You are on page 1of 28

Khoa Quản trị

Lớp Quản trị - Luật 44A.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU


QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC

Bộ môn: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Giảng viên:
Nhóm: 05

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 4 năm 2020


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 01..................................................................................................................1
1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời......................................................................................................1
1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời......................................................................................................1
1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?.....1
1.4. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.........................1
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?.................................................1
1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?1
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?.................................................................2
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?....2
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu? 2
1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không?
Vì sao? 2
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết chữ.............................................................................2
VẤN ĐỀ 02..................................................................................................................2
2.1 Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoan nào của Quyết định cho câu trả lời?
2
2.2 Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?.................................................................2
2.3 Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định cho câu
trả lời?....................................................................................................................... 2
2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm..........2
2.5 Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................................................................2
2.6 Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?.........3
2.7 …..................................................................................................................... 3
2.8 …..................................................................................................................... 3
2.9 ….....................................................................................................................3
VẤN ĐỀ 03..................................................................................................................3
3.1. Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng?...........................................................................................................3
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.........................................3
3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.....................................................4
VẤN ĐỀ 04..................................................................................................................6
4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời..................................................................................................6
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?...........................................................................................................6
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?......................................................6
4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?..............................................6
4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...................................................6
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu...................................6
1

VẤN ĐỀ 01
HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Tóm tắt Bản án số: 83/2009/DS-PT về “V/v Tranh chấp di sản thừa kế”
ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.1
Ông Này và bà Trọng (bị đơn) là vợ chồng hợp pháp. Trước khi qua đời, Ông
Này có để lại cho con riêng là Hiếu (nguyên đơn) toàn bộ nhà đất là tài sản chung
của hai vợ chồng. Giấy thừa kế do ông Này viết không được công chứng, chứng
thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối,
đe dọa hoặc cưỡng ép và có cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ, ký tên làm
chứng nên được coi là di chúc hợp pháp. Đến nay, ông Hiếu chỉ xin ½ lô đất để sử
dụng nhưng bị bà Trọng bác bỏ. Từ đó xảy ra tranh chấp.
Quyết định của các cấp xét xử:
Tại bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Hiếu về việc tranh
chấp di sản thừa kế. Bà Trọng được nhận toàn bộ tài sản nhà đất và có trách nhiệm
thối chênh lệch cho ông Hiếu số tiền được chia và được nhận từ tài sản theo di chúc.
Tại bản án phúc thẩm: Bà Đặng Thị Trọng và các đương sự xin rút toàn bộ
kháng cáo. Giữ nguyên như quyết định sơ thẩm.
Tóm tắt Quyết định: số 874/2011/DS-GĐT về “V/v Tranh chấp và thừa
kế tài sản” ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự án nhân dân tối cao.2
Ông Quang (nguyên đơn) là con riêng của cụ Hựu. Trước đó, cụ Hựu cũng
đã kết hôn với cụ Hằng và có 2 người con chung là ông Hồng và bà Lựu. Do không
biết chữ mà trước khi mất cụ Hựu đã đọc di chúc cho ông Vũ viết và điểm chỉ dưới
sự làm chứng của mẹ ông Vũ. Di sản cụ Hựu để lại bao gồm nhà, đất hiện do bà
Ngâm (bị đơn - vợ ông Hồng) quản lý và được cấp giấy chứng nhận. Khi kê khai
đăng ký quyền sử dụng đất bà Ngâm đã xuất trình di chúc của cụ Hựu với nội dung
để lại tài sản, đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Ông Quang cho rằng bản di chúc trên là
không hợp pháp nên yêu cầu chia di sản theo thừa kế. Do bản án dân sự sơ thẩm và
1
Từ đây về sau viết tắt là Bản án số: 83/2009/DS-PT
2
Từ đây về sau viết tắt là Quyết định: số 874/2011/DS-GĐT
2

phúc thẩm đã giải quyết vụ án mà chưa có đủ căn cứ xác thực nên Tòa án quyết
định hủy 2 bản án này và xét xử sơ thẩm lại.
1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
“Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý là: Di chúc
phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết tay và tự mình ký tên,
điểm chỉ vào tờ di chúc. Người lập di chúc không được đánh máy, in vi tính hoặc
bằng các cách thức tương tự.”3 Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì
người làm di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên vào bên cạnh chỗ tẩy
xóa, sửa chửa.
Điều kiện này được quy định rõ tại Điều 633 BLDS 2015 quy định về di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng:
“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo
quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.”
Yêu cầu tự viết và ký này có thể lý giải như sau: thứ nhất, nó cho phép xác
nhận được người viết di chúc; thứ hai, nó cho phép khẳng định ý chí của người để
lại di sản.
Bên cạnh đó,trường hợp một di chúc tự viết tay mà không phải do người lập
di chúc tự tay viết ra thì sẽ không được xem là di chúc hợp pháp, trừ các trường hợp
nhờ người khác viết hộ thì phải tuân theo quy định tại điều 634 BLDS 2015.
Ngoài ra, về việc lập di chúc bằng văn bản, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nhận
định:
“Do Bộ luật không cho biết bằng văn bản được hiểu như thế nào nên bất kỳ
vật liệu nào thể hiện được chữ viết cũng cần được chấp nhận. Chẳng hạn, viết di
chúc trong một bưu thiếp hay trong một bức thư đều cần được chấp nhận. Bộ luật
Dân sự 2015 cũng không nêu phải viết tay bằng chất liệu gì nên có thể chấp nhận di

3
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu
tài sản và quyền thừa kế (Tái bản có sửa đổi và bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.468.
3

chúc viết bằng mực, bút bi hay bằng chất liệu khác, thậm chí bằng bút chì hay bằng
máu nếu có cơ sở xác định chữ viết đó là của người để lại di sản.”4
1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì
những người làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng
hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong bản án có nêu: “Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn
Này lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sỡ hữu chung của ông
với bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái,
em trai ông Này chỉ điểm và ký tên làm chứng.”5
Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này chỉ có em gái, em trai của ông Này là người làm
chứng hợp pháp, còn cha ông Này không là người làm chứng hợp pháp.
Vì căn cứ theo Điều 632 BLDS 2015 quy định về người làm chứng cho việc
lập di chúc:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
Căn cứ theo điều trên thì cha ông Này là người thừa kế theo pháp luật, theo
Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật thì cha
ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.” Do đó cha ông Này không phải là người
làm chứng hợp pháp bởi vì cha ông Này đã thuộc vào Khoản 1 Điều 632 BLDS
2015.
Còn em gái, em trai của ông Này là những người làm chứng hợp pháp bởi vì
ông Này làm di chúc với nội dung là ông Này lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ

4
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ 4), tr.455.
5
Tr.5-6 của Bản án số: 83/2009/DS-PT
4

nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho ông Hiếu là con riêng
của ông Này cho nên em gái, em trai của ông Này không là người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc, hai người này cũng không là người
có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc hay là người chưa thành
niên,người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi. Bên cạnh đó, nếu xét thêm về người thừa kế theo pháp luật thì cha ông
Này vẫn còn sống cho nên di sản thừa kế sẽ được chia theo từng hàng thừa kế theo
thứ tự 1,2,3. Do đó, em gái, em trai của ông Này là những người làm chứng hợp
pháp.
1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không?
Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay. Bởi vì:
Trong phần Xét thấy bản án có nêu: “[…] giấy thừa kế do ông Nguyễn Này
viết không được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập
trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép
và có nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp.”6
Ngoài ra, trong phần nhận thấy thì theo lời khai của người có liên quan thì :
“Ông Chìa, bà Phước (cha mẹ ông Này) ủy quyền cho ông Thành (em ruô ̣t của ông
Này) trình bày: lúc ông Này còn sống có về nói với gia đình và lâ ̣p hai bản di chúc:
1 giấy ủy quyền sử dụng đất và 1 giấy thừa kế sử dụng đất đưa ra cho gia đình xem
và nói bây giờ các cháu lớn đều co nhiều nhà cửa riêng, chỉ còn lại cháu út là
Nguyễn Thành Hiếu đang ở với ông Này. Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này
viết giấy này để nhà và đất lại cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ông Này có mất
có chỗ ở và thờ cúng cho ông Này. Gia đình hoàn toàn nhất trí theo ý ông Này.
Chúng tôi không yêu cầu hưởng di sản.”7
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên
quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông
Này tự viết tay.
Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông
Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay là hoàn toàn hợp lý, bởi vì:

6
Tr.5-6 của Bản án số: 83/2009/DS-PT
7
Tr.4 của Bản án số: 83/2009/DS-PT
5

Thứ nhất, ông Này là người lập di chúc có năng lực chủ thể. Đồng thời di
chúc của ông Này dù không được công chứng, chứng thực nhưng được viết khi ông
hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt, không bị đe dọa hay cưỡng ép phù hợp với Điều
625 BLDS 2015. Nội dung hay hình thức cũng không trái pháp luật nên theo
khoảng 1 Điều 630 BLDS 2015, Tòa hoàn toàn có quyền tuyên di chúc là hợp pháp.
Thứ hai, di chúc là do ông tự viết và ký, thỏa mãn Điều 633 BLDS 2015.
Việc lập di chúc là sự thể hiện ý chí tự nguyện của ông Này. Tự nguyện là sự thống
nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Theo anh Trung, anh Việt (con trai Ông Này với bà
Tâm): “Thời gian gần lúc cha mất, cha đã có ý định toàn bộ các con đều có nhà chỉ
có Hiếu còn nhỏ chưa vợ nên cha định đoạt lô đất này lại cho Hiếu và có di chúc”.
Thứ ba, di chúc này là di chúc bằng văn bản không có người làm chứng. Vì
điều kiện khách quan hay chủ quan mà công dân không lập di chúc bằng văn bản có
sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về việc người làm chứng, đối
với di chúc tự viết tay thì không cần thiết, nên việc có hai người làm chứng hợp
pháp (em gái, em trai ông Này) chỉ mang tính xác thực cho di chúc nhiều hơn,
không phải là điều kiện bắt buộc để di chúc của ông Này hợp pháp.
Tóm lại, việc lập di chúc bằng văn bản mà không có người làm chứng vẫn
được coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện về chủ thể lập di chúc, sự tự nguyện,
nội dung và hình thức của di chúc theo luật định. Việc họ không đi chứng nhận,
chứng thực di chúc tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể do không am hiểu
pháp luật hoặc có lý do nào khác. Vì vậy Tòa án công nhận di chúc hợp pháp là
đúng đắn theo thực tiễn cuộc sống.8
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
“Đối với di chúc đề ngày 25-11-1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà
Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ
Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Qúy (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau
đó ngày 04-01-1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thường (là
Trưởng thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.”9

8
Tham khảo tại: Nguyễn Văn Điền, “Điều kiện có hiệu lực của di chúc theo pháp luật dân sự hiện
hành”, Bộ Tư Pháp, 2019, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?
ItemID=2452
9
Tr.6 của Quyết định: số 874/2011/DS-GĐT
6

1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho
câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Trong Quyết định số 874, phần xét thấy chỉ rõ: “[…]
Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.[…]”10
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện
nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện được quy
định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 (Khoản 1 và Khoản 3 Điều 630
BLDS 2015) về Di chúc hợp pháp để có hình thức phù hợp:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.
3. Di chúc chia người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực”.
Để là văn bản có người làm chứng, di chúc phải thỏa Điều 634 BLDS:
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình
đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít
nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều
631 và Điều 632 của Bộ luật này.”
Từ đây, có thể rút ra, điều kiện về hình thức để di chúc của người không biết
chữ phù hợp với quy định của pháp luật là:
1. Là văn bản;
2. Có ít nhất hai người làm chứng;
10
Tr.6 của Quyết định: số 874/2011/DS-GĐT
7

3. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm
chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc;
4. Có công chứng, chứng thực;
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
Di chúc của ông Hựu đã được đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, ông Hựu đã đọc cho ông Vũ viết di chúc, điều này cho thấy di
chúc ông Hưu đã được người làm chứng lập thành văn bản.
Thứ hai, di chúc đáp ứng được do ông Vũ chỉ là đại diện nhà họ Đỗ và bà
Quý là mẹ ông Vũ, không vi phạm khoảng nào trong Điều 632 BLDS 2015, nên là
người làm chứng hợp pháp. Trưởng thôn là ông Thưởng và Uỷ ban nhân dân xã
Mai Lâm xác nhận di chúc.
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di
chúc của ông Hựu?
Mặc dù chữ ký của 2 người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý phù hợp nhưng
dấu vân tay điểm chỉ của cụ Hựu lại không được công nhận. Bởi lẽ, qua giám định
dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát
kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố
giám định. Do đó chưa đủ căn cứ xác định di chúc trên thể hiện đúng ý chí của cụ
Hựu.
Ngoài ra, Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông
Thưởng (trưởng thôn) mà không xác định nội dung của di chúc. Hơn nữa, việc
chứng thực di chúc không tuân theo trình tự thủ tục được nêu tại Điều 636 BLDS
2015:
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc
8

điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác
và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản
di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và
người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm
quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt
người lập di chúc và người làm chứng.
Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 56 Luật Công chứng năm 2014 đã quy định
rất rõ: “Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy
quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc.” Rõ ràng ở đây, di chúc của cụ
Hựu đã không theo thủ tục lập di chúc. Cho nên không xác minh được di chúc có
phải là ý chí của cụ hay không. Bên cạnh đó, việc ông Thưởng là trưởng thôn ký
xác nhận là không phù hợp với quy định pháp luật. Ngoài ra, sau hơn 1 tháng, bà
Lựu mới mang di chúc đi công chứng thì không thể đảm bảo được việc di chúc có
hay không bị giả mạo, đánh tráo từng trang hay cả tờ di chúc, bị thêm bớt di chúc…
hoặc bị hư hỏng một phần nào đó.
1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
Theo nhóm, di chúc trên chưa hoàn toàn thỏa mãn điều kiện về hình thức. Vì
theo như câu trên đã trả lời thì: Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di
chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mở không
thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Thêm vào đó, người
làm chứng và người mang đi công chứng là hai người khác nhau. Do vậy, không có
đủ yếu tố xác định di chúc này thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu.
Trong Quyết định số 874/2011/DS-GĐT có chi tiết: “Trong trường hợp này
di chúc của cụ Hựu có hai người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý, có xác nhận của
ông Thưởng (là Trưởng thôn) và xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm. Tuy
nhiên ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, việc Ủy ban nhân dân xã
Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận (sau khi cụ Hựu lập di
chúc hơn một tháng) và UBND chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác
9

nhận nội dung của di chúc.” Tức thời điểm cụ Hựu lập di chúc có hai người làm
chứng là ông Vũ và cụ Quý, nhưng lúc đó, việc lập di chúc lại không có sự chứng
kiến của những người có thẩm quyền xác nhận chữ ký (cụ thể ở đây là cán bộ
UBND cấp xã) cũng như việc lăn dấu tay của cụ lại không có đủ cơ sở để xác nhận
dấu tay chính chủ. Do đó, bản di chúc này không thỏa mãn về vấn đề hình thức.
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến
hình thức di chúc của người không biết chữ.
Các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không
biết chữ là hợp lý, đảm bảo được quyền lợi và ý chí của họ.
Thứ nhất, quy định về văn bản là để tránh viêc các rủi ro, tranh chấp sau này
không có cơ sở để giải quyết.
Thứ hai, vì người lập di chúc không biết chữ nên để lập được di chúc thì
buộc phải nhờ người khác viết hoặc đánh máy giúp họ. Để tránh tình trạng người
được nhờ viết hoặc đánh máy không trung thực, có hành vi gian dối, Bộ luật đã yêu
cầu phải có thêm người làm chứng, ít nhất là 2 người.
Thứ ba, để chứng minh là có người làm chứng, người làm chứng cũng phải
ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc. Việc làm này là để sau này nếu có tranh chấp,
có cơ sở để chứng minh.
Thứ tư, về vấn đề công chứng, là một điều kiện bảo đảm được hoàn toàn
quyền lợi cho người lập di chúc không biết chữ. Trong trường hợp người được nhờ
viết hoặc đánh máy và hai người làm chứng cùng nhau gian dối, qua mặt người lập
di chúc, việc công chứng giúp minh bạch quá trình lập di chúc.
Có thể thấy, các nhà làm luật đã dự trù được các khả năng xảy ra và có biện
pháp phòng ngừa. Tuy nhiên, để thực hiện được các điều kiện trên thì sẽ rất phiền
phức và có khả năng sẽ tốn khá nhiều thời gian để hoàn thành 1 tờ di chúc. Ngoài
ra, lập di chúc thông qua một người khác sẽ có thể không truyền đạt được đầy đủ
tâm tư nguyện vọng của người lập di chúc.
10

VẤN ĐỀ 02
TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC
Tóm tắt Quyết định số: 359/2013/DS-GĐT về “V/v Tranh chấp thừa kế”
ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.11
Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý
Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn Hữu Lộc.
Vợ chồng Cụ Quý, cụ Hương có 12 người con chung, tạo lập được bất động
sản bao gồm nhà và đất. Khi cụ Hương chết đã để lại di chúc (có công chứng) với
nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất cho 5 người con (trong đó có 2 bị đơn). Vì
việc lập di chúc cho phần tài sản chung mà chưa có sự đồng ý của cụ Quý nên cụ
Quý đã khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cụ theo pháp luật đối với
di sản của cụ Hương. Tại thời điểm xét xử sơ thẩm thì còn nhiều vấn đề chưa giải
quyết triệt để dẫn tới bản án có hiệu lực không thể thi hành nên Tòa án hủy bản án
sơ thẩm và giao hồ sơ xét xử lại.
Tóm tắt Quyết định số: 58/2018/DS-GĐT” ngày 27/9/2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội.12
Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y
Bị đơn: Phòng công chứng M
Cụ D và cụ C (tên gọi khác là T,T1) sống với nhau và có phần tài sản chung
là thửa đất số 38 nhưng không đăng lý kết hôn. Thời gian sau cụ D chung sống với
cụ N và có con là ông D1. Cụ C và cụ D đều lập di chúc để lại phần tài sản của
mình cho ông D1. Di chúc của cụ D được lập tại phòng công chứng M và sau khi
công bố thì xảy ra tranh chấp với ông Y. Theo ông Y thì thửa đất đó ông đã mua từ
cụ C nên việc công bố di chúc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp mình.
Vì vấn đề phát sinh từ việc cụ C tự định đoạt tài sản chung và các vấn đề liên quan
chưa được giải quyết triệt để nên Tòa đã hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm để xét
xử lại.

11
Từ đây về sau viết tắt là Quyết định số: 359/2013/DS-GĐT
12
Từ đây về sau viết tắt là Quyết định số: 58/2018/DS-GĐT
11

2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản bao gồm: toàn bộ căn nhà và đất số 302
Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng
Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí).
Phần Xét thấy của Quyết định chỉ rõ: “Theo các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc nhà đất thì địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là
02 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận
Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày
06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ
căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5
người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công chứng tại
Phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.” 13 đã cho chúng
ta câu trả lời về tài sản mà cụ Hương định đoạt.
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định
đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trong phần Xét thấy của Quyết định cho thấy tài sản của cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương, cụ thể là:
“Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là
tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho
toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không
đúng.”
2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết
định số 359 cho câu trả lời?
Tòa án đã công nhận phần di chúc thuộc phần di sản của cụ Hương (1/2 nhà
đất) nên được chia đều cho 5 người con là các con ông bà, sau khi đã chia cho cụ
Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật. Đoạn “[…] Vì vậy, Tòa án sơ thẩm xét xử di

13
Tr.7 của Quyết định số: 359/2013/DS-GĐT
12

chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ
Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các con ông bà Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị
Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo
pháp luật […]” đã trả lời cho câu hỏi.
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Thứ nhất, di chúc của cụ Hương được lập cách hợp pháp về hình thức nhưng
về nội dung thì chưa đảm bảo vì di sản được định đoạt là tài sản chung của hai vợ
chồng cụ Hương và cụ Quý. Cho nên di chúc chỉ có hiệu lực ½ đối với phần tài sản
của cụ Hương, ½ tài sản còn lại là thuộc về cụ Quý. Theo di chúc, phần tài sản của
cụ Hương được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều. Bên cạnh đó,
cụ Quý không có tài sản riêng mà cụ Hương chết trước nên chiếu theo khoảng 1
Điều 644 BLDS 201514 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc, cụ Quý được nhận thêm 2/3 suất thừa kế bắt buộc theo pháp luật là
hoàn toàn có cơ sở.
Thứ hai, Tòa chỉ ra điểm thiếu sót của Tòa xét xử sơ thẩm khi không buộc
ông Lộc trao trả phần nhà đất cho cụ Quý là chưa giải quyết triệt để. Tòa cũng xem
xét phần công sức của ông Lộc là người ở trong căn nhà từ nhỏ đến nay, đồ đạc
trong nhà của cha mẹ lâu nay ông Lô ̣c vẫn quản lý, thờ cúng. Điều này giúp đảm
bảo một phần quyền lợi và công sức của ông Lộc.
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một
phần tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương (1/2 phần đất).

14
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế
theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di
chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
13

Sau khi cụ Quý chết, phần tài sản chung của 2 vợ chồng sẽ được chia đôi
theo khoảng 2 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “Khi có yêu cầu về chia
di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên
bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.” Do đó, ½ nhà đất
thuộc về cụ Hương.
Tuy nhiên, cụ Hương còn được nhận phần thừa kế từ di sản của cụ Quý. Ta
xét các trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: cụ Quý chết có để lại di chúc nhưng không chia cho cụ
Hương. Trong trường hợp này cụ Hương vẫn nhận được 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật bởi vì cụ Hương là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc được quy
định tại khoản 1 điều 644 BLDS 2015.
Trường hợp thứ hai: cụ Quý chết có để lại di chúc và có chia di sản cho cụ
Hương thì cụ Hương sẽ nhận phần di sản được quy định tại điều 609 BLDS 2015.
Nếu di chúc có nói cụ Hương là một trong những người thừa kế, thì phần tài sản cụ
Hương được nhận từ cụ Quý là một phần di sản mà cụ Quý để cho cụ Hương khi đã
đủ 2/3 (hoặc hơn suất tài sản thừa kế). Nếu không đủ, cụ Hương được nhận thêm để
đủ 2/3 suất thừa kế của mình.
Trường hợp thứ ba: cụ Quý chết và không để lại di chúc. Với trường hợp cụ
Quý chết không để lại di chúc, di sản của cụ Quý sẽ được chia thừa kế theo pháp
luật theo điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc.”
Theo điểm a khoản 1 Điều 651: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.” Khi đó, phần di sản
của cụ Quý sẽ được chia theo pháp luật cho những thừa kế thuộc hàng thứ nhất gồm
13 người là cụ Hương và 12 người con. Do đó, cụ Hương sẽ được hưởng một phần
di sản do cụ Quý để lại. Cụ Hương và cụ Quý có 12 người con, trong đó có hai
người con đã chết. Tuy nhiên vì không biết 2 người con có chết trước hay chết cùng
thời điểm với cụ Quý hay không nên không có căn cứ xác định phần di sản chia ra
14

chính xác là bao nhiêu, nên chỉ có thể nói cụ Hương nhận được một phần từ di sản
của cụ Quý.
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị
pháp lý không? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương vẫn có giá trị pháp lý.
Điều 611 BLDS 2015 về thời điểm địa điểm mở thừa kế: “Thời điểm mở
thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.” Mặc dù ngày 16/01/2009 là ngày di
chúc được công chứng, tuy nhiên ngày 06/04/2009 là ngày cụ Nguyễn Văn Hương
chết, mà di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm người lập di chúc chết hay còn gọi là
thời điểm mở thừa kế theo khoản 1 Điều 643 BLDS 2015. Vậy nên thời điểm cụ
Hương chết (06/04/2009), di chúc đã bắt đầu có hiệu lực, đã có thể phân chia tài sản
theo di chúc được rồi. Mặt khác, tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở
hữu của cụ Hương nên cụ Hương có toàn quyền định đoạt đối với tài sản đó. Do đó,
di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý hoàn toàn khi cụ chết.
Ngoài ra, thời điểm lập di chúc cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của
Bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn. Di chúc có sự xác nhận công
chứng của Phòng công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, về mặt hình
thức di chúc của cụ Hương cũng được đảm bảo và cũng đã thoản mãn các điều kiện
công nhận di chúc hợp pháp được quy định tại điều 630 BLDS 2015.
15

2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C
và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết.
Đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai
cụ chết:15
“Ngày 07/9/2010, cụ C chết. Ngày 21/1/2011, cụ D chết”.
“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất đai tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010
của Uỷ ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất đai
nên hai cụ có quyền lập lại di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”.
2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa án giám đốc thẩm
xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của
anh/chị về hướng xác định vừa nêu của Tòa án giám đốc thẩm?
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa án giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là
quyền sử dụng đất đai tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết
định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Vĩnh
Yên”
Hướng xác định vừa nêu trên của Tòa án giám đốc thẩm là hợp lý vì: Căn cứ
tại Điều 612 BLDS 2015 thì cụ C và cụ D có tài sản chung là thửa đất số 38 Tờ bản
đồ số 13, vì thế cả hai cụ đều có quyền định đoạt đối với phần tài sản của mình
trong khối tài sản chung. Nhưng phần đất này đã được nhà nước thu hồi theo Quyết
định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 của UBND thành phố Vĩnh Yên. Theo đó,
căn cứ tại Điều 115 BLDS 2015 giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi vẫn được đảm bảo nên di sản của cụ D và cụ C để lại chỉ là quyền sử dụng đất
cho ông D1, không phải toàn bộ thửa đất số 38 nói trên.

15
Tr.3-4 của Quyết định số: 58/2018/DS-GĐT
16

2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa án giám đốc thẩm
theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử
dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa án giám đốc thẩm theo hướng cụ C
và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi:
“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất đai tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010
của Uỷ ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất đai
nên hai cụ có quyền lập lại di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”
Hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là có căn cứ và hoàn toàn
hợp lý vì: Căn cứ Khoản 2 Điều 42 Luật đất đai 2003 quy định về bồi thường, tái
định cư cho người có đất bị thu hồi: “Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi
thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết
định thu hồi”. Điều này đảm bảo được quyền lợi của người sử dụng đất theo căn cứ
pháp luật.
17

VẤN ĐỀ 03
DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Tóm tắt Bản án số: 14/2017/DS-ST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân
huyện C tỉnh Phú Thọ.
Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H
Bị đơn: Anh Hoàng Tuyết H
Ông X và bà H kết hôn năm 1960 có với nhau 4 người con là anh H, anh H1,
anh H2 và anh H3. Ngày 10/08/2015 hai vợ chồng lập di chúc chung của vợ chồng
do ông X viết có nội dung là giao toàn bộ toàn bộ tài sản cho con là anh H1. Sau khi
ông X chết các anh H, H2, H3 không công nhận di chúc trên là hợp pháp và đòi chia
di sản. Tòa giải quyết theo hướng công nhận di chúc chung của vợ chồng ông X bà
H là hợp pháp. Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
3.1. Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di
chúc chung của vợ chồng?
Đoạn nêu sau trong phần Nhận định của Tòa cho thấy di chúc có tranh chấp
là di chúc chung của vợ chồng: “Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà
Hoàng Thị X là vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân ông bà tọa dựng được khối tài
sản chung như biên bản thẩm định ngày 21/8/2017. Tháng 01/20161 ông X chết và
có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015.”
Cũng trong phần nhận định: “Ngày 10/8/2015 ông X viết di chúc chung của
vợ chồng, bà H cùng ký với nội dung: “Nay hai chúng tôi nhất trí giao lại căn nhà 4
gian, sân gạch, giếng nước ăn và toàn bộ tài sản trong nhà từ cái nhỏ nhất đến cái to
nhất cho con trai Hoàng Hồng H1 có số chứng minh…Vậy kính mong UBND Thị
trấn xác nhận.”
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng vẫn có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015.
Đoạn của bản án cho câu trả lời là: “Bà H khởi kiện và yêu cầu Tòa án công
nhận di chúc chung của vợ chồng bà là hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của bà H phù
18

hợp quy định tại chương XXII của Bộ luật dân sự năm 2015 về thừa kế theo di chúc
và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện C, tỉnh Phú Thọ.”

3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di
chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Hướng giải quyết của Tòa là hợp lý. Đầu tiên, tòa lấy căn cứ là Điều 663
BLDS 2005 quy định về di chúc chung của vợ chồng:
Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ chồng.
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.” Điều này cũng dễ
hiểu bởi BLDS 2015 không có điều luật nào tương tự Điều 663 BLDS 2005. Thay
vào đó, Tòa xét về tính hợp pháp của di chúc không có chứng thực: “Xét tính hợp
pháp của bản di chúc không có chứng thực: Tại điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015
quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thúc di chúc không trái quy định của luật.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoảng 1 Điều này.”
Việc xét hai điều luật của 2 BLDS 2005 và 2015 này cho thấy Tòa hoàn toàn
đồng ý coi di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý. Bởi suy cho cùng thì di
chúc là phản ánh ý chí của người tạo lập, nên di chúc chung của vợ chồng cũng là ý
chí của 2 người và chỉ cần xem xét coi có đủ điều kiện hợp pháp khác hay không.
19

Thứ hai, di chúc được định nghĩa là: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.” 16 Vì vậy, di chúc
chung cũng hoàn toàn có thể tồn tại vì cơ bản cũng là ý chí của mỗi người. Mà
BLDS cũng không hề cấm việc có di chúc chung, do đó, việc Tòa án thừa nhận di
chúc chung hợp pháp là hoàn toàn hợp lý. PGS.TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim
Giang về vấn đề này cho rằng: “Cần lưu ý rằng hiện nay, BLDS 2015 đã lược bỏ
các quy định về di chúc chung của vợ chồng nhưng nếu vợ chồng có lập di chúc
chung thì di chúc đó vẫn được thừa nhận và có hiệu lực nếu đáp ứng đủ các điều
kiện có hiệu lực của di chúc. Các vấn đề liên quan đến di chúc chung của vợ chồng
như: thời điểm có hiệu lực, điều kiện hợp pháp của di chúc được xác định giống
như đối với di chúc cá nhân.”17
Thứ ba, các điều kiện để một di chúc hợp pháp thì di chúc trong bản án này
đã đáp ứng đầy đủ.
Về hình thức, vì đây là văn bản không có người làm chứng nên phải tuân
theo quy định trong Điều 633 BLDS 2015 về di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc
bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của
Bộ luật này.”
Do ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký nên không vi phạm
điều này. Ngoài ra, tại Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh
Phú Thọ kết luận: “Chữ ký dạng chữ viết “X” và các chữ Hoàng Minh X trên “Bản
di chúc” so với chữ ký dạng chữ viết “X” và các chữ Hoàng Minh X dưới mục
“Người xin; Đại diện gia đình; Người viết đơn ký tên; Người khai; Người làm đơn”
… là do cùng một người ký và viết ra.”
Về nội dung, bản án có nêu rõ: “Trong quá tình giải quyết vụ án, các bên
đương sự thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị
cho đến thời điểm trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X
viết bản di chúc còn khỏe mạnh, minh mẫn, không có sự ép buộc nào. Nội dung
trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù
hợp với quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015.”

16
Điều 624 BLDS 2015.
17
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang, Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư
pháp 2017, tr.219 đến 220
20

Tuy vẫn còn một điểm bất cập là theo Điều 611 BLDS 2015 về thời điểm mở
thừa kế: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.” Nghĩa là nếu di
chúc chung, thì phải là cả khi ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H chết thì di
chúc mới bắt đầu mở thừa kế. Trong cuốn Luật dân sự Việt Nam của Nguyễn Xuân
Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng có nói: “Di chúc có hiệu lực pháp luật kể
từ thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ chồng lập di chúc chung
thì di chúc chung này có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời
điểm vợ chồng cùng chết.”18

VẤN ĐỀ 04
DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

18
 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia, 2007, tr.255.
21

Tóm tắt Bản án số: 211/2009/DS-PT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân
dân huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai.19
Ông Mười (chết năm 1972) và bà Lùng (chết năm 2005) là vợ chồng, hai
người có 7 người con là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được, Hương. Ngày
8/7/2004 bà Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho 7 người con đồng thời thừa hưởng
để thờ cúng cho mẹ. Hiện tại, anh Được quản lý sử dụng nhà đất và yêu cầu chia di
sản cho 7 anh chị em. Tuy nhiên, Anh Tân và chị Hương không đồng ý. Hướng tòa
giải quyết là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền
sở hữu, sử dụng nhà đất. Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản
thừa kế cho anh Tân và chị Hương.
4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi: Người lập di chúc để lại
một phần di sản dùng vào việc thờ cúng và còn dư lại sau khi thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài sản. Cụ thể ở Điều 645 BLDS 2015:
1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được
chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định
không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế
thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng.

19
Từ đây về sau viết tắt là Bản án số: 211/2009/DS-PT
22

Vậy điều kiện để di sản dung vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý là phải do
người chết lập di chúc để lại, chỉ định người quản lý và phải thực hiện đúng di chúc
hoặc theo thỏa thuận của các người thừa kế, nếu không thì có thể giao phần di sản
đó cho người khác thờ cúng.
Nếu người chết không để lại di chúc chỉ định người quản lý thì các người
thừa kế chỉ định. Trường hợp các người thừa kế đã chết thì phần di sản dung cho
việc thờ cúng giao cho người đang quản lý hợp pháp.
Nếu toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản
của người đó thì phải dùng phần di sản còn lại dùng vào việc thờ cúng để thanh toán
nghĩa vụ tài sản người chết để lại.
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc
dùng vào việc thờ cúng?
Trích Bản án 211/2009/DSST:
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7
người con đồng thừa hưởng để thừa cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý
di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh
Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.”
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp
pháp có được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp được thỏa
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu.
Thứ nhất, bà Lùng có nói trong di chúc về việc thờ cúng (Tại tờ di chúc ngày
08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để
thờ cúng cha mẹ), thỏa mãn khoảng 1 Điều 645 là có lập di chúc để lại một phần di
sản.
Thứ hai, trong bản án không nhắc đến bất kì nghĩa vụ thanh toán tài sản nào
nên ở đây ta có thể suy luận là không có. Do đó, phần tài sản của bà Lùng vẫn còn y
nguyên, không vi phạm khoảng 2 Điều 645 nên có thể chia thừa kế bình thường.
23

4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng
trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Anh Phan Văn Được, anh Phan Văn Thảo, Phan Văn Xuân, anh Phan Văn
Nhành và chị Phan Thị Hoa đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng, còn anh
Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ
cúng.
Về việc anh Tân và chị Hương không đồng ý, phần Nhận thấy của bản án có
nói: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại nhà đất cho 07 anh chị
em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em hợp lại chia di sản của
mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.
Phần Xét thấy có nói về việc 5 anh chị em còn lại đồng ý chia di sản: “Tại tờ
di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quảng lý di sản, hiện tại
5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di
sản là có cơ sở chấp nhận.”
4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng
vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được dùng vào việc thờ cúng.
Đoạn của bản án cho câu trả lời: phần “Quyết định” của bản án có đoạn:
“Giao cho anh Được được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà diện tích 57.25m2
kết cấu móng cột xây gạch, tường xây gạch, mái lợp tole xi măng, xà gồ gỗ, nền lát
gạch ceranic, cửa sắt trên diện tích 86m2 đất thửa số 27-tờ bản đồ số 25-Thị trấn
Long Thành-Huyện Long Thành-Tỉnh Đồng Nai giới hạn các điểm 1,2,....8, 1 có tứ
cạnh:
+ Đông giáp đường nhựa và mương thoát nước: 4,98m
+ Tây giáp thửa số 4: 4,60m
+ Nam giáp thửa số 24: 18,76m
+ Bắc giáp thửa số 10: 17,66m
Theo trích lục và đo tách đất bản đồ địa chính số 3027/2009 ngày 29 tháng 5
năm 2009 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Long Thành.”
24

4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng
trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên
cứu.
Về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng, Bộ luật đã nêu khái quát được
các vấn đề về di sản thờ cúng:
Thứ nhất, cách thức lập di sản dùng vào việc thờ cúng: do người có tài sản để
lại xác định trong di chúc từ một phần di sản của người đó.
Thứ hai, cách thức chọn người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và thực
hiện việc thờ cúng (còn gọi là lập tự): có hai cách là hoặc do người lập di chúc chỉ
định trong di chúc hoặc do những người thừa kế theo di chúc thỏa thuận cử ra để
thực hiện việc thờ cúng, nếu người lập di chúc không chỉ định trong di chúc.
Thứ ba, chế tài áp dụng với người được chỉ định đảm bảo trách nhiệm việc
quản lý di sản và lo việc thờ cúng vi phạm nghĩa vụ thờ cúng là những người thừa
kế có quyền chọn người khác lo việc thờ cúng.
Thứ tư, không được để lại di sản thờ cúng trong hai trường hợp là khi tài sản
không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản của những người chết, hoặc di chúc định
đoạt toàn bộ di sản để chi dùng vào việc thờ cúng.
Chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải pháp của Tòa án
trong vụ việc đang được nghiên cứu là phù hợp với văn hóa, phong tục thờ cúng của
người Việt Nam. Chế định cũng đã đơn giản hóa việc thờ tự, thể hiện nguyên tắc
bình đẳng việc hưởng dụng di sản vào việc thờ cúng, xem việc lập người thừa tự
(người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và thực hiện việc thờ cúng) cũng
giống như việc chia di sản theo nguyên tắc chung thông thường.
Tuy nhiên, quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng nêu trên vẫn còn khá
sơ sài. Bởi quan hệ thừa kế di sản dùng vào việc thờ cúng là một quan hệ xã hội khá
phức tạp. Ngoài ra, tập quán thờ cúng ở mỗi vùng, miền cũng có nhiều sự khác
nhau. Do đó, về lâu dài, cần phải có sự bổ sung các quy định thích hợp khác về di
sản thờ cúng.
25

Ngoài ra, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nói trong cuốn Luật thừa kế Việt Nam-
Bản án và bình luận bản án rằng: “Bộ luật Dân sự chỉ giới hạn việc sử dụng di sản
vào việc thờ cúng so với nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản nhưng theo
nhiều tác giả cần phải có giới hạn cả đối với “thừa kế bắt buộc”, tức thừa kế không
phụ thuộc vào di chúc.”20 Vì những người này, theo quy định tại Điều 644BLDS
2015, họ được đảm bảo hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật trong
trường hợp toàn bộ di sản được chia theo pháp luật chứ không phải chia trên phần di
sản còn lại sau khi đã trừ đi phần di sản dành cho thờ cúng.
Thầy Đại cũng có nhận định: “Bộ luật Dân sự cho phép “dành một phần di
sản vào việc thờ cúng” nên có thể hiểu quyền định đoạt không thể áp dụng cho toàn
bộ di sản và “trường hợp lập di chúc để lại toàn bộ di sản cho việc thờ cúng thì chỉ
để lại một phần dành để thờ cúng, phần còn lại chia theo pháp luật””. Tuy nhiên, bộ
luật không xác định rõ là “một phần” ở đây là bao nhiêu. Bộ luật nên quy định rõ
ràng lượng di sản dùng vào việc thờ cúng để việc chia di sản dễ dàng hơn, tất nhiên,
nếu người lập di chúc đã có quyết định về phần di sản thờ cúng thì tôn trọng ý chí
đó của họ.
Về giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang nghiên cứu. Tòa giải quyết có
nhiều điểm chưa được hợp lý:
Thứ nhất, Tòa theo di chúc chia thừa kế cho 7 người con, nhưng lại không
trích một phần di sản để thờ cúng như trong di chúc.
Thứ hai, Tòa vì 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản mà bắt đầu
chia di sản thừa kế như vậy là sai, mặc dù giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ
sở chấp nhận.
Theo Điều 645 BLDS 2015 thì di sản thờ cúng không được chia thừa kế và
được giao cho người đã đc chỉ định quản lý. Mà trong vụ việc nghiên cứu thì Toà đã
chia nhà đất dùng để thờ cúng cho 7 người con là không phù hợp với qui định của
pháp luật.

20
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ 4), tr.694.

You might also like