You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA: LUẬT QUỐC TẾ
------------

BÀI TẬP THẢO LUẬN 6: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC


MÔN HỌC: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lê Thị Trúc Phương


Lớp: QT48.2
Nhóm thực hiện: Nhóm 4
1. Hồ Thị Trúc Linh – 2353801015089
2. Hoàng Trúc Linh – 2353801015090
3. Mai Thị Diệu Linh – 2353801015091
4. Phạm Nguyễn Ánh Linh – 2353801015094
5. Đoàn Công Minh – 2353801015102
6. Nguyễn Thị Kim Ngân – 2353801015116
7. Huỳnh Lê Ngọc Nhi – 2353801015145
8. Huỳnh Ngọc Yến Nhi – 2353801015146
9. Lương Song Nhi – 2353801015149
10.Nguyễn Mai Hoàng Nhiên – 2353801015154

TP.HCM, ngày 02 tháng 04 năm 2024


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Nhóm Họ và tên Nhiệm vụ Ghi chú
Hồ Thị Trúc Linh
Nhóm 1 Phạm Nguyễn Ánh Linh Bài tập 1: Hình thức của di chúc Nhóm trưởng
Lương Song Nhi
Hoàng Trúc Linh
Bài tập 2: Tài sản được định đoạt theo
Nhóm 2 Đoàn Công Minh
di chúc
Nguyễn Thị Kim Ngân
Mai Thị Diệu Linh Bài tập 3: Di chúc chung của vợ chồng
Nhóm 3 Huỳnh Lê Ngọc Nhi Bài tập 4: Di sản dùng vào việc thờ
Nguyễn Mai Hoàng Nhiên cúng
Huỳnh Ngọc Yến Nhi Tổng hợp nội dung
MỤC LỤC
BÀI TẬP 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC................................................................................1
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
......................................................................................................................................................2
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm chứng
di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....2
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?............................3
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc
của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay...............................................................3
5. Di chúc của cụ Hựu đã được thành lập như thế nào?...............................................................3
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời........................3
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù hợp
với quy định của pháp luật...........................................................................................................4
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?...........................5
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?................5
10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?............6
11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định của BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người
không biết chữ..............................................................................................................................6
BÀI TẬP 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC................................................7
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả lời?.........9
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài
sản chung của vợ chồng cụ Hương?............................................................................................9
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả
lời?................................................................................................................................................9
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.................................9
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời................................................................................................................................10
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng
4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?.........................................10
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước
khi hai cụ chết?..........................................................................................................................10
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và cụ
D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm............................................................................................................................................11
9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D được
định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà Nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về
hướng nêu trên của Tòa giám đốc thẩm.....................................................................................11
BÀI TẬP 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG................................................................11
1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng?....12
2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015 không?
Đoạn nào của bản án có câu trả lời?..........................................................................................12
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng
trong mối quan hệ với BLDS 2015............................................................................................12
BÀI TẬP 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỪA KẾ...............................................................13
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời..........................................................................................................................................14
2. Đối với phần đất có diện tích 4.582,3 m2, Tòa án coi đây là di sản dùng vào việc thờ cúng
không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời ?..........................................................................15
3. Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa mãn không trong vụ
việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................................15
4...........Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3 m2 có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................................................16
5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3 m2 trở thành tài sản chung của những người
thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................17
6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp...liên quan đến phần đất này phải
có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.......18
7. Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế
có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng” có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................................................................18
8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................19
BÀI TẬP 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
 Tóm tắt: Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của TAND tỉnh Phú Yên.
 Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu.
 Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng.
 Tranh chấp: Di sản thừa kế.
 Nội dung: Ông Nguyễn Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp từ năm
1970. Hai người sở hữu tài sản chung là ngôi nhà số 27 thuộc thửa số 83, tờ bản
đồ số 8 được UBND huyện Sông Hinh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AG 677357 ngày 2/5/2007. Ngày 16/11/2008, ông Này qua đời và trước khi mất
ông có lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của
ông với bà Trọng cho ông Hiếu, là con riêng của ông Này. Bà Trọng không đồng ý
với di chúc và muốn chia di sản theo pháp luật. Vì vậy, ông Hiếu muốn Tòa giải
quyết theo ý chí của ông Này.
 Quyết định của Tòa án: Tại Tòa sơ thẩm, bà Trọng được nhận toàn bộ tài sản, nhà
và đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thối chênh lệch cho ông Hiếu số
tiền được chia và được nhận từ tài sản theo di chúc. Tại Tòa phúc thẩm, bà Trọng
rút toàn bộ đơn kháng cáo và Tòa giữ nguyên quyết định ở Tòa sơ thẩm.
 Tóm tắt: Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự
TANDTC.
 Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang.
 Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm.
 Tranh chấp: Thừa kế tài sản.
 Nội dung: Dòng họ Đỗ cho rằng hai thửa đất số 56 và số 57 tại thôn Lê Xá, xã Mai
Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội là tài sản của dòng họ Đỗ, để lại cho Cụ Đỗ Văn
Hằng và vợ là bà Đỗ Thị Hựu. Sau khi cụ Hằng và cụ Hựu chết thì xảy ra tranh
chấp giữa các người con là ông Quang, bà Ngâm và những người có liên quan
khác. Trong đó, người đại diện cho dòng họ Đỗ là ông Đỗ Văn Vũ đã nhất trí giao
khối tài sản này cho bà Ngâm quản lý, sử dụng để thờ cúng, đề nghị bác yêu cầu
của ông Quang. Qua hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm quyết định bác yêu cầu của
ông Quang về việc chia thừa kế di sản cụ Hựu để lại theo pháp luật. Sau khi có
quyết định xét xử phúc thẩm, ông Đỗ Văn Quang có đơn khiếu nại không đồng ý

1
với bản án phúc thẩm. Sau quá trình tìm hiểu lại, nhận thấy việc sở hữu hai thửa
đất đang tranh chấp trên của dòng họ Đỗ là không có kê khai giấy tờ, đăng ký
quyền sử dụng. Vì vậy, có sự thay đổi trong quyết định của bản án số
874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự TANDTC.
 Quyết định của Tòa án: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 41/2008/DSPT ngày
12/9/2008 của TAND thành phố Hà Nội và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
28/2007/DSST, giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời
 Cơ sở pháp lý: Điều 631, 633 Bộ luật Dân sự năm 2015
 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý: người lập di chúc
phải tự viết tay và ký vào bản di chúc. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng
ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có
chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa,
sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên
cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời
 Cơ sở pháp lý: Điều 632, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 654, Điều
676 Bộ luật Dân sự năm 2005
 Người làm chứng cho di chúc của ông Này gồm có cha, em gái, em trai ông Này
đã điểm chỉ và ký tên làm chứng. Căn cứ theo Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015
thì cha ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật nên đã vi phạm khoản
1 Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015 nên cha ông Này là người làm chứng không hợp
pháp. Em gái và em trai ông Này thuộc hàng thừa kế thứ hai theo pháp luật nhưng
những người ở hàng thừa kế thừa nhất (cha mẹ, con của ông Này) vẫn còn sống và
có hưởng di sản nên em trai, em gái của ông Này không phải là đối tượng thuộc
khoản 1 Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015 nên 2 người này là người làm chứng hợp
pháp.

2
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
 Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay vì trong phần xét thấy có
đoạn: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông Này viết không được chính quyền địa
phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh
mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm
chứng nên được coi là di chúc hợp pháp.” và trong phần nhận thấy: “… Để tránh
tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy này để nhà và đất lại cho cháu Hiếu thừa
hưởng…”. Mặc dù trong cả Bản án không đề cập cụ thể gì đến việc ông Này đã ký
tên, điểm chỉ vào di chúc cũng như không có giám định chữ viết nhưng theo như
những gì được trình bày thì có thể kết luận rằng ông Này tự viết tay bản di chúc.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay
 Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây
là di chúc do ông Này tự viết tay chưa hoàn toàn hợp lý. Vì Toà án đã xác định
được bản di chúc do ông Này viết tay trong trạng thái còn minh mẫn, sáng suốt
không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và cũng có người làm chứng hợp pháp
(em gái, em trai ông Này) nhưng vẫn chưa đề cập rõ ràng về việc ông Này đã ký
tên hay điểm chỉ vào bản di chúc hay chưa dẫn đến có thể vi phạm Điều 633 Bộ
luật Dân sự 2015 (Điều 655 Bộ luật Dân sự 2005).

5. Di chúc của cụ Hựu đã được thành lập như thế nào?


 “Đối với di chúc đề ngày 25-11-1998,của cụ Hựu do bà Ngân xuất trình, bà
Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ
Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau
đó ngày 04-01-1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là
Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.”

6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời.
 Cụ Hựu không biết chữ. Trong phần xét thấy của quyết định có đoạn: “Đối với di
chúc đề ngày 25-11-1998,của cụ Hựu do bà Ngân xuất trình, bà Ngâm, bà Đỗ Thị
Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông
Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày 04-01-
1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và

3
Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Ông Quang xác định cụ Hựu là người
không biết chữ”

7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật.
 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện sau đây để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật:
+ Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 652 BLDS 2005:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.”
+ Theo quy định tại Điều 656 BLDS 2005:
“Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có
thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người
lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di
chúc và ký vào bản di chúc.”
+ Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật
này. Theo quy định tại Điều 654 BLDS 2005:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.”
+ Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 630 BLDS 2015:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;

4
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.”
+ Theo quy định tại Điều 634 BLDS 2015:
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự
mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng
phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm
chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm
chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.”
+ Theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
 Căn cứ vào câu trả lời của câu 7, di chúc của ông Hựu đã đáp ứng được qua các
điều kiện:
+ Thứ nhất: Người lập di chúc là cụ Hựu vẫn còn minh mẫn, sáng suốt trong khi
lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép; nội dung di chúc không
trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp
luật.
+ Thứ hai: Di chúc của cụ Hựu được ông Vũ là một trong hai người làm chứng
viết lại bằng văn bản.
+ Thứ ba: Có sự xác nhận của ông Thưởng (trưởng thôn) và UBND xã.

5
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
 Điều kiện thứ nhất: Không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là vấn đề
người làm chứng và công chứng, chứng thực.
 Điều kiện thứ hai: Bên cạnh đó, trong di chúc cần có dấu ấn cá nhân của người lập
di chúc, ở đây là điểm chỉ.“Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di
chúc…dấu vân tay mở không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố
giám định”.

10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì
sao?
 Di chúc trên không thỏa mãn nhu cầu về hình thức.
 Trong trường hợp này, di chúc của cụ Hựu mới chỉ thỏa mãn di chúc được lập
thành văn bản và có người làm chứng. Chưa thỏa mãn về nhu cầu công chứng
hoặc chứng thực do quá trình công chứng chưa rõ ràng và chưa đúng với quy định
của pháp luật. Bà Hựu không biết chữ nên bà đã lập di chúc bằng miệng, bà đọc
cho ông Vũ (là người đại diện dòng họ Đỗ) viết di chúc, bà Đỗ Văn Quý là mẹ của
ông Vũ ký tên làm chứng tại thời điểm đó. Sau đó bà Lựu mang di chúc đến cho
ông Thưởng (trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm ký xác nhận. Vậy trong trường
hợp này đã đáp ứng 02 người làm chứng. Tuy nhiên, ông Thưởng không chứng
kiến việc cụ Hựu lập di chúc mà ông chỉ ký xác nhận do bà Lựu mang di chúc đến
nhờ ông ký xác nhận (1 tháng sau khi di chúc được lập). Và việc UBND xã Mai
Lâm ký chỉ là xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung của
di chúc.
 Bên cạnh đó, trong di chúc cần có dấu ấn cá nhân của người lập di chúc, ở đây là
điểm chỉ. Trong bản di chúc này có điểm chỉ của cụ Hựu. Tuy nhiên, qua giám
định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục
cảnh sát kết luận: Dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không
đủ yếu tố giám định. Do đó, chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể hiện
đúng ý chí của cụ Hựu.

11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định của BLDS liên quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ.
 Khoản 3 Điều 655 BLDS 1995 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn
6
bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn”.
 Khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn
bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
 Điều 634 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình
viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh
máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc
phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những
người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản
di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy
định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này”.
 Có thể thấy, quy định về việc lập di chúc ở cả BLDS 1995, 2005, 2015 có nội
dung tương đồng nhau. Tuy nhiên, BLDS 1995 và 2005 quy định về hình thức lập
di chúc của người không biết chữ chưa rõ ràng, cụ thể. Quy định tại hai bộ luật
này chưa chặt chẽ về người làm chứng và quá trình công chứng, chứng thực. Vì
vậy, dễ dẫn đến những rắc rối, mâu thuẫn trong quá trình thực hiện. Rút kinh
nghiệm từ những thiếu sót trước đó thì BLDS 2015 đã có những bổ sung hợp lý,
kịp thời. Cụ thể bổ sung việc “Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc”. Việc quy định như vậy tạo
được sự rõ ràng, minh bạch trong quá trình lập di chúc. Tuy nhiên, để quá trình lập
di chúc của người không biết chữ thêm chặt chẽ và hoàn thiện hơn thì cần bổ sung
thêm phần yêu cầu người làm chứng đi công chứng, chứng thực trong một quãng
thời gian nhất định. Hoặc nếu có thể thì yêu cầu những người làm chứng quay
hình lại quá trình lập di chúc để chắc chắn rằng bản di chúc thể hiện đầy đủ ý chí
của người lập di chúc. Có thể áp dụng trường hợp của di chúc miệng vào trường
hợp này là trong thời hạn 5 ngày phải được công chứng hoặc chứng thực kể từ
ngày lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của chủ thể.

BÀI TẬP 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC


 Tóm tắt: Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao

7
 Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia toàn
bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền phường 5, quận Phú Nhuận cho
năm người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,
Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí). Cụ Quý (vợ cụ
Hương) khởi kiện yêu cầu: tài sản chung vợ chồng ra làm hai phần; 1/2 trị giá căn
nhà bằng hiện vật; 2/3 suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản của ông Hương
bằng hiện vật là phần diện tích nhà đất nối tiếp với phần diện tích được hướng của
bà.
 Tại Bản án dân sự sơ thẩm ngày 11/8/2010, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh quyết định: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cụ Lê Thanh Quý đoài chia
tài sản chung và thừa kế.
 Tại Quyết định kháng nghị ngày 05/08/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử
hủy bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh xét xử sơ thẩm lại.
 Tòa án nhân dân tối cao quyết định: chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao. Hủy bản án sơ thẩm nêu trên và giao hồ sơ của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
 Tóm tắt: Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
 Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y2.
 Bị đơn: Phòng công chứng Năm 1998
 Ông Y và cụ C làm giấy chuyển nhượng đất và hoa màu liên quan tới thửa đất này
với giá 140.000.000 đồng. Tuy không viết giấy biên nhận nhưng có 2 người chứng
kiến việc ông trả tiền cho cụ C. Khi chuyển nhượng, cả 2 đã lập Hợp Đồng mua
bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 08-02-1998 và nộp tại Uỷ
ban nhân dân phường, có giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường.Năm 2009,
ông Y và cụ D xảy ra tranh chấp đối với thửa đất trên. Năm 2013, ông biết Phòng
công chứng M đã công chứng Di chúc của D. Ông D1 được hưởng thừa kế với
thửa đất đó.
 Nhận định của Toà án: Cụ D và cụ C sống với nhau từ năm 1957 nhưng không
đăng ký kết hôn. Năm 1959, cụ mua thửa đất và đổi lấy ruộng ở đồng M. Khoảng
Năm 1969-1970, cụ D sống với cụ N và sinh ra ông D1. Ngày 16-12-2009, cụ C

8
Lập di chúc để lại phần bất động sản tại thửa đất số 38 cho ông D1. Ngày 15-01-
2011, cụ D lập di chúc để lại thửa đất cho ông D1 hoặc nếu được bồi thường thì
ông D1 sẽ nhận. Sau khi công bố di chúc, ông Y biết và khởi kiện yêu cầu tuyên
bố văn bản công chứng bản di chúc vô hiệu. Tuy nhiên, các Hợp đồng uỷ quyền
do ông Y cung cấp chưa hợp pháp vì cụ C đã giao dịch với ông Y khi chưa thoả
thuận với cụ D trong khi thửa đất là tài sản chung của cả hai. Tòa án quyết định
huỷ bỏ Bản án dân sự phúc thẩm và giao hồ sơ xét xử lại.

1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả
lời?
 Cụ Hương đã định đoạt tài sản là oàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn
Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận).
 Đoạn cho câu trả lời: “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho
các con là Nguyên Ngọc Đức, Nguyên Hữu Nghĩa, Nguyên Ngọc Hiêu, Nguyên
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí)”.

2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
 Đoạn của Quyết định số 359 cho thây tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là
tài sản chung của vợ chồng cụ Hương: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có
giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ
Quý.”

3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?
 Tòa án công nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất)
cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
 Đoạn cho câu trả lời: “Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn
Văn Hương có hiệu lực một phần đối với tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên
được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thi Kiều (vợ ông Nguyễn
Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.”

9
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
 Theo tôi, hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là thuyết phục, hợp tình
hợp lý:
+ Về tài sản chung: khi công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền và giá
trị tiền xây dựng là của cụ Hương với cụ Quý, vì cụ Quý và cụ Hương có tạo
lập được bất động sản gồm nhà và đất là tài sản chung của vợ chồng. Căn cứ
khoản 2 điều 219 BLDS 2005: “Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối
tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” Thế nên cụ Quý có quyền đối
với 1/2 tài sản chung của vợ chồng.
+ Về di sản: căn cứ Điều 669 BLDS 2005: “Người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc” vì nội dung phân chia trong Di chúc của ông Hương là
tài sản chung của vợ chồng mà việc lập không có sự thỏa thuận đồng ý của bà
Quý là không đúng, thế nên với tư cách là vợ của người quá cố không có tên
trong di chúc, bà Quý được quyền hưởng hai phần ba suất của một người thừa
kế theo pháp luật.

5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần
tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương.
 Trong trường hợp cụ Quý để lại di chúc nhưng không chia di sản cho cụ hương thì
một phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế theo
pháp luật mà cụ Hương được nhận từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc (Điều 669 BLDS 2005)
 Còn nếu cụ Quý để lại di chúc có chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc có giá
trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm phần di sản cụ Hương được nhận (Điều
631 BLDS 2005)

6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
 Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc không có giá trị pháp lý vì trong thực tiễn xét xử Tòa án
giải quyết theo hướng di sản được xác định từ thời điểm lập di chúc. Như vậy

10
trong trường hợp này di chúc của cụ Hương được công chứng ngày 16/01/2009 mà
đến đầu tháng 4/2009 tài sản mới thuộc sở hữu của cụ Hương thì di chúc của cụ
Hương không có giá trị pháp lý.

7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết?
 Trong phần “Nhận định của Tòa án” của Quyết định 58 có ghi: “Ngoài ra, di sản
của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã
bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân
dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn
được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập
di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”

8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm.
 “..di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38” - Di sản
của cụ D và cụ C để lại cho ông D1 là quyền được hưởng bồi thường bằng tái định
cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất chứ không phải quyền sử dụng
đất vì 21/7/2010 thửa đất số 38 đã bị thu hồi trong khi cụ D và cụ C vẫn còn sống

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà Nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng nêu trên của Tòa giám đốc thẩm.
 “ …di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 của
UBND thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị
thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất Đai nên 2 cụ có
quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1” - Hướng giải quyết của tòa
là hợp lý vì thửa đất số 38 bị thu hồi nên 2 cụ vẫn có quyền lập di chúc định đoạt
giá trị quyền sử dụng đất cho ông D1.

11
BÀI TẬP 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
 Tóm tắt: Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C
tỉnh Phú Thọ về việc thừa kế theo di chúc
 Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H
 Bị đơn: anh Hoàng Tuyết H
 Người có quyền lợi liên quan:
Anh Hoàng Hồng H1
Anh Hoàng Quốc H2
Anh Hoàng Quốc H3
 Nội dung bản án: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời
kì hôn nhân ông bà có tạo lập được khối tài sản chung như biên bản thẩm định
ngày 21/08/2017. Ngày 10/08/2015 ông X có viết một bản di chúc chung cho 2 vợ
chồng với nội dung: nếu ông X chết trước bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà
quản lý sử dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng
H1. Khi ông X chết, anh H, H2, H3 là con đẻ của bà H và ông X không công nhận
di chúc trên là hợp pháp. Nhưng theo lời của của vợ ông X, trong quá trình viết di
chúc ông X hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, không bị ép buộc cũng như theo căn
cứ vào kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ thì
bản di chúc do cùng một người viết ra. Vì vậy di chúc trên là hợp pháp và được
công nhận theo quy định của pháp luật.

1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?
 Trích bản án: “Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ
chồng, Trong thời kì hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên
bản thẩm định ngày 21/8/2018. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di
chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015”

2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời?
 Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015

12
 Trích bản án: “Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 BLDS 2015. Xử:
Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị h viết ngày
10/8/2015 là hợp pháp”

3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của
vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015
 Hướng giải quyết của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ
với BLDS 2015 là hợp lý tuy BLDS không quy định cụ thể về trường hợp này
 Nội dung của di chúc không vi phạm đến điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 630 BLDS 2015
 Ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn sáng suốt tại thời điểm lập. Điều
này phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015
 Di chúc này nhằm định đoạt tài sản chung của vợ chồng ông X, bà H. Điều này là
phù hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền định đoạt
tài sản của mình
→ Vậy, tuy BLDS 2015 không đề cập đến quy định về di chúc chung của vợ chồng
nhưng do thỏa các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được quy định nên
việc Tòa án công nhận di chúc chung của ông X, bà H là hợp lý

BÀI TẬP 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỪA KẾ


 Tóm tắt: Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau
 Nguyên đơn:
Bà Lưu Tuyết M
Bà Lưu Thị P; Đại diện hợp pháp của bà Lưu Thị P: Bà Lưu Tuyết M
Bà Lưu Phương D; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà M, bà P, bà D:
Luật sư Võ Thanh T; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà M: Ông
Nguyễn Thanh Đ.
 Bị đơn: Bà Lưu Thị L
 Nội dung: Ông Lưu Văn C và bà Lê Thị V (đều đã chết) có 12,936 m2 đất, tọa lạc
tại ấp T, xã K, Huyện T, tỉnh Cà Mau là cha mẹ của các nguyên đơn và bị đơn. 10
công đất ở, đất vườn và đất trồng lúa do ông C đứng tên trên giấy chứng nhận

13
quyền sử dụng đất, còn 06 công đất lá thì ông C chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Nay bà M, P, D yêu cầu Tòa án xem xét chia thừa kế phần đất
lá. Ông C có để lại tờ di chúc lập ngày 21/01/2011 (AL), khi ông C lập di chúc bà
L là người chứng kiến. Tại di chúc trên, bà L được chia 05 công đất ruộng và 06
công đất trồng lá để thờ cúng, 05 công còn lại để cho bà D canh tác. Mặc dù di
chúc của ông C chưa tuân thủ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn thể hiện
được nguyện vọng của ông C giao phần đất lá cho bà L dùng vào việc thờ cúng.
Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D, bà Lưu Thị L
chia thừa kế phần đất ruộng với chiều ngang 6m, dài 40m, tổng diện tích 240 m2
(100 m2 đất ở) có cạnh giáp với phần đất của bà Lưu Phương D chiều dài 40 m,
các cạnh còn lại giáp với phần đất của bà Lưu Thị L. Bà L được sử dụng toàn bộ
phần đất còn lại là 6.634 m2. Bên cạnh đó, Tòa cho rằng phần đất lá là tài sản
chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu Phương D, bà Lưu Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu
Tuyết M nên không chấp nhận yêu cầu chia phần đất cho các đồng thừa kế và giao
phần đất diện tích 4.582,3 m2 cho bà Lưu Thị L quản lý, sử dụng để thờ cúng…

1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
 Di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi thỏa các điều kiện:
+ Thứ nhất: Di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó
và còn thừa lại
+ Thứ hai: Người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng
+ Thứ ba: Di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản không
chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người
quản lý di sản.
 Căn cứ pháp lý Điều 670 BLDS 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người
đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những

14
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao nhận di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng…
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng.”
 Hay căn cứ Điều 645 BLDS 2015:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng
thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ
định trong di chúc để quản lý thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định
không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa
kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”

2. Đối với phần đất có diện tích 4.582,3 m2, Tòa án coi đây là di sản dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời ?
 Đối với phần đất có diện tích 4.582,3 m2 được Tòa án coi là di sản dùng vào việc
thờ cúng
 Được nêu rõ trong đoạn: “Thực tế bà L - hiện đang thờ cúng cụ C và cụ V, bà H
cũng thừa nhận đất lá là đất dùng để thờ cúng. Mặc dù di chúc của cụ C chưa
tuân thủ theo quy định của pháp luật nhưng theo di chúc này vẫn thể hiện nguyện
vọng của cụ C giao phần đất cho bà L dùng vào việc thờ cúng nên không chấp

15
nhận kháng cáo của bà M, bà D, bà P về yêu cầu chia phần đất này. Di sản phần
đất này trở thành tài sản chung của bà L, bà H, bà D, bà P, bà M, mọi giao dịch
chuyển nhượng, thế chấp... liên quan đến phần đất này phải có sự đồng ý của các
đồng thừa kế. Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng
thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng”.

3. Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa mãn không
trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
 Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng chưa được thỏa mãn trong
vụ việc đang nghiên cứu.
 Theo nhận định của Tòa án, tại đoạn [2]: Di chúc của cụ C chưa tuân thủ theo quy
định của pháp luật nhưng theo di chúc này vẫn thể hiện nguyện vọng của cụ C
giao phần đất cho bà L dùng vào việc thờ cúng.
 Theo lời khai của bà L thì bà thống nhất với nguyên đơn là cha mẹ bà sinh 08
người con, hiện nay còn sống 05 người, có 03 người cháu con của Lưu Lệ H như
các nguyên đơn trình bày. Cha bà có để lại tờ di chúc lập ngày 21/01/2011 (AL),
khi cha bà lập di chúc, bà là người chứng kiến, các chị em còn lại không có ai
chứng kiến. Tại di chúc trên, bà L được chia 05 công đất ruộng và 06 công đất
trồng lá.
 Cơ sở pháp lý: Các điều khoản cho thấy di chúc hợp pháp:
+ Khoản 3 Điều 626 BLDS 2015: Dành một phần tài sản trong khối di sản để di
tặng, thờ cúng.
+ Khoản 5 Điều 626 BLDS 2015: Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di
sản, người phân chia di sản.
+ Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015: Trường hợp người lập di chúc để lại một phần
di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và
được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện thờ
cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo
thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
 Cụ C chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về việc lập di chúc tại các điều
khoản:

16
+ Điều 634 BLDS 2015: “Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng
phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.”
+ Nhưng cụ C đã không tuân thủ đúng khoản 1 và khoản 2 Điều 632 của BLDS
2015: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người
sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di
chúc; 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3 m2 có thuyết
phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Điều 645 BLDS 2015: Di sản dùng vào việc thờ cúng
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực
hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những
người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác
quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng
để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản
của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.
 Khoản 1, 2 Điều 632 BLDS 2105: Người làm chứng cho việc lập di chúc
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.”
→ Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 632 BLDS 2015 thì di chúc của cụ C chưa tuân thủ
theo quy định của pháp luật khi bà L vừa là người thừa kế theo di chúc của cụ C
vừa là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc nhưng lại
làm chứng cho việc lập di chúc. Tuy nhiên, trên thực tế bà L có thờ cúng cụ C và
cụ V. Đồng thời, theo Điều 645 BLDS thì di chúc này đáp ứng đủ các điều kiện và

17
vẫn thể hiện nguyện vọng của cụ C giao phần đất cho bà L dùng vào việc thờ cúng
nên không được chia thừa kế.
→ Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3 m2 là thuyết
phục vì dù di chúc vi phạm điều kiện về hình thức nhưng để tôn trọng quyết định
của cụ C, để phần đất lá cho việc thờ cúng thì Tòa đã không chia thừa kế.

5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3 m2 trở thành tài sản chung của
những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Theo khoản 1 Điều 645 BLDS 2015: “Trường hợp người lập di chúc để lại một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và
được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng”. Như vậy có thể thấy, chỉ khi nào người để lại di sản có định đoạt mục đích
sử dụng tài sản này trong di chúc để thờ cúng thì mới xuất hiện loại di sản này. Vì
vậy có thể thấy Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3 m2 trở thành tài sản
chung của những người thừa kế rất thuyết phục.

6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp...liên quan đến phần
đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
 Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp…liên quan đến phần
đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” là hợp tình hợp lý. Vì căn cứ vào
Điều 645 BLDS 2015 thì nếu người được chỉ định quản lý di sản không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những
người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác
quản lý để thờ cúng. Vì thế mà mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp…liên quan
đến phần đất này đều phải có sự thỏa thuận, thông qua, nhất trí giữa các đồng thừa
kế, vì đây là tài sản chung không phải riêng của một cá nhân nào.

7. Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các
đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ
cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Nhận định của Tòa án như vậy rất thuyết phục và hợp lý. Do di sản thờ cúng là tài
sản chung của các đồng thừa kế và người quản lý di sản có trách nhiệm thờ cúng,
trông nom, canh tác, bà L quản lý di sản thờ cúng do sự tín nhiệm của ông C nên

18
bà L nên thực hiện thật tốt trách nhiệm thờ cúng. Trường hợp bà L không thực
hiện tốt sự tín nhiệm của các đồng thừa kế cũng như của ông C thì các đồng thừa
kế có thể chuyển quyền quản lý di sản cho người khác căn cứ vào khoản 1 Điều
645 BLDS 2015: “...nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc
không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền
giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.”

8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
 Việc quy định việc để lại di sản dùng để thờ cúng trong Bộ luật Dân sự 2015 có ý
nghĩa vô cùng lớn trong việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Việt Nam:
+ Tưởng nhớ tổ tiên: Thờ cúng là một phần văn hóa truyền thống của người dân
Việt Nam qua bao đời nay. Việc thờ cúng là việc làm thể hiện sự tôn trọng và
kính trọng đối với tổ tiên.
+ Duy trì và góp phần phát triển văn hóa dân tộc: Mỗi vùng miền sẽ có cách thể
hiện sự kính trọng tổ tiên khác nhau, nhưng nhìn chung thì thờ cúng vẫn chiếm
đa số. Nên khi tạo điều kiện cho việc để lại di sản dùng để thờ cúng cũng sẽ
góp phần duy trì được cái văn hóa tốt đẹp này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


⁃ Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Phú Thọ
⁃ Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
⁃ Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
⁃ Bộ luật Dân sự 1995 (Luật số 44-L/CTN) ngày 28/10/1995
⁃ Bộ luật Dân sự 2005 (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005
⁃ Bộ luật Dân sự 2015 (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015
⁃ Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
⁃ Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
⁃ Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

19

You might also like