You are on page 1of 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM


KHOA: CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT
LỚP: CLC45C
dcdcdc

BÀI THẢO LUẬN THỨ SÁU

QUY ĐỊNH CHUNG VỀ DI CHÚC

Giảng viên: Th.S Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Bộ môn: Những quy định chung về Luật Dân sự, Tài sản và Thừa kế

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 5 năm 2021


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

- BLDS: Bộ luật dân sự


- UBND: Ủy ban nhân dân
DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN
THỰC HIỆN BÀI THẢO LUẬN

Nhóm 4:

STT Thành viên nhóm MSSV


1 Đặng Quang Huy 2053801013057
2 Trần Thị Thùy Linh 2053801012143
3 Lê Võ Khánh Mai 2053801014140
4 Trần Lê Bích 2053801011028
5 Trần Phúc Ngọc Châu Long 2053801015054
6 Nguyễn Thị Diệu Anh 2053801011016
7 Trần Thị Thúy An 2053801012005
8 Nguyễn Kiều Phương Uyên 2053801011317
9 Đặng Thị Ngọc Ánh 2053801015011
10 Đặng Duy Ngọc 2053801013099
MỤC LỤC
Vấn đề 1. Hình thức của di chúc:...................................................................1
Câu 1.1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................................................2
Câu 1.2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì
những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp
pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................3
Câu 1.3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì
sao?....................................................................................................................4
Câu 1.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay....5
Câu 1.5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?....................................5
Câu 1.6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả
lời?...................................................................................................................... 6
Câu 1.7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?.............................................6
Câu 1.8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?................................................................................................................... 7
Câu 1.9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc
của ông Hựu?.....................................................................................................7
Câu 1.10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?...................................................................................................7
Câu 1.11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ...............................................................8
Vấn đề II. Tài sản được định đoạt theo di chúc......................................10
Câu 2.1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?.................................................................................................11
Câu 2.3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết
định số 359 cho câu trả lời?.............................................................................12
Câu 2.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm..................................................................................................................12
Câu 2.5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..............................................................12
Câu 2.6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý
không? Vì sao?.................................................................................................13
Câu 2.7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và
cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?..........................................................14
Câu 2.8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định
di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?.......................................................14
Câu 2.9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi?............................................................................................15
Câu 2.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.....15
Vấn đề III. Di chúc chung của vợ chồng..................................................17
Câu 3.1: Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.............................17
Câu 3.2: Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?........................................................................................17
Câu 3.3: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS năm 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời...............17
Câu 3.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS năm 2015...........................18
Vấn đề IV. Di sản dùng vào việc thờ cúng...............................................20
Câu 4.1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................................20
Câu 4.2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc
dùng vào việc thờ cúng?...................................................................................21
Câu 4.3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?.....................................21
Câu 4.4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng
trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.....................21
Câu 4.5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...........................22
Câu 4.6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu...............22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Vấn đề 1. Hình thức của di chúc:

* Tóm tắt bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên:
Ông Này và bà Trọng là vợ chồng hợp pháp. Trước khi qua đời, ông Này để
lại tài sản cho con riêng là Hiếu toàn bộ nhà và đất là toàn bộ tài sản chung của hai
vợ chồng. Giây thừa kế do ông Này viết không được công chứng, chứng thực nhưng
được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc
cưỡng ép mà có cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ, ký tên kiểm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp. Ông Hiếu xin 1/2 lô đất để sử dụng nhưng bị bà
Trọng bác bỏ và đã xảy ra tranh chấp. Bản án dân sự sơ thẩm, Tòa án chấp nhận yêu
cầu ông Hiếu về việc tranh chấp di sản thừa kế và bà Trọng được nhận toàn bộ tài
sản, nhà và đất, có trách nhiệm thối lại chênh lệch cho ông Hiếu số tiền được chia
và được nhận từ tài sản theo di chúc. Bản án phúc thẩm, bác kháng cáo của ông
Hiếu, còn bà Trọng rút toàn bộ đơn kháng cáo, giữ nguyên quyết định của tòa sơ
thẩm.
*Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản”:
Nguyên đơn là ông Quang khởi kiện yêu cầu hủy di chúc của cụ Hựu vì di
chúc không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ Hựu, nhà đất
tranh chấp là tài sản của tổ tiên để lại cho cụ Hằng và cụ Hựu. Năm 2005, bà Ngâm
(bị đơn) đại diện cho cụ Hựu đứng tên kê khai, đăng kí đối với đất tranh chấp, ông
Vũ đại diện dòng họ Đỗ cho rằng đất là tài sản của dòng họ nhưng không có chứng
cứ. Trên thực tế, dòng họ Đỗ không kê khai đăng kí quyền sử dụng đất đối với đất
tranh chấp. Di chúc ngày 25/11/1998 là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu
điểm chỉ, cụ Quý kí tên làm chứng được ông Thưởng, UBND xã Mai Lâm xác
nhận. Ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc và UBND xã Mai Lâm chỉ
xác nhận chữ kí, không xác nhận nội dung. Qua giám định dấu vân tay trên di chúc,
Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ
2

các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó chưa có đủ căn cứ để xác
định di chúc thể hiện ý chí của cụ Hựu. Giám đốc thẩm xét thấy Tòa sơ thẩm và
phúc thẩm công nhận di chúc của cụ Hựu hợp pháp là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, Tòa
quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án xét xử sơ thẩm lại.

Câu 1.1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- BLDS năm 2015: Điều 625. Người lập di chúc

“1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630
của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”

- BLDS năm 2015: Điều 633. Di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng
“Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định
tại Điều 631 của Bộ luật này.”
- BLDS năm 2015: Điều 631. Nội dung của di chúc
“3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người
làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
- Từ đó ta thấy, việc lập di chúc phải khẳng định ý chỉ của người để lại di sản.
- Trường hợp di chúc viết tay mà không do người lập di chúc tự tay viết ra thì
sẽ không được xem là hợp pháp, trừ các trường hợp nhờ người khác viết hộ thì phải
tuân theo quy định tại Điều 634, BLDS năm 2015.
3

- Về việc lập di chúc bằng văn bản, giáo sư Đỗ Văn Đại đã bình luận:
“ Do bộ luật không cho biết không cho biết bằng văn bản được hiểu như thế
nào, nên bất kì vật liệu nào thể hiện được chữ viết cũng cần được chấp nhận. Chẳng
hạn như viết di chúc trong một bưu thiếp, hay trong một bức thư đều cần được chấp
nhận. BLDS năm 2015 cũng không nêu phải viết bằng tay, bằng chất liệu gì, nên có
thể chấp nhận di chúc viết bằng bút mực, bút bi hay chất liệu khác, thậm chí bút chì
hay bằng máu nếu có cơ sở để xác định chữ viết đó của người để lại di sản.” 1
Câu 1.2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong bản án có nêu:
“Trước khi qua đời vào ngày 19/12/2006, ông Nguyễn Này lập giấy giao quyền
thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho
Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai ông Này
điểm chỉ và ký tên làm chứng”.
- BLDS năm 2015: Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc
“ Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
- BLDS năm 2015: Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
1
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam năm 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 52-55
4

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại.”
- Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì cha, em gái,
em trai ông Này không là người làm chứng hợp pháp. Bởi vì:
+ Căn cứ theo Điều 632, BLDS năm 2015, cha của ông Này thuộc trường hợp
tại khoản 1, là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên không
là người làm chứng hợp pháp.
+ Anh trai và em gái của ông Này cũng là người có nghĩa vụ liên quan đến tài
sản của di chúc. Căn cứ theo Điều 651 thì anh trai và em gái ông Này thuộc hàng
thừa kế thứ hai, nên cũng không là người làm chứng hợp pháp.
Câu 1.3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì
sao?
- Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay. Bởi vì:
+ Ở phần nhận thấy:

“[...] Lúc ông Này còn sống có về nói với gia đình và lập 02 bản di chúc: Một giấy
ủy quyền sử dụng đất và một giấy thừa kế sử dụng đất đưa ra cho gia đình xem và
nói và nói bây giờ các cháu lớn đều có nhà cửa riêng chỉ còn lại cháu út là Nguyễn
Thành Hiếu đang ở với ông Này. Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy
này để nhà đất và đất lại cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ông Này có mất thì
cháu Hiếu có chỗ thờ và chỗ ở và thờ cúng cho ông Này.”

+ Ở phần xét thấy:

“[...] Xét thấy giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa
phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn,
sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp.”
5

+ Bên cạnh đó, di chúc đã tuân thủ những quy định về hình thức được quy
định tại Điều 633 BLDS năm 2015 (Tương ứng với Điều 655 BLDS năm 2005) về
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:

“ Người lập di chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc” và thêm vào đó Di chúc
được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc
cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp.

Câu 1.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.

- Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông
Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay là hoàn toàn hợp lí. Bởi vì:

- Căn cứ theo Điều 630, BLDS năm 2015 quy định về di chúc hợp pháp
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.”
+ “Xét thấy giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa
phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông này còn minh mẫn,
sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp”. Có thể thấy rằng, lúc ông Này lập di chúc, ông hoàn
toàn tự nguyện và có đủ năng lực hành vi dân sự, minh mẫn và sáng suốt.
+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội, hình thức của di chúc phù hợp với quy định của xã hội – do đích thân ông
Này tự viết, tự ký.
+ Bên cạnh đó, di chúc còn được cha, em trai, em gái của ông Này điểm chỉ và
làm chứng. Điều này làm tăng tính thuyết phục của tờ di chúc.
6

Câu 1.5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Ngày 25/11/1998, di chúc là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy (là mẹ của ông Vũ) ký tên, làm chứng, sau đó ngày
04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn)
và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

Câu 1.6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả
lời?
- Cụ Hựu không biết chữ. Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 có câu:
“Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.

Câu 1.7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
- Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện sau
+ BLDS năm 2015: khoản 3 Điều 630. Di chúc hợp pháp
“3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”
+ BLDS năm 2015: Điều 636.Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công
chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã.
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã
phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép
lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể
hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
7

2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di
chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người
này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người
lập di chúc và người làm chứng.”

Câu 1.8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
- Căn cứ theo các điều kiện nêu trên, ông Hựu đã đáp ứng được điều kiện
“được người làm chứng lập thành văn bản” qua việc “...di chúc do cụ Hựu đọc
cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký
tên làm chứng.”. (Thỏa mãn Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 và Điều 632
BLDS năm 2015).
Câu 1.9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
- Căn cứ theo các điều kiện nêu trên, ông Hựu đã đáp ứng được điều kiện “có
công chứng hoặc chứng thực.” qua việc ” sau đó ngày 04-01-1999 bà Lựu mang di
chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác
nhận.”. Điều này thể hiện việc bà Lựu đã được cụ Hựu ủy quyền việc công chứng,
chứng thực di chúc, việc ủy quyền không đảm bảo giá trị pháp lý nên đã không đáp
ứng được điều kiện này.
- Mặc khác qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện
khoa học Hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thế hiện rõ các
đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.Do vậy không đủ yếu tố để xác định
di chúc này thể hiện ý chí của cụ Hựu.
8

Câu 1.10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
- Di chúc trên không thỏa mãn điều kiện về hình thức. Mặc dù di chúc đã được
lập thành văn bản và có người làm chứng nhưng về yêu cầu có công chứng, chứng
thực do cụ Hựu là người không biết chữ thì chưa thỏa mãn yêu cầu của Luật. Vì
theo quy định tại Điều 636 BLDS năm 2015 “1. Người lập di chúc tuyên bố nội
dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của
Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã
tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản
di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản
di chúc.”; Nhưng ở đây cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ viết và bà Lựu mang di chúc
đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã mai Lâm
xác nhận. Điều đó không phù hợp với luật. Mặt khác theo Quyết định thì cụ Hựu
không rơi vào Khoản 2 Điều 636 BLDS năm 2015. Ta cũng cần phân biệt trường
hợp di chúc viết hộ với di chúc được lập bởi người không thể tự lập di chúc do
khiếm khuyết hoặc mù chữ. “Trường hợp này cần đặc biệt lưu ý, vì sẽ có người
nhầm tưởng quy định này cũng áp dụng đối với mọi cá nhân không thể tự mình viết
di chúc… Trường hợp khi người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc (do bị
khiếm khuyết thể chất hoặc người mù chữ) thì pháp luật quy định người này phải
lập di chúc bằng văn bản theo thủ tục công chứng, chứng thực, đồng thời việc lập,
công chứng, chứng thực di chúc phải có người làm chứng thì di chúc mới có hiệu
lực”.
Câu 1.11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.
- Về việc lập di chúc cho người không biết chữ, BLDS năm 2015 đã quy định
rất hợp lí. Hạn chế khả năng lợi dụng người có tài sản nhưng yếu về mặt thể chất để
họ lập di chúc không đúng với ý chí của mình. Tuy nhiên, việc xây dựng quy định
9

này vẫn còn gặp nhiều bất cập. Các hình thức di chúc khác như di chúc không có
người làm chứng, di chúc có người làm chứng, di chúc có công chứng, chứng thực
đều được quy định ở các điều cụ thể. Riêng loại di chúc này chỉ được quy định ở
một khoản của một Điều, cho thấy hiện nay việc quy định loại hình di chúc này vẫn
còn sơ sài. Có thể thấy rằng giữa khoản 3, Điều 630 và Điều 634 BLDS năm 2015,
cũng như khoản 3 Điều 630 và Khoản 2 Điều 636 BLDS năm 2015 có một mối liên
hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên vẫn chưa được quy định rõ khi nào nên áp dụng
điều luật nào. Việc áp dụng các điều luật trên đều dựa vào kinh nghiệm của hội
đồng xét xử. Vì vậy, cần có án lệ để áp dụng chung cho các điều luật này.
- Tại khoản 3, Điều 630 của BLDS năm 2015 không quy định rõ hình thức của
văn bản, ai có thẩm quyền công chứng, chứng thực cho loại di chúc này. Trách
nhiệm, quyền hạn cuả người làm chứng là văn bản như thế nào. Đây là điểm cần
hoàn thiện để hạn chế trường hợp di chúc bị vô hiệu hóa do người dân không biết
phải làm như thế nào. Không quy định rõ thế nào là di chúc được coi là có công
chứng, chứng thực, có phải tiến hành đồng thời với việc người làm chứng lập di
chúc hay không? Ai là người chứng thực? BLDS cũng cần quy định thêm về thời
hạn công chứng, chứng thực.
- Bên cạnh đó, điều luật này vẫn chưa quy định rõ khi nào thì một người được
coi là không biết chữ. Điều này gây khó khăn trong việc xác định quyền lợi.
10

Vấn đề II. Tài sản được định đoạt theo di chúc

*Tóm tắt quyết định số 359/2013/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế”:
Cụ Quý (nguyên đơn) khởi kiện yêu cầu Tòa chia tài sản chung của vợ chồng
làm hai phần, yêu cầu được hưởng 1/2 giá trị căn nhà và bằng hiện vật, 2/3 xuất
thừa kế theo pháp luật. Cụ Quý và cụ Hương có tạo lập được bất động sản gồm nhà
và đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994. Ngày 6/4/2009
cụ Hương mất. Trước đó, ngày 16/1/2009 cụ Hương để lại di chúc toàn bộ nhà đất
cho 5 con. Ngày 25/1/2013, ông Lộc khiếu nại bản án sơ thẩm vì quyết định của bản
án không quyết định ông Lộc phải trả nhà cho ai. Giám đốc thẩm xét thấy, cụ
Hương để lại di chúc toàn bộ nhà và đất là không đúng vì đây là tài sản chung của
vợ chồng. Việc tòa sơ thẩm xác định phần giá trị căn nhà được chia cho cụ Quý 1/2
11

và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, phần còn lại được chia đều cho 5 người con
được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ. Tuy nhiên, tòa sơ
thẩm không quyết định buộc ông Lộc trả phần nhà đất cho cụ Quý là chưa giải
quyết triệt để vụ án, dẫn tới bản án có hiệu lực pháp luật không thể thi hành và cần
phải xem xét công sức giữ gìn cho ông Lộc. Do đó, tòa chấp nhận kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho xét xử sơ
thẩm lại.
* Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT về vụ án “Tranh chấp yêu cấu tuyên
bố văn bản công chứng vô hiệu”:
Bị đơn là ông Y khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố các văn bản công chứng
vô hiệu của Phòng Công chứng M (bị đơn). Về di chúc của cụ C và cụ D đã ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Y. Ngày 16/12/2009, cụ C
lập di chúc để lại một phần tài sản là thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 cho con trai là
ông D1 ngày 15/1/2011. Cụ D cũng lập di chúc để lại phần tài sản cho ông D1. Khi
Nhà nước thu hồi và có bồi thường thì ông D1 được đứng tên và nhận tiền. Phòng
công chứng M đã có văn bản công bố di chúc đối với 2 bản di chúc này. Nhưng
giữa ông Y và cụ C có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ năm 1998.
Hơn nữa, vì là tài sản chung mà cụ C đã tự ý quyết định tài sản mà không có thỏa
thuận của cụ D nên hợp đồng đó chưa đủ căn cứ để xem xét tính hợp pháp. Giám
đốc thẩm xem xét thấy di sản của hai cụ là quyền sử dụng đất đã bị thu hồi ngày
21/7/2010 nhưng giá trị quyền sử dụng đất có bị thu hồi vẫn được đảm bảo theo quy
định Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản cho ông D1.
Tòa quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ xét xử sơ thẩm lại.
Câu 2.1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
- Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu
(nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, Phú Nhuận) cho các con là Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị
Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí).
12

- Được nêu trong đoạn “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất
số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con là:
Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng,
Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí).”
Câu 2.2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn cho thấy tài sản của cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung
của vợ chồng cụ Hương là “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một
phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ
Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà và đất cho 5 người con trong khi không có sự
đồng ý của cụ Quý là không đúng.”
Câu 2.3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định
số 359 cho câu trả lời?
- Tòa án đã công nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (1/2
nhà đất) cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật.
- Đoạn cho thấy câu trả lời: “Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ
Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2
nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ
ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.”
Câu 2.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, bởi lẽ:
+ Di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung
thì di sản được định đoạt là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý, nên Tòa án
quyết định chỉ công nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), phần di sản
của cụ được chia cho 5 người con theo di chúc sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn hợp lý. Và cụ Quý được hưởng 1/2 tài sản nhà
đất trong phần tài sản chung của hai cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.
13

Câu 2.5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần chia toàn bộ di sản của cụ Hương
vẫn có giá trị pháp lý cho 5 người con. Vì :
+ Căn cứ vào khoản 2 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để đảm
bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”
 Theo đó, khi cụ Quý chết. Phần tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia ½
cho cụ Quý và ½ cho cụ Hương.
+ BLDS năm 2015: Điều 644.
Trong trường hợp cụ Quý để lại di chúc nhưng không chia di sản cho cụ Hương thì
phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật mà cụ Hương được nhận từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế không phụ
thuộc nội dung di chúc.
+ BLDS năm 2015: Điều 609.
Còn nếu cụ Qúy để lại di chúc có chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc có giá
trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm phần di sản cụ Hương được nhận.
+ Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 :
“1.Thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây :
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con nuôi,của người chết.”
- Theo đó, cụ Quý chết trước cụ Hương và không để lại di chúc nên phần tài
sản của cụ Quý sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 649 của BLDS năm
2015:“ Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự
thừa kế do pháp luật quy định.” Như vậy tài sản của cụ Quý sẽ được chia cho cụ
Hương và các con của cụ Quý-những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tài sản
của cụ Hương bao gồm ½ tài sản chung của cụ Quý và phần được hưởng theo pháp
luật.)
14

Câu 2.6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không?
Vì sao?
- Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý. Bởi vì:
+ Về hình thức, bản di chúc này có công chứng của Phòng Công chứng số 4,
Thành phố Hồ Chí Minh Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận
sức khỏe của Bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn.
+ Về nội dung, tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009. Trong khi đó, thời điểm mở thừa kế là ngày cụ
Hương chết (ngày 6/4/2009), tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương trước thời điểm mở
thừa kế. Do đó cụ có quyền định đoạt tài sản của mình theo Điều 609,BLDS năm
2015: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản
của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật.”
Câu 2.7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
- Quyết định số 58, đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết:
+ “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-
2010 của Ủy ban Nhân dân thành phố Vĩnh Yên...”
+ “Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D chết.”
Câu 2.8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định
di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất:
15

“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của
Ủy ban Nhân dân thành phố Vĩnh Yên...”
- Hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì:
+ BLDS năm 2015: Điều 643. Hiệu lực của di chúc
“3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào
thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì
phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.”
Theo đó, khi người lập di chúc còn sống, thửa đất được nhà nước có quyết
định thu hồi thì trường hợp này là thu hồi có đền bù. Nếu xác định đối tượng di sản
là bất động sản thì tại thời điểm thừa kế, di sản không còn. Nhưng nếu xác định di
sản là quyền sử dụng đất thì vẫn còn bởi vì vẫn còn giá trị đền bù.
+ BLDS năm 2015: Điều 115. Quyền tài sản
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Theo đó, trường hợp này quyền sử dụng đất bị thu hồi được bảo đảm bằng giá
trị bồi thường. Nên người có đất có quyền lập di chúc định đoạt giá trị bồi thường.
Do đó, tại thời điểm mở thừa kế, di sản để lại cho người thừa kế còn tồn tại, đảm
bảo quyền lợi cho người thừa kế.
Câu 2.9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi?
- Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi:
“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của
Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị
thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có
quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”
16

Câu 2.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
- Hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì:
+ Đã khẳng định người có quyền sử dụng đất bị thu hồi được quyền định đoạt
giá trị bồi thường này bằng di chúc. Đối tượng được định đoạt trong di chúc là tài
sản. Như vậy, gián tiếp thừa nhận giá trị bồi thường khi quyền sử dụng đất bị thu
hồi là tài sản. Đây là nội dung vẫn chưa được quy định rõ trong văn bản.
+ Cơ chế điều chỉnh giá trị bồi thường khi quyền sử dụng đất bị thu hồi. Tòa
đã theo hướng người có quyền sử dụng đất bị thu hồi được quyền định đoạt giá trị
này theo di chúc. Đây là một hướng làm rõ thực trạng pháp luật hiện nay vẫn chưa
có văn bản nào nói rõ là người có quyền sử dụng đất bị thu hồi được quyền định
đoạt bằng di chúc. Hướng giải quyết này của Toà án đã bổ sung, bổ khuyết cho văn
bản pháp luật hiện nay.
+ Về nội dung, liệu cho người thừa kế định đoạt bằng di chúc có thuyết phục
không? Ở đây, giá trị được bồi thường của quyền sử dụng đất bị thu hồi gắn liền với
quyền sử dụng đất và trị giá được bằng tiền, nên chúng ta hoàn tòan có thể coi là
quyền tài sản. Khi giá trị được bồi thường của quyền sử dụng đất bị thu hồi là quyền
tài sản, người sở hữu tài sản đó mất thì tài sản trở thành di sản.

Vấn đề III. Di chúc chung của vợ chồng

*Tóm tắt bản án số 14/2017/DSST về vụ việc “Tranh chấp Thừa kế theo di


chúc”:
Vợ chồng ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H có 4 người con. Ngày
10/8/2015, hai vợ chồng ông X lập di chúc chung có nội dung nếu ông X chết trước
bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà quản lí tài sản, khi bà chết sẽ giao toàn bộ lại
cho anh H1. Khi viết ông X hoàn tòan minh mẫn, tuy nhiên sau đó ông phải nhập
viện nên vẫn chưa được chứng thực. Tháng 1/2016, ông X chết, bà H công bố di
chúc nhưng con bà là anh H2, H3 không công nhận di chúc và cho rằng di chúc
không phải do ông X viết và yêu cầu chia tài sản mà ông X để lại cho bốn người
con. Bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của ông X. Kết quả giám
17

định cho thấy di chúc là do ông X tự tay viết ra nên tòa án chấp nhận yêu cầu của bà
H.
Câu 3.1: Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Theo Điều 968 Bộ luật dân sự Pháp “một di chúc không thể được làm trong
cùng một văn bản bởi hai hay nhiều người, hoặc vì lợi ích của người thứ ba, hoặc để
định đoạt cho nhau”. Với nội hàm như vậy, pháp luật Pháp đã cấm di chúc chung.
- Pháp luật ở các nước Áo, Đức có ghi nhận di chúc chung của vợ chồng.
BLDS Đức ghi nhận di chúc chung của vợ chồng (Điều 2265) và từ năm 2001, Đức
còn đi xa hơn ở việc chấp nhận di chúc chung của những người cùng giới sống
chung có đăng ký. Đặc biệt, pháp luật Phần Lan và Thụy Điển còn chấp nhận di
chúc chung mà không giới hạn di chúc chung này đối với chủ thể nào nên có nhiều
khả năng di chúc chung được chấp nhận cho mọi đối tượng và không giới hạn ở di
chúc chung của vợ chồng. Ở Pháp, BLDS năm 1804 không có quy định về di chúc
chung đồng thời có quy định cấm di chúc chung tại Điều 968 và việc cấm này đã có
từ thế kỷ thứ 18, từ chỉ dụ Aguesseau năm 1735.
Câu 3.2: Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
- Đoạn của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng:
“Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân ông
bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày 21/8/2017.
Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng viết
ngày 10/8/2015.”
Câu 3.3: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS năm 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.

- Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS năm 2015. Đoạn của bản án cho câu trả lời:
18

“Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ông X có tinh
thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước khi chết.
Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc còn khỏe mạnh,
minh mẫn, không có sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điều 630 bộ
luật dân sự năm 2015. Mặt khác, tại Kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày
28/8/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Chữ ký dạng
chữ viết “X” và các chữ Hoàng Minh X trên “Bản di chúc” (tài liệu giám định ký
hiệu A) so với chữ ký chữ viết “X” và các chữ Hoàng Minh X dưới mục “ Người
xin; Đại diện gia đình; Người viết đơn ký tên; Người khai; Người làm đơn” trên
“Đơn xin trợ cấp; Biên bản xác nhận giấy chứng nhận nhà ở hoàn thành theo giai
đoạn; Đơn đề nghị giải quyết chất độc da Cam; Bản khai cá nhân đề nghị hưởng chế
độ trợ cấp một lần; Đơn xin vào Hội Cựu chiến Binh kết hợp sơ yếu lý lịch” (tài liệu
mẫu So sánh ký hiệu M1.M2.M3.M4 M5) là do cùng một người kí viết ra.

Quá trình giải quyết vụ án, anh H, anh H2 và anh H3 không đưa ra được bất cứ
một chứng cứ nào chứng minh cho việc bản di chúc ngày 10/8/2015 không phải do
ông Hoàng Minh X viết. Từ những căn cứ nêu trên HĐXX  chấp nhận yêu cầu của
bà Hoàng Thị H.” 

Câu 3.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS năm 2015.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối
quan hệ với BLDS năm 2015 là hoàn toàn phù hợp. Bởi vì:
+ Theo lời khai của bà Hvà các con khi lập di chúc, ông H hoàn tòan minh
mẫn và sáng suốt. Nội dung di chúc không trái pháp luật. Do đó di chúc hoàn toàn
đáp ứng các điều kiện tại Khoản 1, Điều 630 BLDS năm 2015.
+ Các con ông X cho rằng di chúc không phải do ông X viết ra nhưng Tòa án
đã đưa ra những bằng chứng chứng minh di chúc là do ông X viết nên các con ông
đã không còn lí do để phản đối.
19

Vấn đề IV. Di sản dùng vào việc thờ cúng

*Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSST về vụ việc“ Tranh chấp di sản thừa kế”:
Nguyên đơn là ông Được khởi kiện về việc tranh chấp di sản thừa kế với bị
đơn là anh Tân và chị Hương. Ông Mười và bà Lùng là vợ chồng có bảy người con
là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được, Hương. Di sản để lại là một căn nhà cấp 4,
diện tích khoảng 100m2 tại khu Kim Sơn-Thị trấn Long Thành. Ngày 8/7/2004 bà
Lùng lập di chúc để lại cho bảy người con, đồng thời thửa hưởng để thờ cúng cha
mẹ. Anh Được quản lí sử dụng, anh Tân và chị Hương yêu cầu để căn nhà và đất
như hiện tại là tài sản chung của bảy người. Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà diện tích 57,5 m2,
anh Được phải có trách nhiệm thanh toán di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương
số tiền là 37.424.000đ.
20

Câu 4.1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- BLDS năm 2015: Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không
thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”

Câu 4.2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?
- Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc
thờ cúng:
“ Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con
đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện
tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di
sản là có cơ sở chấp thuận.”
Câu 4.3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- BLDS năm 2015: Khoản 1, Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng
“Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.”
21

- Vậy điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng dùng vào việc thờ một cách
hợp pháp có được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu. Vì bà Lùng (mẹ của
nguyên đơn và bị đơn) đã để lại di chúc cho các con vì di sản dùng vàoviệc thờ
cúng nhưng không chỉ định người quản lý di sản và hiện tại 5/7 anh chị em của anh
Được giao cho anh Được quản lí di sản.
Câu 4.4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Ngoài anh Tân, chị Hương không đồng ý việc chia di sản thì 5 anh chị em
còn lại đều đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời:
“ Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại nhà và đát cho 07 anh chị
em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chịem họp lại để chia di sản
của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý.”
Câu 4.5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời:
“ Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con
đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện
tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di
sản là có cơ sở chấp thuận.”
“Vì vậy anh Được được sở hữu phần của anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa
và phần của anh Được tổng số là 187.120.000đ, anh Được thanh toán cho anh Tân,
chị Hương mỗi người là 37.424.000đ.”
22

Câu 4.6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- Chế định di sản dùng vào việc thờ cúng hiện nay trong BLDS còn sơ sài về
cơ sở xác lập di sản này. Không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội đa
dạng và phức tạp.
+ BLDS năm 2015 vẫn chưa quy định cụ thể giới hạn một phần là bao nhiêu
trong tổng thể di sản. Điều này tạo ra sự khác biệt trong việc giải quyết mỗi vụ án.
Mỗi tòa án sẽ có sự xác định một phần này khác nhau. Do đó trong tương lai cần có
những sửa đổi bổ sung thích hợp đối với quy định về di sản thờ cúng.
+ Trong vụ việc được nghiên cứu, giải pháp của Tòa án có phần chưa thuyết
phục. Tòa án xác định di sản dùng vào việc thờ cúng là nhà đất cấp 4 có giá trị
pháp lý là có thể chấp nhận được. Bởi vì ngoài nhà đất ra, di sản của bà Lùng còn
có thể bao gồm các tài sản khác như tài sản mà bản án không nhắc tới. Vì vậy, di
sản này không phải là di sản dùng cho việc thờ cúng. Tuy nhiên, điểm không hợp lý
có thể thấy tại
- Khoản 1, Điều 670, BLDS năm 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ
cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.”

- Trong vụ việc này Tòa án chấp nhận chia thừa kế là căn nhà cấp 4 làdi sản
thờ cúng là không đúng. Thay vào đó, Tòa án cần phải xem xét tìm người quản lý
phần di sản trên, vì trong di chúc của bà Lùng không đề cập đến một người cụ thể
23

quản lí di sản. Tòa án cần tạo điều kiện cho các con của bà thỏa thuận để cử ra một
người quản lý phần di sản này và có trách nhiệm thực hiện việc thờ cúng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục văn bản pháp luật tiếng Việt.

1. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm
2005.

2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 06 năm
2014.

3. Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015 số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm
2015.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bán án và bình luận bản án, Nhà xuất
bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam năm 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án
số 4-7, 8-10, 134-137, 139-139 và 164-165.

2. Hoàng Giang Linh; "Thẩm quyền công chứng, chứng thực liên quan đến quyền
của người sử dụng đất, một số kiến nghị”. Một số kiến nghị trong việc xây dựng
luật về giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh ở nước ta hiện nay; Số 2/2017; Trang
60-64.

3. Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
thừa kế của Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức năm
2018, Chương V.

4. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia năm 2007, tr.236 đến 237, tr.244 đến 245,
tr.269 đến 271.

5. Võ Đình Toàn & Lê Thị Thúy Nga; “Giám sát, phản biện xã hội, minh bạch
thông tin trong lĩnh vực quản lý đất đai – những hạn chế bất cập và giải phát
hoàn thiện.” Một số kiến nghị trong việc xây dựng luật về giải thích hiến pháp,
luật, pháp lệnh ở nước ta hiện nay; Số 2/2017; Trang 53-59.

You might also like