
hành mà chúng tôi trình bày ở trên thì “quyền tài sản” là tài sản. Do đó được nói
(gọi) quyền sử dụng đất là tài sản.

+ Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai hiện hành (Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2013) quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừ kế, tặng cho, thế chấp góp vốn quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật này”. Theo quy định này, thì người sử dụng đất có
quyền tặng cho quyền sử dụng đất và theo quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất
đai hiện hành thì việc tặng cho quyền sử dụng đất phải lập thành hợp đồng tặng cho
và có công chứ hoặc chứng thực.

- Vấn đề đặt ra là Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có thể viết là Hợp đồng
tặng cho tài sản được không? Đây cũng là vướng mắc chưa có lời giải. Vì theo
BLDS hiện hành thì gọi là hợp đồng tặng cho tài sản (quyền sử dụng đất là tài sản).
Còn theo Luật Đất đai lại gọi là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Vậy thì gọi
hợp đồng gì là đúng? Vướng mắc này liên quan đến thời hiệu khởi kiện thì có tranh
chấp, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là 03 năm (Điều 429 BLDS hiện
hành quy định). Còn thời hiệu tranh chấp quyền sử dụng đất không quy định. Do đó
được hiểu là tranh chấp về quyền sử dụng đất không bị hạn chế về thời gian nên
khởi khiện lúc nào do đương sự tự quyết định.

Đề nghị:

- Để bảo sự thống nhất về nhận thức và thực hiện đúng quy định của pháp luật về
tặng cho tài sản có điều kiện, em nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản
hướng dẫn một số vấn đề sau đây:
a) Trường hợp hợp đồng tặng cho tài sản là nhà ở, đất ở mà trong hợp đồng có ghi
điều kiện là “Không được bán” thì hợp đồng tặng cho tài sản này thuộc khoản nào
của Điều 462 BLDS hiện hành.

b) Trường hợp, hợp đồng ghi là: “Hợp đồng tặng cho tài sản” và trong hợp đồng ghi
nội dung là tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất có diện tích (cụ thể là bao
nhiêu m2 có số thửa đất, có số tờ bản đồ địa chính, sau khi đăng ký quyền sử dụng
đất, người được tặng cho tài sản thực hiện quyền sử dụng đất thì bị người sử dụng
đất liền kề với thửa đất được tặng cho quyền sử dụng đất tranh chấp và hòa giải ở
cơ sở không kết quả, người sử dụng đất liền kề với thửa đất tặng cho đã có đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì người được tặng cho quyền sử dụng đất đã lấn
chiếm đất. Trường hợp này được áp dụng thời hiệu khởi kiện nào để giải quyết vụ
án. Cụ thể là áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 429 BLDS hiện hành
(Thời hiệu khởi kiện theo hợp đồng) hay áp dụng thời hiệu không hạn chế thời hiệu
khởi kiện (BLDS hiện hành không quy định thời hiệu khởi kiện về tranh chấp quyền
sử dụng đất).

c) Về tặng cho tài sản hình thành trong tương lai.

+ Điều 108 BLDS 2015 quy định “Tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương
lai như sau: “1) Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền
sở hữu quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.

2) Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:

a) Tài sản chưa hình thành.

b) Tài sản đã hình thành, nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm
xác lập giao dịch.”

Tuy đã có quy định tài sản hình thành trong tương lai tại khoản 2 Điều 108 BLDS
2015, mà em trình bày ở trên, nhưng trong thực tế, nhận thức về quy định tại khoản
2 Điều 108 BLDS 2015 (tài sản hình thành trong tương lai) là không thống nhất nên
rất cần sự hướng dẫn để có sự nhận thức thống nhất.
 Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản
2.28 Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời
CSPL: Điều 372, Điều 615 BLDS 2015

Theo BLDS 2015, căn cứ theo khoản 8, 9 Điều 372 BLDS 2015, nghĩa vụ của
người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt khi thuộc các khoản 8, 9 của Điều 372
BLDS 2015. Điều 372. Nghĩa vụ chấm dứt trong trường hợp sau đây:

1. Nghĩa vụ được hoàn thành;

2. Theo thỏa thuận của các bên;

3. Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ;

4. Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ khác;

5. Nghĩa vụ được bù trừ;

6. Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một;

7. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ đã hết;

8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ
phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;

9. Bên có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế hoặc
là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không được chuyển giao cho pháp
nhân khác;

10. Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa
vụ khác;

11. Trường hợp khác do luật quy định.


Tuy nhiên, vẫn có những nghĩa vụ người quá cố cần phải thực hiện bằng di sản và
chúng được quy định tại Điều 615 của bộ luật này.

Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm
vi di sản do người chết để lại.

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo dichúc thì
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nhưng người thừa kế là cá
nhân.

2.29 Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá
cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Điều 614 BLDS 2015, người thừa kế là người phải thực hiện nghĩa vụ về
tài sản của người quá cố. Điều 614. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người thừa kế. Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

2.30 Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi
trưởng thành không?
Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành. Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, và có người con chung là bà Hương
(“Ngày 26-10-1964 ông Võ Văn Lưu kết hôn với bà Nguyễn Thị Thẩm có đăng kí
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Kê, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Chị
Hương là con chung của ông Lưu, bà Thẩm”). Do vậy, ông Lưu phải có nghĩa vụ
nuôi dưỡng chị Hương trong thời gian từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành.

2.31 Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ
khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?
Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành. Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, và có người con chung là bà Hương
(“Ngày 26-10-1964 ông Võ Văn Lưu kết hôn với bà Nguyễn Thị Thẩm có đăng kí
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Kê, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Chị
Hương là con chung của ông Lưu, bà Thẩm”). Do vậy, ông Lưu phải có nghĩa vụ
nuôi dưỡng chị Hương trong thời gian từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành.

Đoạn "Mặc khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào Miền Nam công tác,
bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng
thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà
Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con
chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)."

2.32 Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có
phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công
sức nuôi dưỡng con chung không?
Theo Tòa dân tự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì sẽ trích cho
bà Thẩm một phần từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung. Căn cứ vào đoạn "Mặc khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu
vào Miền Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc
còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức
nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp
công sức nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)."

2.33 Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản,
anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 637: Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
"1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.

3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình
đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân."

Trong bản án thì Tòa án đưa ra giải pháp nếu bà Thẩm có yêu cầu chia tiền nuôi
con khôn lớn trong lúc không có ông Lưu là phải trích một khoản tiền trong di sản
của ông Lưu cho bà Thẩm. Giải pháp này rất hợp lý vì bà Hương cũng là con chung
của hai người nên cả hai phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng cũng như trợ cấp cho nhau
nếu không thể cùng nhau nuôi lớn con cái và trong trường hợp này số tiền ông Lưu
phải trả cũng giống như số nợ mà ông Lưu thiếu của bà Thẩm nên đó cũng chính là
nghĩa vụ tài sản của ông Lưu nên phải trích ra trả nợ.

2.34 Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người
quá cố khi họ còn sống?
Trong Quyết định số 26, ông Vân, ông Vi là người có công chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ: “Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ
và công quản lí di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là
người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà)”.

2.35 Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng của cha mẹ ông Vân, ông Vi được xử lí như thế nào?
Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm phải xác định được công sức
chăm sóc của cha mẹ và quản lí di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao
nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp tình, hợp
lí.

2.36 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lí trên của Tòa giám đốc thẩm (trong
mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố)
Hướng xử lí trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan hệ với các quy định
về nghĩa vụ tài sản của người quá cố) là hợp lí và thỏa đáng.
Tòa giám đốc thẩm xét thấy: “Trên đất tranh chấp có ngôi nhà 2 tầng và một
nhà trần làm công trình phụ, các đương sự khai không thống nhất phần diện tích
nào của cụ Phúc, cụ Thịnh để lại, phần diện tích nào do vợ chồng ông Vân làm, Tòa
án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ, nhưng lại xác định 2 ngôi
nhà một tầng là tài sản của cụ Phúc, cụ Thịnh là chưa đủ cơ sở vững chắc, đồng
thời Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Vân có công sức chăm sóc cha mẹ và công
quản lý tài sản nhưng lại không xác định công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý tài
sản đó được hưởng bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại để chia cho các đồng thừa
kế là chưa hợp lý.”
Nếu chia như Tòa sơ thẩm và phúc thẩm sẽ không đảm bảo được quyền lợi cho
các bên nên hướng xử lí của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.

2.37 Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ nào của
ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của
ông Định (ông Lĩnh và bà Thành)?
Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ của ông Định
được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông Định là ông
Lĩnh và bà Thành là thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên theo
Hợp đồng đảm bảo bằng cổ phần là ngày 1/6/2017.

2.38 Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người
thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào
việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa?
Hướng như vậy của Tòa án có thuyết phục hay không, vì sao?
- Mục 1.2 tại phần Nhận định Tòa án:
“Hội đồng xét đơn xét thấy: Người yêu cầu dựa vào khoản 2 Điều 5 Luật Trọng
tài thương mại để cho rằng ông Lĩnh, bà Thành chưa thực hiện thủ tục khai nhận di
sản thừa kế nên chưa có đủ điều kiện để HĐTT giải quyết tranh chấp theo yêu cầu
của nguyên đơn. Xét, lời trình bày này là không có căn cứ để chấp nhận vì pháp
luật không có quy định người thừa kế phải thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa
kế thì Hội đồng trọng tài mới được giải quyết tranh chấp.”

Hướng giải quyết như vậy của Tòa án là thuyết phục, theo khoản 8 Điều 658
BLDS 2015 quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán:
Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:

8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

Việc trả các khoản nợ là nghĩa vụ về tài sản đối với người thừa kế, không có quy
định về việc người thừa kế phải thực hiện thủ tục khai nhận tài sản mới phải thực
hiện nghĩa vụ tài sản nên hướng giải quyết của Tòa là thuyết phục.

2.39 Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
để lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không?
Nêu cơ sở pháp lý?
Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại
di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện.
CSPL: khoản 3 Điều 623 BLDS 2015 quy định về Thời hiệu thừa kế:
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Để tránh việc thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản bị thay đổi khi chưa đến thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện
khoảng thời hiệu khởi kiện, pháp luật Việt Nam cũng có quy định về việc thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản không lệ
thuộc vào thời hiệu.
CSPL: khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định về Thời gian không tính vào thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự:
Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải
quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi
kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép.

Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho
người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của
mình;

2.40 Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn
thực hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Ở thời điểm ông Định chết, nghĩa vụ của ông chưa đến hạn thực hiện.

- Mục 1.1 ở đoạn:


“Xét, theo quy định tại khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thì “Thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Người yêu cầu dựa vào quy định này để cho rằng
thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế là ông Lĩnh, bà Thành thực hiện nghĩa
vụ của người chết (ông Định) để lại đã hết do ông Định chết vào ngày 12/6/2015 và
ngày nguyên đơn nộp Đơn khởi kiện đề ngày 17/5/2019 (thực tế VIAC nhận đơn
ngày 29/5/2019). Tuy nhiên, do giữa nguyên đơn với bà Soan và Công ty Sao Mai
đã gia hạn nghĩa vụ thanh toán nợ đến ngày 31/5/2017 và một số đợt thanh toán
sau đó nên thời điểm các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình theo
thỏa thuận của các bên theo Hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần là ngày 01/6/2017.”
2.41 Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của
người quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ
được tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy có thuyết phục hay
không, vì sao?
Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá cố
vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện được tiến hành năm
2019 vì nguyên đơn là bà Soan và Công ty Sao Mai đã gia hạn nghĩa vụ thanh toán
nợ đến ngày 31/5/2017 và một số đợt thanh toán sau đó nên thời điểm các bị đơn
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận trong Hợp đồng là ngày
1/6/2017.Tức là thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản được tính từ ngày
1/6/2017, nguyên đơn chưa thể khởi kiện các bị đơn trong thời gian từ ngày
12/6/2015 đến ngày 31/5/2017 vì chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ của các bị đơn.
Hướng giải quyết của Tòa là thuyết phục, căn cứ theo khoản 1 Điều 156 BLDS
2015, thời điểm từ 12/6/2015 đến 31/5/2017 là thời gian gặp trở ngại khách quan
nên không tính vào thời hiệu khởi kiện. Do đó, việc khởi kiện vào năm 2019 để yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do ông Định để lại là thuyết phục.

2.42 Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào có quy định riêng về thời hiệu yêu
cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản như
pháp luật Việt Nam hiện nay không?
Hiện tại không có hệ thống pháp luật nước ngoài có quy định riêng về thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản như pháp
luật Việt Nam hiện nay.

2.43 Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết
phục của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản của người để lại di sản (có nên giữ lại hay không?)
Theo em, nên giữ lại quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản. So với các quy định về thời hiệu trong
bộ luật cũ, BLDS 2015 đã được sửa đổi, bổ sung có tính khái quát hơn, mở rộng và
bảo vệ quyền và lợi ích của các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan.
VẤN ĐỀ 3
Tóm tắt quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011
- Nguyên đơn: Anh Lê Quốc Toản

- Bị đơn: Chị Lê Thị Thu, Anh Lê Quốc Tuấn

- Loại tranh chấp: Tranh chấp thừa kế theo di chúc

- Lý do tranh chấp: Ông Lê Gia Minh (chết năm 1997) có hai người vợ: vợ cả là bà
Lê Thị Bằng (chết năm 1956), với 2 người con chung là Lê Văn Vinh và chị Lê Thị
Xuyên; vợ hai là bà Nguyễn Thị Lan (là mẹ nguyên đơn, chết năm 2005), với 5
người con chung là chị Lê Thị Thu, anh Lê Quốc Tuấn, chị Lê Hồng Thúy, chị Lê
Thiên Hương và anh Lê Quốc Toản. Ngày 31/08/2005, bà Lan chết. Chị Thu và anh
Tuấn cho rằng trước khi chết mẹ anh đã làm văn bản hủy di chúc do mẹ anh lập
năm 1998. Xét thấy văn bản hủy di chúc này không được công chứng, chứng thực
và không phải mẹ anh viết cũng như những người làm chứng ko đúng với quy định
của pháp luật. Anh Toản Yêu cầu anh chị em trong gia đình trả lại cho anh căn nhà,
yêu cầu anh Tuấn, chị Thu trả lại cho anh tiền thuê căn nhà từ khi mẹ anh chết cho
đến nay.

- Nhận định của Tòa án: Quyết định Tòa sơ thẩm: bác yêu cầu chia thừa kế theo di
chúc của bà Lan do anh Toản kiện phía bị đơn. Quyết định Tòa phúc thẩm: sửa bản
án sơ thẩm về câu chữ trong phần quyết định,bác yêu cầu xin chia thừa kế theo di
chúc đối với phía bị đơn. Quyết định của Tòa tối cao: hủy bản án sơ thẩm và hủy
bản án sơ thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố
Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt quyết định số 767/2011/DA-GĐT ngày 17/10/2011


- Nguyên đơn: anh Dương Văn Đang sinh năm 1963

- Bị đơn: ông Dương Văn Sáu sinh năm 1947

- Ủy quyền cho bà Đỗ Thị Hơn, sinh năm 1951

- Loại tranh chấp: tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất.

- Lý do tranh chấp: Năm 1994, cụ Dương Văn Trượng (là ông nội của nguyên đơn)
cho anh đất thuộc thửa 543. Ngày 01/03/1997, cụ Trượng lập di chúc cho anh Đang
3000m2 đất. Ngày 07/02/1999 cụ Trượng lại lập di chúc cho anh Đang được quyền
sử dụng 2000m2 đất, cho ông Sáu được quyền sử dụng 2.542m 2 đất. Anh Đang
không thừa nhận di chúc của cụ Trượng được lập vào năm 1999 nên khởi kiện yêu
cầu ông Sáu (bị đơn) hoàn trả lại cho anh phần đất 1.500m 2 đang được ông Sáu
quản lý.

- Nhận định của Tòa án: Quyết định của Toà sơ thẩm: chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, buộc ông Sáu trả cho anh Đang phần diện tích 1.336,8m2 đất.
Quyết định của Toà phúc thẩm: không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Sáu, giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Quyết định của Toà tối cao: huỷ bản án sơ thẩm và bản án
phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang
xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn: ông Bùi Văn Nhiên, sinh năm 1948

- Bị đơn: ông Bùi Văn Mạnh, sinh năm 1955

- Loại tranh chấp: tranh chấp về thừa kế tài sản

- Lý do tranh chấp: Vợ chồng cụ Bùi Hữu Môn và cụ Hoàng Thị Giảng sinh được 5
người con là Bùi Thị My, Bùi Văn Đức, Bùi Văn Nhiên, Bùi Thị Lương và Bùi Văn
Mạnh. Ngày 15/05/1998, cụ Môn lập di chúc có chứng thực của UBND xã Đức
Thắng nhưng di chúc này không có chữ ký của cụ. Ngày 08/05/1999 (âm lịch) cụ
Giảng chết không để lại di chúc. Ngày 11/04/2000 cụ Môn thống nhất nội dung di
chúc ngày 15/05/1998. Nguyên đơn là ông Nhiên trình bày rằng sau khi cụ Môn
chết, do nội dung di chúc không rõ ràng nên ông Mạnh đã lấn chiếm đất của cụ
Môn. Nay ông Nhiên yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bố mẹ
để lại cho 5 anh chị em.

- Nhận định của Tòa án: Quyết định của Toà sơ thẩm: xác định di chúc do cụ Bùi
Hữu Môn lập ngày 15-5-1998 có hiệu lực một phần về nửa đất thuộc quyền định
đoạt của cụ Môn. Bản di chúc không có hiệu lực pháp luật phần đất thuộc quyền
định đoạt của cụ Giảng về phần đất của cụ Môn cho ông Bùi Văn Đức Quyết định
của Toà phúc thẩm: chấp nhận kháng cáo của ông Nhiên, bà My và anh Cường,
chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, sửa bản án sơ thẩm.Quyết định
của Toà tối cao: huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm lại theo quy định của
pháp luật.
Tóm tắt quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa án nhân
dân tối cao
- Nguyên đơn + bà Nguyễn Thị Chim, sinh năm 1947

+ bà Nguyễn Thị Bay, sinh năm 1940

- Bị đơn: + bà Nguyễn Thị Lên, sinh năm 1943

+ bà Nguyễn Thị Sáu, sinh năm 1953

- Loại tranh chấp: tranh chấp thừa kế

- Lý do tranh chấp: Cụ Nguyễn Văn Nhà và cụ Phạm Thị Viết có 5 người con là bà
Nguyễn Thị Bay, bà Nguyễn Thị Lên, bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn Thị Sáu và
ông Nguyễn Văn Cu.Sau khi cụ Nguyễn Văn Nhà chết, bà Sáu và bà Lên có dỡ căn
nhà cũ của cụ Nhà và dựng nhà mới, còn về diện tích đất tại xã Long Thượng hiện
do con trai bà Sáu quản lý. Bà Chim và bà Bay yêu cầu được chia thừa kế với hai
diện tích này và không công nhận tờ di chúc do cụ Nhà lập ngày 26/07/2000.

- Nhận định của Tòa án: Quyết định của Toà sơ thẩm: chấp nhận một phần yêu cầu
chia thừa kế của bà Chimvà bà Bay. Quyết định của Toà phúc thẩm: bác yêu cầu của
bà Chim và bà Bay về việc yêu cầu bà Sáu và bà Lên chia thừa kế quyền sử dụng
đất.Quyết định của Toà tối cao: huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Giao hồ
sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại
theo quy định của pháp luật.

3.1 Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc
(về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
Về thời điểm thay đổi, hủy bỏ di chúc:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 643 BLDS 2015 quy định về Hiệu lực của di chúc:
“Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.”

Căn cứ Điều 611 BLDS 2015 quy định về thời điểm, địa điểm mở thừa kế:

Thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án
tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại
khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác
định nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi
có phần lớn di sản.
Trước thời điểm người lập di chúc chết thì di chúc chưa có hiệu lực pháp luật
nên người lập di chúc có thể thay đổi, hủy bỏ bất cứ lúc nào theo khoản 1 Điều 640
BLDS 2015: “ Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
đã lập vào bất cứ lúc nào.”

Vì vậy, người lập di chúc có thể thay đổi, hủy bỏ di chúc bất kỳ lúc nào khi còn
sống.

Về cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ di chúc:

Việc sửa đổi di chúc biểu hiện thông qua việc sửa đổi về kỹ thuật (như về câu
chữ, ngữ pháp, và các sửa đổi khác mang tính hình thức) và sửa đổi nội dung (như
sửa về người thừa kế, về di sản, về quyền và nghĩa vụ của người hưởng di sản…).
Về mặt pháp lý, chỉ coi là sửa đổi di chúc nếu người lập di chúc đã điều chỉnh nội
dung của di chúc.

Hậu quả pháp lý: Phần nội dung trong di chúc trước bị sửa đổi sẽ không còn giá
trị pháp lý do đã bị di chúc lập sau phủ nhận và thay thế; phần nội dung di chúc
trước không bị sửa đổi (không mâu thuẫn với nội dung của di chúc sau) thì vẫn có
giá trị pháp lý.

Hủy bỏ di chúc là việc người để lại di sản, thông qua một hành vi pháp lý hợp
pháp để tuyên bố tiêu hủy hoặc không công nhận tất cả các di chúc do mình đã lập
ra trước đó.

Có hai cách thức tuyên bố hủy bỏ di chúc:

- Hủy bỏ minh thị di chúc: là việc người lập di chúc thể hiện ý chí công khai bằng
một văn bản, nói rõ về việc người lập di chúc không thừa nhận giá trị di chúc do
mình đã lập ra trước đó. Người lập di chúc cũng có thể hủy bỏ di chúc bằng một
hành vi cụ thể để tiêu hủy toàn bộ di chúc đã được lập, như: xé bỏ, đốt bỏ hay tiêu
hủy bằng các hình thức khác làm cho di chúc không còn tồn tại trên thực tế.
- Hủy bỏ mặc nhiên di chúc: là trường hợp người để lại tài sản đã định đoạt tài sản
đó bằng một di chúc, nhưng sau đó lại định đoạt đối với tài sản đó bằng một hành vi
pháp lý khác, ví dụ như: tặng cho, mua bán, cầm cố, thế chấp hay dùng tài sản đó
bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà sau đó tài sản này đã bị xử lý để trả nợ, thì hành vi
này cũng được xem là hủy bỏ mặc nhiên đối với di chúc đã lập.

3.2 Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định
(tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc)
không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc). Vì trong thực
tiễn xét xử, trường hợp người để lại tài sản đã định đoạt tài sản bằng một di chúc,
nhưng sau đó lại định đoạt đối với tài sản đó bằng một hành vi pháp lý khác, ví dụ
như: tặng cho, mua bán, cầm cố, thế chấp, hay dùng tài sản đó bảo lãnh cho một
nghĩa vụ mà sau đó tài sản này đã bị xử lý để trả nợ, thì hệ quả đối với di chúc cũ
cũng tương tự như trường hợp thay đổi hay hủy bỏ di chúc trước bằng di chúc mới
vì bản chất đều là định đoạt tài sản đã nêu trong di chúc trước.

Điều này được thể hiện trong Quyết định số 619, bà Lan có dơn xin hủy bản di
chúc và chỉ cần chứng minh nội dung đơn này đúng ý chí của bà Lan cùng với việc
làm sáng tỏ các tình tiết khác thì sẽ có căn cứ xác định bà Lan đã hủy bỏ di chúc
thừa kế nhà ở

3.3 Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không cần phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ. Bởi vì trong BLDS hiện hành không
có quy định về việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc phải tuân thủ hình thức của di chúc.
Điều này minh chứng cho việc các nhà lập pháp đã ngầm đồng ý việc thay đổi hay
hủy bỏ di chúc không cần phải tuân theo hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy
bỏ. Trên thực tế, người lập di chúc có thể lập ở Phòng Công chứng nhưng có thể
mang bản di chúc đến Uỷ ban nhân dân để thay đổi hay hủy bỏ di chúc, điều đó vẫn
được Tòa án chấp nhận.

3.4 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03
quyết định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết định trên (3 quyết
định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc là hoàn toàn hợp lý.

- Quyết định 619/2011/DS-GĐT: Chia thừa kế theo di chúc. Trong quyết định này,
bà Lan lập di chúc ngày 08/10/1998, anh Toản được 10 cây vàng và được căn nhà
120 đường Cầu Giấy và được Ủy ban nhân dân phường Quan Hoa xác nhận ngày
02/01/1999. Sau đó, ngày 18/04/2005, bà Lan làm “ Đơn xin hủy di chúc” với nội
dung hủy di chúc đã viết trước kia cho anh Toản. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm chưa làm rõ việc bà Lan có biết chữ hay không và nội dung đơn hủy di chúc
có đúng ý chí của bà Lan hay không, nếu biết chữ tại sao cháu Nguyệt Anh (con của
chị Thu) viết hộ Đơn xin hủy di chúc. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
cho rằng di chúc bà Lan đã bị hủy bỏ để bác yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của
anh Toản là chưa đủ căn cứ vững chắc.

Theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 quy địn về Di chúc hợp pháp:

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:


Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép;
Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm cùa luật, không trái đạo đức xã hội;
hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Bởi các lẽ trên, quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ
thẩm về Tranh chấp chia thừa kế theo di chúc. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp
luật là hoàn toàn hợp lý.

- Quyết định 767/2011/DS-GĐT về “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”.


Trong quyết định này Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án dân sự phúc
thẩm và bản án dân sự sơ thẩm về vụ án “Tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất”
giữa nguyên đơn là anh Dương Văn Đang và ông Dương Văn Sáu là hoàn toàn hợp
lý. Vì tại Bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm lẽ ra cần giám định di
chúc ngày 07/02/1999 có đúng thể hiện ý chí của cụ Trượng, cụ Tào không? Nếu có
căn cứ xác định đó là ý chí của hai cụ, thì cần xác định cụ Trượng, cụ Tào đã thay
đổi di chúc lập 01/03/1979 (thực tế 01/03/1997) bằng di chúc 07/03/1999.

Theo khoản 1 Điều 640 BLDS 2015 quy định về Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy
bỏ di chúc: “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã
lập vào bất cứ lúc nào”. Hậu quả pháp lý là phần nội dung trong di chúc trước khi bị
sửa đổi sẽ không còn giá trị pháp lý do đã bị di chúc lập sau phủ nhận và thay thế.

- Quyết định số 194/2012/ DS-GĐT: “Tranh chấp thừa kế tài sản”. Căn cứ theo
khoản 1 Điều 640 BLDS 2015 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc: “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập
vào bất cứ lúc nào”. Hậu quả pháp lý là phần nội dung trong di chúc trước khi bị
sửa đổi sẽ không còn giá trị pháp lý do đã bị di chúc lập sau phủ nhận và thay thế.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào “ Biên bản cuộc họp
gia đình của cụ Bùi Hữu Môn” ngày 11/4/2000 mà xác định di chúc năm 1998 có
hiệu lực đối với phần tài sản của cụ Môn, đồng thời chia thừa kế theo pháp luật đối
với phần di sản của cụ Giảng là gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của các đương
sự. Do đó, Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản
án dân sự sơ thẩm về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật là
hoàn toàn hợp lý.

3.5 Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
Trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có điều kiện ở đoạn: “Bà
Nguyễn Thị Lên và bà Nguyễn Thị Sáu xuất trình Tờ di chúc lập ngày 26/07/2000
của cụ Nguyễn Văn Nhà. Theo văn bản này cụ Nguyễn Văn Nhà cho bà Nguyễn Thị
Sáu và bà Nguyễn Thị Lên trọn quyền sử dụng phần đất này, đồng thời có trách
nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không được quyền cầm cố hoặc chuyển
nhượng và phải nuôi dưỡng ông Nguyễn Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc
tuổi già. Như vậy, di chúc này thuộc loại di chúc có điều kiện.”

Điều kiện của di chúc này là: có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng
không được quyền cầm cố hoặc chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Nguyễn
Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già.

3.6 Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam.
Thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở Việt Nam:
Hiện nay pháp luật thừa kế của Việt Nam chưa có quy định nào về di chúc có điều
kiện. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 120 BLDS 2015 quy định về Giao dịch dân sự có
điều kiện: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ
giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy
bỏ”. Ở đây, giao dịch dân sự là hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương mà di
chúc là một hành vi pháp lý đơn phương nên có thể cho rằng di chúc có điều kiện
chịu sự quy định của quy định này. Với quy định như vậy thì chúng ta có thể suy
luận rằng các nhà lập pháp đã “ngầm” chấp nhận di chúc có điều kiện nhưng chưa
có văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, rõ ràng vấn đề này.

3.7 Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.
Hiện nay, pháp luật về thừa kế không có bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào
quy định rõ ràng, chi tiết về di chúc có điều kiện nên trên thực tế khi xảy ra tranh
chấp thì chủ yếu dựa vào phán quyết của Tòa án. Trong thực tế, Tòa án chủ yếu theo
hướng nếu điều kiện không được đáp ứng thì người thụ hưởng theo di chúc không
được hưởng di sản theo di chúc. Trong quyết định số 481/2011/ DS-GĐT ngày
27/06/2011 của Tòa án nhân sân tối cao, Tòa án xét rằng: “cả hai điều kiện trong di
chúc của ông Hiệp đều không thực hiện được nên ông Hiệp sẽ không được nhận di
sản theo di chúc…” và Viện kiểm sát cũng theo hướng “ ông Hiệp đã không thực
hiện nghĩa vụ chăm sóc phụng dưỡng cụ Gái cũng như sau khi cụ Gái chết thì ông
Hiệp cũng không lo mai táng, thờ cúng cụ Gái nên ông Hiệp không được hưởng di
sản”. Tuy nhiên với phần di sản mà người được hưởng di sản không được hưởng
được nêu trong di chúc cần có phương hướng xử lý. Có quan điểm cho rằng phần di
sản mà người thụ hưởng đáng ra được hưởng theo di chúc sẽ được chia theo pháp
luật, tuy nhiên nếu chia như vậy thì ý chí của người lập di chúc không được tôn
trọng. Vì pháp luật không quy định về di chúc có điều kiện nên khi người được
hưởng di chúc vi phạm điều kiện di chúc thì nên xử lý theo hướng nếu điều kiện để
hưởng di chúc nhằm bảo vệ một chủ thể nào đó thì khi điều kiện đó bị vi phạm thì
tài sản tất nhiên không thuộc về người hưởng thừa kế mà phần di sản đó sẽ được
chuyển giao quyền sở hữu lại cho người được bảo vệ. Ngược lại, nếu điều kiện để
hưởng di chúc không nhằm bảo vệ một chủ thể nào thì phần di sản đó sẽ được chia
theo pháp luật.

3.8 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên
luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung
nào?)
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật chi tiết, rõ
ràng quy định về di chúc có điều kiện nhưng trên thực tế di chúc có điều kiện rất
phổ biến. Trong Quyết định số 363/2013/ DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa án
nhân dân tối cao vụ án “Tranh chấp thừa kế”. Trong tờ di chúc của cụ Nguyễn Văn
Nhà có điều kiện: “cho bà Nguyễn Thị Sáu và bà Nguyễn Thị Lên trọn quyền sử
dụng phần đất này, đồng thời có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không
được quyền cầm cố hoặc chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Nguyễn Văn Cu
khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già”. Di chúc của cụ Nhà được xem là di chúc
có điều kiện. Trên thực tế, nhu cầu về di chúc có điều kiện khá lớn. Việc luật hóa di
chúc có điều kiện đang dần trở thành nhu cầu của xã hội. Luật hóa di chúc có thể
thỏa mãn mong mỏi của nhiều người, đối với người lập di chúc có điều kiện giúp
người lập sau khi đưa ra các điều kiện sẽ được những người hưởng di sản theo di
chúc thực hiện theo, không được làm trái hoặc không theo ý chí của người lập di
chúc trừ trường hợp trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Nếu luật hóa có thể luật hóa
những nội dung sau:

- Điều kiện trong di chúc để được xem là hợp pháp (không trái pháp luật, không trái
với đạo đức, xã hội)

- Nếu người được hưởng di sản không thực hiện được điều kiện mà người để lại di
chúc đưa ra thì di sản đó được xử lý như thế nào

- Phân biệt điều kiện thành hai loại là điều kiện không nhằm bảo vệ một chủ thể và
điều kiện nhằm bảo vệ một chủ thể.

VẤN ĐỀ 4
Tóm tắt Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc
quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân
- Nguyên đơn: bà Phạm Thị H, Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2.

- Bị đơn: ông Phạm Thị H3

- Lí do tranh chấp: đòi lại quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đất

- Nội dụng Án lệ: cụ Phạm Văn H (chết năm1978) và cụ Ngô Thị V (chết năm
1994) có bảy con là ông Phạm Văn H3, ông Phạm Văn Đ (chết năm 1998), ông
Phạm Văn T, ông Phạm Văn Q (chết năm 2000) và các bà là Phạm Thị H, Phạm Thị
H1, Phạm Thị H2. Năm 1991 cụ V đứng ra chia mảnh đất cho bảy con. Ông T, Ông
Đ, ông Q đã nhận đất và sử dụng hay chuyển nhượng cho người khác thì đều có
giấy tờ đứng tên nên không có vấn đề gì. Các bà H, H1, H2 thời điểm đó vào miền
Nam sinh sống nên đã nhờ ông H3 trông nom phần đất có diện tích 110m2. Riêng
ông H3 đã có nhà, đất nên chưa dùng đến phần đất được chia. Năm 2002, khi các bà
về sang cát cho mẹ, ông H3 vẫn đồng ý khi nào các bà đủ điều kiện thì về nhận đất
xây nhà ở. Nhưng đến năm 2004, khi ba chị em có nhu cầu xây dựng nhà trên đất
này thì ông H3 lại không thừa nhận là đất của ba chị em và ông đã chia đất cho con
của ông là anh Phạm Văn L và chị Phạm Thị T, không trả đất cho các bà. Vì thế các
bà H, H1, H2 kiện ông H3 và yêu cầu Tòa án buộc ông trả lại phần đất được chia.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của bà
Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2.

Án lệ số 24/2018/AL.

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày 16-10-2015 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà
Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là ông Phạm Văn H3; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 12 người.

Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”.

Tình huống án lệ: Nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng mà một người chết trước.
Người còn lại và các thừa kế của người chết trước đã thống nhất phân chia nhà, đất.
Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào. Việc phân
chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy
tờ về đất đai. Sau khi người còn lại chết mới phát sinh tranh chấp.

Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định nhà, đất đó đã chuyển thành
quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân. Những người này chỉ có
quyền khởi kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng
bất hợp pháp mà không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

Tóm tắt Quyết định số 27/2015/DS-GĐT: Cụ Phạm Văn H (mất năm 1978) và cụ
Ngô Thị V (mất ngày 21/08/1994) cả hai có bảy người con là ông Phạm Văn H3,
ông Phạm Văn T, ông Phạm Văn Đ (mất năm 1998) ông Phạm Văn Q (mất năm
2000), bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1 và bà Phạm Thị H3. Hai cụ tạo lập được
phần tài sản chung là gian nhà tranh vách đất khoảng 464m2. Sau khi cụ H mất, cụ
V đã thừa kế phần tài sản chung ấy và phân chia đều cho cả bảy người con vào năm
1991, các phần đất phân chia đều đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều
chỉnh trên giấy tờ sổ sách, khi phân chia thì cũng không xảy ra tranh chấp, không ai
có ý kiến gì và thực hiện việc phân chia này. Trong đó, ông T, ông Đ, ông Q đều đã
nhận đất và sử dụng hoặc chuyển nhượng cho người khác thì đều có đăng ký đứng
tên sử dụng đất. Riêng phần đất còn lại là 110m 2 thì bà H, bà H1, bà H2 được chia
mỗi người 44,4m2, nhưng cả ba bà đều đã chuyển vào miền Nam và nhờ ông H3
trông nom hộ phần đất 110m2 ấy (bao gồm luôn cả phần ông H3). Tuy nhiên, vào
năm 2004 ông H3 lại đem phần đất đang trông nom chia cho các con của mình nên
bà H, bà H1 và bà H2 đã tranh chấp, khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông H3 phải trả
lại phần đất đã được chia của mình nhưng sau đó lại thay đổi lời khai yêu cầu chia
di sản thừa kế do cha mẹ tạo lập là phần đất 110m2 mà ông H3 đang quản lý.
4.1 Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân
chia di sản?
Ở phần nhận định của Tòa án đoạn [3] có ghi như sau : “Thực tế thời điểm cụ
V chia đất, các con đều đã trưởng thành, một số có gia đình riêng có nhu cầu về đất
ở, riêng ông H3 đã có nhà đất; bà H, bà H1 và bà H2 đang ở Bình Phước nên bốn
người này chưa có nhu cầu xây dựng nhà ở. Ông T thừa nhận việc cụ V chia đất, tất
cả các con đều đồng ý và ông T xác định phần đất 110m 2 do ông H3 quản lý là cụ V
chia cho ông H3 và bà H, bà H1 và bà H2. Ông T đề nghị Tòa án giải quyết để bà H,
bà H1, bà H2 được nhận lại tài sản của mình. Vợ của ông Đ, ông Q là bà T, bà H4
và các con của ông Đ, ông Q, tuy không biết cụ thể việc phân chia nhưng đều thống
nhất là cụ V đã chia đất xong cho các con rồi nên các bà không có yêu cầu gì và
phần 110m2 để cho ông H3, bà H, bà H2 hưởng phần đất này. Do đó, có đủ cơ sở
xác định cụ V có chia đất cho bà H, bà H1 và bà H2 và phần đất này ông H3 quản
lý”. Nội dung trên cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản rất rõ ràng.

4.2 Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?
Nội dung cho thấy Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản là ở đoạn [4]
phần nhận định của Tòa án: “Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của
cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung
xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m 2 trong đó phần bà H, bà H1
và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều
chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi
của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không
còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp
pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại
44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di
sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di
sản của cụ H, cụ V nữa”.
4.3 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhân thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình
thức và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.
Tòa án chấp nhận phân chia di sản là hoàn toàn hợp lí, vì:
Việc phân chia di sản trong Án lệ này là sự phân chia theo thừa kế và phải đúng
với ý chí của người để lại di sản. Bà H, bà H1 và bà H2 đã nhờ ông H3 trông nom
phần đất được chia nghĩa là ông H3 chỉ có nghĩa vụ trông nom tài sản chứ không có
quyền định đoạt tài sản nên hành động ông H3 chia đất cho con là hoàn toàn sai.
Tuy việc ông H3 chia đất cho con là sai nhưng chính ông đã là người có công
trông nom và phát triển mảnh đất trong thời gian bà H, H1, H2 sống ở miền Nam.
Phía nguyên đơn kiện ông H3 cũng có phần sai vì đó là phần đất mà cụ V chia từ
trước có cả phần của ông H3.

Vậy, Tòa án chấp nhận việc phân chia di sản như vậy, vừa là vì quyền lợi của
các bà H, H1, H2, vừa bảo vệ được bị đơn là ông H3.

4.4 Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.
Tranh chấp di sản: Tranh chấp về phân chia di sản thừa kế được hiểu là những
xung đột, mâu thuẫn giữa các chủ thể trong việc xác lập quyền sở hữu đối với phần
di sản mà người chết đã để lại cho từng người còn sống có quyền hưởng thừa kế
trong khối di sản chung sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài sản của người đã chết
để lại.

Tranh chấp về di sản thừa kế bao gồm các đặc điểm sau:

- Chủ thể tham gia tranh chấp về di sản thừa kế là người thừa kế hoặc các chủ thể
khác;

- Đối tượng của tranh chấp về di sản thừa kế là phần di sản mà người đã chết để lại;

- Tính chất của tranh chấp về di sản thừa kế là tính chất của sự xung đột, mâu thuẫn
về quyền và lợi ích giữa những người được thừa kế di sản từ người chết để lại;
- Nguyên nhân của tranh chấp về di sản thừa kế là việc phân chia di sản thừa kế
không thống nhất và quá đa dạng.

Tranh chấp tài sản: Tranh chấp tài sản là tranh chấp đang có hai hay nhiều người
cùng xác nhận quyền của mình đối với tài sản đó và phủ định quyền của người kia
đối với tài sản mà tài sản đó hiện không rõ thuộc về người nào. Các tranh chấp tài
sản thường rất đa dạng, bao gồm: tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng,
quyền khai thác, quyền thuê, thừa kế tài sản, thuê mua tài sản hoặc các tranh chấp
liên quan đến sở hữu riêng, sở hữu chung, sở hữu chung của vợ chồng…

Tranh chấp tài sản thừa kế là việc tranh chấp những tài sản do người chết để lại
cho các đồng thừa kế. Thực tiễn quá trình giải quyết các tài sản này bao gồm: tài
sản do bố, mẹ hay ông, bà, vợ, chồng,... khi mất để lại. Tài sản thừa kế khi tranh
chấp sẽ xác định trên cơ sở là thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật để
thực hiện việc phân chia tài sản. Dựa vào các hàng thừa kế, diện thừa kế, người
quản lý di sản thừa kế để xác định phân chia di sản thừa kế. Ngoài ra tài sản thừa kế
cũng được chia cho một số người không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Tóm lại, sự khác nhau giữa di sản và tài sản nằm ở việc xác định thời điểm mở
thừa kế vì khi 1 người để lại tài sản trước khi chết thì gọi là tài sản, khi chết thì
được gọi là di sản. Di sản để lại phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, nếu
không thì được coi là không để lại di sản. Ngoài ra, di sản để lại phải là tài sản được
phép lưu thông dân sự, tức là phải hoàn toàn hợp pháp.

4.5 Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản được chia theo thỏa thuận
trên là tranh chấp về di sản hay về tài sản?

Tranh chấp được chia theo thỏa thuận trên là tranh chấp về tài sản vì:

Trong án lệ số 24/2018/AL, di sản thừa kế đã được chuyển thành tài sản thuộc
quyền sỡ hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân. Trường hợp này thuộc diện
tranh chấp tài sản, bởi vì nó liên quan đến quyền sỡ hữu và quyền sử dụng của các
cá nhân.

4.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Án lệ số 24/2018/AL

Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL là
hoàn toàn hợp lí.

Vì: Thời điểm cụ V chia đất, các con đều đã trưởng thành, Ông T thừa nhận việc
cụ V chia đất, tất cả các con đều đồng ý. Di sản thừa kế sau khi chia đã thành tài sản
thuộc quyền sở hữu và sử dụng của các cá nhân. Việc ông H3 lấy phần đất trông
nom giúp cho các bà H, H1, H2 chia cho hai người con là hoàn toàn sai, là xâm
phạm đến quyền sỡ hữu, quyền sử dụng tài sản của cá nhân. Tòa án đã chấp nhận
đơn kiện và chia lại tài sản cho phía nguyên đơn là bảo vệ quyền lợi của cá nhân đối
với tài sản, vậy nên hướng giải quyết của Tòa án hoàn toàn thuyết phục.

VẤN ĐỀ 5

Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao

- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Thưởng, bà nguyễn Thị Xuân.


- Bị đơn: ông Nguyễn Trí Trài (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thúy Phượng,
bà Nguyễn Thị Bích Đào
- Loại tranh chấp: Tranh chấp di sản thừa kế
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt
(Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức,
Nguyễn Thị Thúy Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần
Thành Khang.
- Nội dung của án lệ: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện
được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn
tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời
hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng
góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia
thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu
không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Án lệ số 05/2016/AL.

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”
tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn
Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị
Thúy Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý,
Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Thị Thúy Loan, Phạm Thị Liên,
Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành Khang.

Khái quát nội dung của án lệ: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự
thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc
quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng
đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét
công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết
định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của
họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về
công sức.

Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT: Cụ Hưng chết vào năm
1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 thì ông Trải được
hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng phần tài sản của cụ Hưng là tài sản của vợ
chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết vào năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông
Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Tuy chị Phượng
không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng và cụ Ngự, nhưng với tư cách là
cháu nội của hai cụ, chị đã có nhiều công sức quản lý và trùng tu ngôi nhà, đã chi
tiền sửa chữa nhà. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không
yêu cầu xem xét công sức, chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế,
không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu chị Phượng đề nghị xác
định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu
cầu của đương sự.
5.1 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 tỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lí di sản là có thuyết
phục vì: Chị Phượng cũng là một thành viên trong việc đóng góp công sức quản lí
di sản, chi tiêu các sổ sách. Đây cũng là lợi ích, quyền hạn của chị Phượng dù người
có quyền, lợi ích liên quan không yêu cầu xem xét công sức quản lí di sản nhưng
Tòa án vẫn phải xem xét công sức cho người có quyền và lợi ích liên quan để đảm
bảo tính triệt để của các vấn đề của đương sự.
5.2 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết
phục không? Vì sao?
Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trài được hưởng
của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trài, bà Tư không thuyết phục vì
theo pháp luật, bà Tư không nằm trong hàng thừa kế mà chỉ có ông Trài thuộc hàng
thừa kế thứ nhất (con ruột). Theo Điều 651 BLDS 2015 những người thừa kế theo
pháp luật đã quy định tại điều này.
5.3 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng
công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lí di sản là có thuyết
phục vì: Chị Phượng cũng là một thành viên trong việc đóng góp công sức quản lí
di sản, chi tiêu các sổ sách. Đây cũng là lợi ích, quyền hạn của chị Phượng dù người
có quyền , lợi ích liên quan không yêu cầu xem xét công sức quản lí di sản nhưng
Tòa án vẫn phải xem xét công sức cho người có quyền và lợi ích liên quan để đảm
bảo tính triệt để của các vấn đề của đương sự.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- BLDS NĂM 2995;

- BLDS năm 2015;

- Nguyễn Hồ Bích Hằng, Giáo trình Những vấn đề chung về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí
Minh, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương V; Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 13 và tiếp theo; Nguyễn Xuân Quang,
Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.77 và tiếp
theo;

- Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức
2018; Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức 2022 (xuất bản
lần thứ năm); Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại
học quốc gia 2007, tr.235 và tiếp theo;

- Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao; Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh

- Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; Quyết
định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; Bản án số
2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh; Quyết định số 26/2013/DS-
GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 533/2021/QĐ-
PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

- Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011, Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày


17/10/2011; Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao; Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao;

- Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp
pháp của cá nhân;

- Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao;

You might also like