You are on page 1of 28

Khoa Quản Trị

Lớp Quản Trị - Luật 48(B)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU

QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC


Bộ môn: Những quy định chung về luật dân sự

Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Nhóm: 06

Thành viên:

1 Phạm Hoàng Nghĩa 2353401020153


2 Hà Thảo Nguyên 2353401020163
3 Chu Thị Yến Nhi 2353401020171
4 Tạ Hoàng Thanh Như 2353401020190
5 Lê Thanh Nhi 2353401020175
6 Nguyễn Thị Ngọc Nhiên 2353401020186
7 Lê Thị Như Quỳnh 2353401020214
8 Tô Thục San 2353401020219

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 04 năm 2024


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ


1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 TAND Tòa án Nhân dân
3 TANDCC Tòa án Nhân dân cấp cao
4 TANDTC Tòa án Nhân dân tối cao
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC .............................................................1
1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. .............................................................................................................1
1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời. ..........................................................................................2
1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao? ....3
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay. .....................3
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào? .................................................4
1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời. 4
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật? ...............................................................4
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu? ...5
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
.................................................................................................................................5
1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn nhu cầu về hình thức không? Vì
sao? ..........................................................................................................................5
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định của BLDS liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết chữ. ...............................................................................6
VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC ............................8
2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu
trả lời? ......................................................................................................................9
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?.......................................................9
2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời? .......................................................................................................10
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. .......10
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời. ........................................................................................ 11
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao? ....12
2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã
bị thu hồi trước khi hai cụ chết? ............................................................................12
2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định
vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm? ..........................................................................13
2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C
và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm. ........................13
VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ............................................14
3.1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng? ...............................................................................................................14
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời. ...............................................14
3.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015. ............................................................15
VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG ........................................17
4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời. .............................................................................................17
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc
thờ cúng? ................................................................................................................18
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không? ..................................................18
4.4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m2 có thuyết
phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời? ..........................................................18
4.5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 trở thành tài sản chung những
người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ....................19
4.6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan đến phần
đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. ..................................................................................................20
4.7. Tòa án xác định “Nếu bà L. không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các
đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ
cúng" có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .................................20
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS.
...............................................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC


Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSST về “V/v tranh chấp di sản thừa kế”.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu (1986).

Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng (1951).

Thông tin sự việc: Ông Hiếu xin nhận ½ lô đất mà ông Này đã có giấy giao lại
cho ông Hiếu sử dụng thuộc tờ bản đồ số 08, thửa số 83 do UBND huyện sông Hinh
cấp ngày 02/05/2007 và xin nhận nhà, thối lại chênh lệch tài sản cho bà Trọng.

Quyết định Tòa án: Bà Trọng được quyền sở hữu toàn bộ tài sản, nhà và đất
do ông Này và bà Trọng đứng tên. Bà Trọng có trách nhiệm thanh toán lại cho ông
Hiếu số tiền 78.795.000 đồng là phần thừa kế theo di chúc của ông Này. Ông Hiếu,
ông Trung, ông Việt phải có nghĩa vụ chuyển toàn bộ phụ tùng đồ nghề sửa chữa xe
máy khỏi nhà 27 Lê Lợi, thị trấn Hai Riêng, Sông Hinh.

Tóm tắt Quyết định 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự
TANDTC.
Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang.

Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm.

Ông Đỗ Văn Quang kiện bà Hoàng Thị Ngâm về việc đề nghị chia bằng hiện
vật phân tài sản của cụ Phúc để lại gồm nhà và đất số 708 đường Ngô Gia Tự hiện do
vợ chồng ông Vân quản lý.

TANDTC quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm số 175/2008/DSPT của
TAND thành phố Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 04/2008/DSST của TAND tỉnh
Bắc Ninh, giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm.

1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý: Người lập di
chúc phải tự mình viết di chúc bằng chữ viết tay, không được nhờ người khác viết,
không được đánh máy chữ, in vi tính hoặc bằng các cách thức tương tự và người lập
di chúc phải tự mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc.
2

Các điều kiện này được quy định theo Điều 633 BLDS 2015 về di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di
chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy
định tại Điều 631 của Bộ luật này”.

1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều 632 BLDS 2015 quy định về “Người làm chứng cho việc lập di chúc”
như sau:

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Xét thấy trong bản án, di chúc của ông Này do cha, em trai, em gái của ông
Này điểm chỉ và ký tên làm chứng, những người làm chứng di chúc của ông Này
không là người làm chứng hợp pháp do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 632 BLDS
2015, đây là những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc, thuộc hàng
thừa kế thứ nhất và thứ hai theo quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 như sau:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
3

người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; cháu ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay.

Vì ở phần “Nhận thấy” của Tòa án có nêu: “Để tránh tranh chấp về sau nên
ông Này viết giấy này để nhà và đất lại cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ông Này
có mất thì cháu Hiếu có chỗ ở và thờ cúng cho ông Này”. Và phần “Xét thấy” của
Tòa án: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa
phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn,
sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp”. Do vậy, di chúc của ông Này là do ông Này tự viết
tay.

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Việc Tòa án công nhận di chúc của ông Này là hợp lý. Vì căn cứ theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 về di chúc hợp pháp: “Người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”.

Trong quá trình lập di chúc ông Này hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt không bị
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Đồng thời, di chúc là do ông Này tự viết tay và tự
mình ký tên vào nên đã có giá trị pháp lý phù hợp với quy định tại Điều 633 BLDS
2015: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật
này”. Ngoài ra, không có quy định nào khác như phải công chứng, chứng thực.
Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì phải có ít nhất hai
người làm chứng theo quy định tại Điều 634 BLDS 2015, đối với trường hợp của ông
Này là tự mình viết tay và ký tên vào di chúc, đồng thời có cả cha, em trai, em gái
điểm chỉ và ký tên làm chứng là phù hợp với Điều 630 và Điều 633 nêu trên và việc
làm chứng này nhằm tăng tính xác thực cũng như tính thuyết phục của di chúc, không
phải là điều kiện để di chúc có tính hợp pháp.
4

1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?


Ngày 25/11/1998, cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết di chúc của mình, cụ Hựu điểm
chỉ, ông Vũ và bà Đỗ Thị Quý ký tên làm chứng, sau đó ngày 9/1/1999 bà Lựu mang
di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng và UBND xã Mai Lâm xác nhận.

1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời.
Cụ Hựu là người không biết chữ. Đoạn của Quyết định số 874 cho câu trả lời:
"Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ."

1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện được quy định
tại khoản 1, 3, 5 Điều 630 BLDS 2015:

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện
ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay
sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng
ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc,
kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải
được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận
chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Ngoài ra di chúc còn cần đáp ứng được điều kiện tại Điều 634 BLDS 2015:

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự
mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc,
5

nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký
hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những
người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký
vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định
tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.

1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Có hai điều kiện được thỏa mãn trong di chúc của ông Hựu:

- Di chúc của ông Hựu đã được lập thành văn bản.

- Di chúc của ông Hựu đã được công chứng hoặc chứng thực.

1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ
Hựu?
Điều kiện thứ nhất: vấn đề về người làm chứng và công chứng, chứng thực.
Bà Hựu không biết chữ nên đã lập di chúc bằng miệng, bà đọc cho ông Vũ (người đại
diện dòng họ Đỗ) viết di chúc, bà Đỗ Văn Quý là mẹ của ông Vũ ký tên làm chứng
tại thời điểm đó. Sau đó bà Lựu mang di chúc đến cho ông Thưởng (trưởng thôn) và
UBND xã Mai Lâm ký xác nhận. Vậy trong trường hợp này đã đáp ứng 02 người làm
chứng. Tuy nhiên ông Thưởng không chứng kiến việc cụ Hựu lập di chúc mà chỉ ký
xác nhận do bà Lựu mang di chúc đến nhờ ký xác nhận (1 tháng sau khi di chúc được
lập). Và việc UBND xã Mai Lâm ký chỉ là xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ
không xác nhận nội dung của di chúc.

Điều kiện thứ hai: “Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc…
dấu vân tay mở không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định”.

1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn nhu cầu về hình thức không? Vì
sao?
Di chúc nêu trên không thỏa mãn nhu cầu về hình thức. Vì theo khoản 3 Điều
652 BLDS 2005 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng thực”. Trong trường hợp này, di chúc của cụ Hựu mới chỉ thỏa mãn điều kiện
di chúc được lập thành văn bản và có người làm chứng. Chưa thỏa mãn về điều kiện
6

công chứng, chứng thực do quá trình chưa rõ ràng và chưa đúng với quy định của
pháp luật. Bên cạnh đó, trong di chúc cần có dấu ấn cá nhân của người lập di chúc, ở
đây là điểm chỉ. Trong bản di chúc này có điểm chỉ của cụ Hựu, tuy nhiên qua giám
định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh
sát kết luận: “Dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu
tố giám định”. Do đó chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể hiện đúng ý chí
của cụ Hựu.

1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định của BLDS liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết chữ.
Khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về
thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn
bản và có công chứng hoặc chứng thực”.

Điều 634 BLDS 2015 quy định:

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự
mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc,
nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký
hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những
người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký
vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.

Có thể thấy, quy định về việc lập di chúc ở cả BLDS 2005, 2015 có nội dung
tương đồng nhau. Tuy nhiên BLDS 2005 quy định về hình thức lập di chúc của người
không biết chữ chưa rõ ràng, cụ thể. Quy định tại bộ luật này chưa chặt chẽ về người
làm chứng và quá trình công chứng, chứng thực. Vì vậy dễ dẫn đến những rắc rối,
mâu thuẫn trong quá trình thực hiện.

Rút kinh nghiệm từ những thiếu sót trước đó thì BLDS 2015 đã có những bổ
sung hợp lý, kịp thời. Cụ thể bổ sung việc “Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận
chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc”. Việc quy định như
vậy tạo được sự rõ ràng, minh bạch trong quá trình lập di chúc. Tuy nhiên, để quá
7

trình lập di chúc của người không biết chữ thêm chặt chẽ và hoàn thiện hơn thì cần
bổ sung thêm phần yêu cầu người làm chứng đi công chứng, chứng thực trong một
quãng thời gian nhất định.
8

VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC


Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của TANDTC.
Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Dũng, ông Nguyễn Hữu Lộc.

Nội dung: Nguyên đơn là cụ Quý khởi kiện yêu cầu Tòa chia tài sản chung của
vợ chồng làm 2 phần, yêu cầu được hưởng 1/2 giá trị căn nhà bằng hiện vật, 1/2 căn
nhà ở vị trí bên phải từ ngoài nhìn vào và 2/3 suất thừa kế theo pháp luật. Cụ Quý và
cụ Hương tạo lập được bất động sản bao gồm nhà và đất đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994. Ngày 06/04/2009 cụ Hương mất. Trước đó,
ngày 16/01/2009 cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho 5 người con là ông Đức, ông
Nghĩa, ông Hiếu, ông Dũng và bà Kiều. Ngày 25/01/2013 ông Lộc là bị đơn khiếu
nại bản án dân sự sơ thẩm vì quyết định của bản án không quyết định ông Lộc phải
trả nhà cho ai. Giám đốc thẩm xét thấy cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất là không
đúng vì là tài sản chung của vợ chồng. Việc Tòa sơ thẩm xác định nội dung di chúc
chỉ có giá trị một phần nên được chia đều cho 5 người con, 1/2 tài sản còn lại của cụ
Quý và cụ Hương được chia 2/3 suất thừa kế là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa sơ thẩm
không quyết định ông Lộc trả phần nhà đất cho cụ Quý là cách giải quyết chưa triệt
để dẫn đến bản án có hiệu lực pháp luật, không thể thi hành và cần phải xem xét công
sức giữ gìn cho ông Lộc.

Quyết định của Tòa án: Tòa quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án
TANDTC, hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ xét xử sơ thẩm lại.

Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của TANDCC tại
Hà Nội.
Nguyên đơn: ông Trần Văn Y.

Bị đơn: Phòng công chứng M.

Lý do ông Y khởi kiện là vì Phòng công chứng M đã công chứng di chúc cụ


D gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ông. Tuy nhiên, các tài
liệu ông Y xuất trình chỉ có cụ C chuyển nhượng mà chưa có ý kiến của cụ D. Ngoài
ra, di sản của cụ C và cụ D vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất
đai nên hai cụ có quyền lập di chúc cho ông D1. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ tuyên hủy
9

bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án để xác định thời điểm cụ D lập di chúc,
di sản là một phần tài sản không còn nữa là chưa chính xác, cần phải xem xét đồng
thời giá trị pháp lý của hợp đồng mua bán nhà, đất giữa ông Y với cụ C và tính hợp
pháp bản di chúc của cụ D, cụ C cũng như văn bản công bố di chúc.

2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu
trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản là toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn
Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận là tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương.

Phần “Nhận thấy” của Quyết định số 359 có đoạn:

Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung
chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận
Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu
Trí), di chúc đã được công chứng tại Phòng Công chứng số 4 thành phố
Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.

Và đoạn trong phần “Xét thấy” của Quyết định số 359:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc nhà
đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền,
phường 5, quận Phú Nhuận) được UBND quận Phú Nhuận cấp giấy chứng
nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ
Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ
ông Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc này về hình thức có công chứng của
Phòng Công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di
chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện Phú Nhuận
xác nhận cụ Hương minh mẫn.

2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương là:
10

Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung
chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5,
quận Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ
Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công chứng tại phòng công chứng số
4 TPHCM ngày 16/01/2009.
Và đoạn về tài sản chung: “Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền,
phường 5, quận Phú Nhuận (số cũ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu) có diện tích 680,6m2,
giá trị tiền xây dựng 433.587.700 đồng là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý”.

2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
Tòa án đã công nhận di chúc có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ
Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc
Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều
sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.

Đoạn của Quyết định số 359 cho câu trả lời là:

Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di
chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý
của cụ Quý là không đúng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của
cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ
Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà
Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu
Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ
Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; còn 1/2 diện tích đất còn lại được chia
cho cụ Quý.

2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.

Vì theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 quy định về người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc như sau:
11

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp
luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản
hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Vì vậy, khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được cụ
Hương là người lập di chúc cho hưởng di sản. Vì vậy, việc Tòa án xác định chia cho
cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn phù hợp.

Theo Điều 612 BLDS 2015 thì di sản bao gồm phần tài sản của người chết
trong khối tài sản chung với người khác. Vợ chồng cụ Hương kết hôn vào năm 1962
và cụ Hương được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994. Căn cứ
khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng
có được sau kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, cụ Hương sở hữu 1/2 nhà
đất tại 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng.

Theo Điều 609 BLDS 2015 thì cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt tài sản
của mình chứ không có quyền định đoạt tài sản của người khác. Vậy nên, cụ Hương
chỉ có quyền định đoạt 1/2 nhà đất trên chứ không phải toàn bộ.

Theo khoản 4 Điều 643 BLDS 2015, phần định đoạt tài sản của cụ Quý bị vô
hiệu, di chúc có hiệu lực một phần. Việc vô hiệu này không ảnh hưởng tới việc định
đoạt trong di chúc của cụ Hương.

2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì toàn bộ phần di chúc sẽ có giá trị pháp lý
đối với tài sản của cụ Hương được hưởng theo phần thừa kế theo pháp luật. Khi cụ
Quý chết thì tài sản chung của vợ chồng phải được chia một nửa của cụ Quý, một
nửa của cụ Hương. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng thì chia làm ba trường hợp sau:
12

Trường hợp thứ nhất: Cụ Quý chết không để lại di chúc thì căn cứ theo điểm
a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 về những trường hợp thừa kế theo pháp luật được áp
dụng trong trường hợp “a) Không có di chúc”, di sản của cụ Quý sẽ chia đều cho
hàng thừa kế thứ nhất là cụ Hương và các con theo Điều 651 BLDS 2015. Nghĩa là
cụ Hương sẽ sở hữu 1/2 tài sản và thêm một phần hưởng thừa kế theo pháp luật từ cụ
Quý. Cho nên, nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần di chúc của cụ Hương bao gồm
số tài sản cuối cùng đã nhận (1/2 tài sản từ việc chia tài sản) và thêm một phần hưởng
thừa kế theo pháp luật từ cụ Quý là hợp pháp.

Trường hợp thứ hai: Cụ Quý chết trước và có để lại di chúc định đoạt một
phần tài sản chung của hai vợ chồng, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 644 BLDS
2015 thì cụ Hương vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế
theo pháp luật. Khi đó di chúc của cụ Hương cũng chỉ có hiệu lực pháp lý một phần
đối với phần đáp ứng một phần tài sản cụ Hương sở hữu trong khối tài sản chung của
vợ chồng cộng với phần tài sản thừa kế từ cụ Quý.

Trường hợp thứ ba: Cụ Quý chết trước và để lại di chúc định đoạt toàn bộ phần
tài sản chung của vợ chồng cho cụ Hương. Nếu không có bất cứ người nào được quy
định khoản a điểm 1 Điều 644 BLDS 2015 thì toàn bộ tài sản là căn nhà thuộc quyền
sở hữu của cụ Hương. Khi đó di chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý đối với toàn
bộ căn cứ theo Điều 609 BLDS 2015 về cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình.

2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý hay không thì luật không
quy định. Còn thực tiễn xét xử, Tòa án giải quyết theo hướng di sản được xác định từ
thời điểm lập di chúc. Như vậy, trong trường hợp di chúc của cụ Hương được công
chứng ngày 16/1/2009 mà đến tháng 4/2009 tài sản mới thuộc sở hữu của cụ Hương
thì di chúc của cụ Hương không có giá trị pháp lý.

2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã
bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và D đã bị thu hồi trước khi hai cụ
chết là: “Di sản của cụ D, cụ C để lại để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38,
13

tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ UBND ngày 21/7/2010
của UBND thành phố Vĩnh Yên…”

2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định
vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất:

Ngoài ra, di sản cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ UBND ngày
21-07-2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử
dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy
định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản
trên theo ông D1.

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý vì xét theo khoản 2 Điều 42 Luật
Đất đai.

2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C
và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu
hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 598 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi là:

Ngoài ra, di sản cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ UBND ngày
21-07-2010 của UBND tỉnh Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật
Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên theo ông D.

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý. Vì theo khoản 3 Điều 643 BLDS
2015 và khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 thì di sản của cụ D và cụ C vẫn còn nằm trong
thời điểm mở thừa kế, di chúc của cụ D và cụ C là hợp pháp nên vẫn còn có hiệu lực.
14

VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG


Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST của TAND huyện C tỉnh Phú Thọ.
Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H

Bị đơn: Anh Hoàng Tuyết H

Ông X và bà H kết hôn năm 1960 có với nhau 4 người con là anh H, anh H1,
anh H2 và anh H3. Vợ chồng bà có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số
76 với diện tích 967,4 m. Ngày 10/08/2015 hai vợ chồng lập di chúc chung của vợ
chồng do ông X viết có nội dung là giao toàn bộ toàn bộ tài sản cho con là anh H1.
Sau khi ông X chết các anh H, H2, H3 không công nhận di chúc trên là hợp pháp và
đòi chia di sản.

Quyết định của Tòa án: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và
bà Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp. Không chấp nhận yêu cầu của anh
Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X.

3.1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng?
Đoạn của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng:

Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời kỳ hôn


nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định
ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc
chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015. Anh H, anh H2 và anh H3 là con
đẻ của ông X, bà H không công nhận di chúc trên là hợp pháp. Bà H khởi
kiện và yêu cầu Tòa án công nhận di chúc chung của vợ chồng bà là hợp
pháp” đã cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng.

3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Trong phần nhận định của tòa án, tòa nhận định rõ tại điều 630 BLDS 2015
quy định di chúc hợp pháp :

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau:


15

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

….

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

Thực tế BLDS 2015 không có bất cứ quy định nào về di chúc chung của vợ
chồng ( BLDS đã bỏ qua 03 điều liên quan đến di chúc chung của vợ chồng (các Điều
663, 664, 668) của BLDS 2005), Tòa án dựa theo Điều 630 của BLDS 2015 và đi
theo hướng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ông X có
tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến thời điểm
trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản
di chúc còn khỏe mạnh, minh mẫn, không có sự ép buộc nào. Nội dung
trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo
đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 BLDS 2015.

Tòa đã dựa theo tinh thần khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 để chứng minh di
chúc của vợ chồng có giá trị pháp lý.

3.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Theo em hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc của vợ chồng trong mối
quan hệ với BLDS 2015 là hợp lý. Vì ông X là đảm bảo đủ các điều kiện theo khoản
1 Điều 630 BLDS 2015 để đưa ra một bản di chúc là hợp pháp. Trong bản án các bên
đương sự đã thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều
trị cho đến thời điểm trước khi chết. Ngoài ra, kết luận giám định số 1700/KLGĐ
ngày 28/8/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Phú Thọ kết luận chữ ký
trong di chúc là chữ ký của ông Hoàng Minh X. Điều này đã minh chứng cho sự
“minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép” theo
tinh thần điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015. Xét về nội dung thì nội dung bản di
16

chúc của ông X cũng không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức xã hội
và phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015. Vì vậy, việc Tòa
dựa trên Điều 630 BLDS 2015 mà cho rằng di chúc chung của vợ chồng ông X và bà
H là hợp pháp là hợp lý.
17

VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG


Tóm tắt Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 TAND tỉnh Cà Mau.
Nguyên đơn: Bà Lưu Tuyết M, Lưu Thị P, Lưu Phương D.

Bị đơn: Bà Lưu Thị L.

Vấn đề tranh chấp: Chia thừa kế quyền sử dụng đất.

Nội dung bản án: Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế 16 công đất gồm 10
công đất ở, đất vườn, đất ruộng và 6 công đất lá là di sản của ông Lưu Văn C và bà
Lê Thị V để lại. Trong đó 6 công đất lá được ông C thể hiện nguyện vọng trong di
chúc là đất dùng vào việc thờ cúng và giao cho bà L quản lý.

Hướng giải quyết Tòa: Tòa án đã xác định, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự về việc chia di sản thừa kế 10 công đất ở, đất vườn và đất ruộng. Dựa trên
nội dung di chúc của cụ D, căn cứ Điều 645 BLDS 2015 Tòa án xác định 6 công đất
lá, diện tích 4.582,3 m2 vì là di sản dùng để thờ cúng nên thuộc sở hữu chung của các
đương sự, và bà L hiện đang thờ cúng cụ C và cụ V nên giao phần đất này cho bà L
quản lý, sử dụng để thờ cúng.

4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Theo khoản 1 điều 645 BLDS 2015 thì:

1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý đề thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa
thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kê theo di chúc đều đã chết thì phân di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
18

4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?
Qua đoạn xét thấy của tòa án trong mục về phần nội dung có nói đến:

Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 07 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7
người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang
quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và
giao cho anh Được sở hữu di sản là cơ sở chấp thuận.

4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Căn cứ điều 670 BLDS 2005 : Điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng là:
“Tài sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa
lại. Di chúc không định đoạt toàn bộ di sản chỉ dùng vào việc thờ cúng”. Trong vụ
việc đang nghiên cứu,các điều kiện trên đã được thỏa mãn.

Xét thấy: Trong vụ việc không nói đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản của
cụ C nên có thể xem như nghĩa vụ đó không có hoặc đã được thực hiện xong phần tài
sản cụ C để lại dùng vào việc thờ cúng là nhà đất, đây không phải là toàn bộ di sản
của cụ.

4.4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m2 có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m2 là có
thuyết phục, căn cứ theo khoản 1 Điều 645 BLDS 2015 quy định:

1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa
thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
19

Như vậy, phần đất có diện tích 4.582,3m2 đã được cụ C để lại dùng vào việc
thờ cúng, nên phần đất đó không được chia thừa kế. Vì vậy quyết định của Tòa án là
hợp lí và thuyết phục.

4.5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 trở thành tài sản chung
những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Dựa trên phần nhận định của bản án thì phần đất có diện tích 4.582,3m2 là đất
dùng cho việc thờ cúng theo nguyện vọng trong di chúc của cụ C dù di chúc này
không đúng thủ tục theo quy định pháp luật. Đồng thời, căn cứ tại khoản 1 Điều 670
BLDS 2005 và khoản 1 Điều 645 BLDS 2015:

1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa
thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần
di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Qua đó, nếu dựa trên điều luật này thì có thể hiểu rằng phần di sản dành cho
việc thờ cúng thì không được chia thừa kế và được giao cho người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng. Khi đó, di sản có thể trở thành tài sản chung của các đồng
thừa kế. Mọi giao dịch liên quan tới phần di sản đều phải được sự chấp thuận của
những người đồng thừa kế vì người quản lý di sản không có quyền bán, trao đổi, tặng
cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác nếu không có sự
đồng ý của các đồng thừa kế (điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015). Chính vì vậy,
Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 trở thành tài sản chung những người
thừa kế là tương đối thuyết phục.
20

4.6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Phần “Nhận định” của bản án đã xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 là
tài sản chung những người thừa kế. Phần di sản này cũng được giao cho người quản
lý di sản dùng để thờ cúng, mà người quản lý di sản thì phải có nghĩa vụ thờ cúng.
Nghĩa vụ thờ cúng là việc thực hiện các việc lễ giỗ đầy đủ, đúng quy định và thời
gian. Và cũng có nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 617 BLDS 2015:

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ
luật này có nghĩa vụ sau đây:

a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà
người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người
thừa kế đồng ý bằng văn bản;

c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Vì vậy, Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan
đến phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” là thuyết phục.

4.7. Tòa án xác định “Nếu bà L. không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các
đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ
cúng" có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Chiếu theo quy định tại khoản 1 Điều 670 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 645
BLDS 2015:

1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa
21

thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trách nhiệm của người quản lý theo di chúc đó là phải thực hiện nghĩa vụ thờ
cúng và nghĩa vụ của một người quản lý di sản. Quy định trên đã nêu rõ nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ
cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Như vậy, Tòa án xác định “Nếu bà L không
thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế có thể giao cho người khác
quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng” có thuyết phục.

4.8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS.
Theo phong tục tập quán của nước ta, việc thờ cúng được ông cha ta đặt ra rất
nhiều điều lệ khắt khe: cách thức lập hương hỏa, sáu điều kiện để nhận hương hỏa,
việc tiến hành thờ cúng, chấm dứt việc thờ cúng1,… Thêm nữa là truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta là “Uống nước nhớ nguồn” thì pháp luật trước đây đã có những
điều lệ rất chặt chẽ, rõ ràng về vấn đề này như: Luật Hồng Đức có đến 13 điều luật
quy định riêng về hương hỏa2 hay trong Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 cũng có tới 50
điều luật dành cho việc thờ cúng3 . Tuy nhiên, quy định về việc thờ cúng thể hiện tại
Điều 645 BLDS 2015 thì lại khá ngắn gọn, đơn giản hóa những điều lệ về việc thờ
cúng. Pháp luật hiện hành không quá khắt khe về những điều kiện bắt buộc như trong
cổ luật mà chỉ xem việc này giống với nguyên tắc chia di sản thông thường. Bởi vì
còn khá đơn giản nên đã xuất hiện một số bất cập. 4

Thứ nhất, BLDS không quy định rõ về quyền và nghĩa vụ đối với người quản
lý di sản thờ cúng vậy nên không có căn cứ để xác nhận xem người đó có vi phạm
nghĩa vụ thờ cúng hay không.

Thứ hai, trường hợp có nhiều người tham gia quản lý, có người trong diện thừa
kế, có người không trong diện thừa kế, chia nhau quản lý di sản thừa kế mỗi người
một khoảng thời gian. Câu hỏi đặt ra lúc này là di sản cuối cùng sẽ do ai quản lý.

1
Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam thông khảo, quyển I, Nxb. Đại học Luật khoa, Sài Gòn, 1972, tr. 310 - 313;
Nguyễn Mạnh Bách, Sđd, tr. 245 -7.
2 Điều 388 đến Điều 400 Luật Hồng Đức, Sđd, tr.144 - 8.
3
Điều 600 đến Điều 649 Bộ Dân luật Sài Gòn, Sđd, tr. 158 – 70.
4 https://lawfirm.vn/mot-so-van-de-ve-di-san-dung-vao-viec-tho-cung-theo-blds-2015/
22

Thứ ba, di sản sẽ được một người quản lý nhưng khi người đó không còn. Vậy
di sản thờ cúng ấy sẽ được định đoạt như thế nào khi người quản lý đó vừa không
phải chủ sở hữu của di sản, vừa không được đưa di sản vào di chúc của người quản
lý. Và trong những trường hợp mà di sản thờ cúng gây ra thiệt hại thì ai sẽ là người
chịu trách nhiệm khi chỉ có người quản lý di sản mà không có người sở hữu.

Thứ tư, di sản thờ cúng có thời điểm kết thúc hay không. Trường hợp di sản
qua nhiều đời không còn nguyên vẹn vậy câu hỏi đặt ra là cơ chế nào cho phép người
quản lý di sản thờ cúng được tôn tạo, tu sửa, xây dựng mới nhà thờ cũng như tất cả
các đồ thờ cúng và vấn đề sở hữu di sản thờ cúng sẽ xử lý ra sao.

Bởi vì BLDS không quy định cụ thể, thiếu tính rõ ràng, chi tiết về vấn đề này
nên có thể sẽ dẫn đến những khó khăn đối với người dân khi áp dụng chế định này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Danh mục văn bản pháp luật.
1.1. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
1.2. Bộ Luật Dân sự năm 2015.
1.3. Luật Đất đai năm 2013.
1.4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2. Danh mục tài liệu tham khảo.
2.1. Bản án số 83/2009/DSST về “V/v tranh chấp di sản thừa kế”.
2.2. Bản án số 14/2017/DSST của TAND huyện C tỉnh Phú Thọ.
2.3. Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 TAND tỉnh Cà Mau.
2.4. Quyết định 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự TANDTC.
2.5. Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của TANDTC.
2.6. Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của TANDCC tại Hà Nội.
2.7. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023.

You might also like