You are on page 1of 30

BÀI THẢO LUẬN THỨ NĂM: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ ................................................................................... 4


I. Tóm tắt bản án và các quyết định, án lệ ............................................................... 4
1. Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân
thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc......................................................................... 4
2. Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao: 4
II. Trả lời câu hỏi: ..................................................................................................... 5
Câu 1: Ở pháp luật nước ngoài, di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết về chủ đề này. ............ 5
Câu 2: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời. ........................................................................ 6
Câu 3: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có phải là di sản không? Vì sao? ............ 7
Câu 4: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời. .................................................................................... 8
Câu 5: Trong bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu
trả lời. ........................................................................................................................ 9
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lí nêu trên của Toà án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. ................. 9
Câu 7: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao? .................................................................................. 10
Câu 8: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao? .............................................................. 11
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. ..................................... 11
Câu 10: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?........................................................................................................ 11
Câu 11: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất ở trên là bao nhiêu? Vì sao? ....................................................................... 12
Câu 12: Việc Toà án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không?
Vì sao? .................................................................................................................... 12

1
Câu 13: Việc toà án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì
sao? ......................................................................................................................... 13
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN .................................................................................. 14
I. Tóm tắt bản án và các quyết định, án lệ ............................................................. 14
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La ............................................................................................................................ 14
II. Trả lời câu hỏi..................................................................................................... 15
Câu 1: Trong Bản án số 11, Toà án xác định ai là người có quyền quản lí di sản
của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không? Vì sao? ........... 15
Câu 2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản
lí di sản không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời. ........................................................ 15
Câu 3: Trong Bản án số 11, việc Toà án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý
di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .................................. 16
Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn đạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ............... 16
Câu 5: Khi là người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời. ......................................................................................... 17
Câu 6: Trong Quyết định số 147, Toà án xác định người quản lí không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. ................................................................................................... 18
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ .................................... 19
I. Tóm tắt bản án và các quyết định, án lệ ............................................................. 19
Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu
cầu choa di sản thừa kế là bất động sản .................................................................. 19
II. Trả lời câu hỏi..................................................................................................... 20
Câu 1: Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di
sản không? .............................................................................................................. 20
Câu 2: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam. ................. 21
Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời? ............................ 22
Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? ..... 23
Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở của văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? . 23
2
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên. ............................ 24
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU............................................................................ 27
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về
thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020 đến nay.
.................................................................................................................................... 27
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên ............................ 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 29
Nghiên cứu ................................................................................................................. 29
Tài liệu đọc thêm ........................................................................................................ 29

3
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ

I. Tóm tắt bản án và các quyết định, án lệ

1. Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành
phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc

Nguyên đơn là ông Trần Văn Hoà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp về thừa kế tài sản với bị đơn là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương.Tài
sản ông Hoà và bà Mai (vợ ông Hoà) gồm 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và
một lán bán hàng xây dựng năm 2006 trên diện tích đất 169,5 m2 (trong đó 84 m2 đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn 85,5 m2 còn lại thì chưa nhưng hộ
ông Hoà đã sử dụng ổn định, ranh giới các hộ xung quanh đều rõ ràng và không có tranh
chấp, không thuộc diện phải quy hoạch di dời). Anh Nam, chị Hương yêu cầu xác định
diện tích đất 85,5 m2 là tài sản chung của gia đình nhưng Hội đồng xét xử không chấp
thuận. Đối với diện tích đất tăng 85,5 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, Hội đồng xét thấy đây vẫn là tài sản của ông Hoà, bà Mai, chỉ có điều là đương sự
phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tài sản được hình thành trong thời gian
hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hoà, bà Mai. Do trước khi chết bà Mai không để
lại di chúc nên di sản của bà Mai chia cho mỗi người được hưởng 1/3 di sản thừa kế của
bà Mai. Diện tích đất 38,4 m2 và 47,1 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì ông Hoà và anh Nam sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước
sẽ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận. Chị Hương
được quyền sở hữu số tiền cho thuê nhà chị đang quản lý và anh Nam phải thanh toán
chênh lệch về tài sản cho ông Hoà và chị Hương.

2. Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, gia đình Phùng Văn N (gọi tắt: ông
N), Phùng Thị G (gọi tắt: bà G) sinh được sáu người con là Phùng Thị H1, Phùng Thị
N1, Phùng Thị P, Phùng Thị H2, Phùng Văn T và Phùng Thị N2. Vợ chồng ông N, bà
G tạo lập và sinh sống trên một mảnh đất diện tích 398 m², Năm 1984, ông N chết, không
để lại di chúc, mảnh đất được sử dụng để sinh sống bởi bà G và vợ chồng con trai là anh
T và Phùng Thị H3. Năm 1991, bà G sang nhượng một phần mảnh đất cho Phùng Văn
K, sinh sống trên phần đất còn lại. Sau đó, bà G liên lạc với con gái mình là chị H1, bàn
4
bạc để lại một phần đất cho chị H1 dưới dạng di chúc trước khi qua đời năm 2010. Thời
gian sau, chị H1 yêu cầu tiến hành di chúc, đòi mảnh đất được mẹ chia theo di chúc, tuy
nhiên vợ chồng anh T là người đang sử dụng đã không đồng ý. Gia đình anh chị em ruột
chia thành hai bên, bốn chị em cùng ủng hộ chị H1, trong khi em út ủng hộ anh trai T.
Từ đây, ngày 02 tháng 04 năm 2011, nguyên đơn Phùng Thị H1, Phùng Thị N1, Phùng
Thị P, và Phùng Thị H2 khởi kiện bị đơn Phùng Văn T, đệ đơn gửi Tòa án nhân dân
thành phố Vĩnh Yên, về việc yêu cầu đòi di sản thừa kế. Vụ án được giải quyết sơ thẩm
rồi phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, giám đốc thẩm tại Tòa Dân sự Tòa
án nhân dân tối cao để đi đến nhận định cuối cùng.

II. Trả lời câu hỏi:

Câu 1: Ở pháp luật nước ngoài, di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết về chủ đề này.
Ở pháp luật nước ngoài, di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố. Ví dụ:
- Pháp luật Anh: Theo luật Anh, di sản1 bao gồm tất cả tài sản và quyền lợi của người
chết, bao gồm cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản. Người thừa kế 2 có trách nhiệm
thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ này trước khi phân chia di sản cho các người
thừa kế khác.
• Điều 1 Đạo luật Quản lý Di sản 1975: "Di sản của một người được quản lý theo di
chúc của người đó, nếu có, và nếu không, theo các quy định của luật thừa kế." Điều
này có nghĩa là di sản sẽ được phân chia theo di chúc nếu người chết có lập di chúc
hợp lệ. Nếu không có di chúc, di sản sẽ được phân chia theo quy định của luật thừa
kế.
• Điều 25 Đạo luật Quản lý Di sản 1975: "Người thừa kế có nghĩa vụ thanh toán tất
cả các khoản nợ hợp lệ của người chết và các khoản chi phí tang lễ hợp lý." Điều
này có nghĩa là người thừa kế phải thanh toán tất cả các khoản nợ của người chết,
bao gồm cả các khoản vay, tiền thuế và các khoản thanh toán khác. Họ cũng phải
chịu trách nhiệm chi trả chi phí tang lễ hợp lý.

1
Di sản: estate trong luật Anh
2
Người thừa kế: executor trong luật Anh
5
- Pháp luật Pháp: Theo luật Pháp, di sản3 bao gồm cả tài sản và nghĩa vụ của người
chết. Người thừa kế 4có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ của người
chết trong phạm vi giá trị di sản mà họ nhận được.
• Điều 724 Bộ luật Dân sự Pháp: "Di sản bao gồm tất cả tài sản, quyền lợi và nghĩa
vụ của người chết." Điều này có nghĩa là di sản bao gồm tất cả tài sản, quyền lợi
và nghĩa vụ của người chết, bao gồm cả các khoản nợ.
• Điều 802 Bộ luật Dân sự Pháp: "Người thừa kế có trách nhiệm thanh toán các
khoản nợ của người chết trong phạm vi giá trị di sản mà họ nhận được." Điều này
có nghĩa là người thừa kế chỉ chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của người
chết trong phạm vi giá trị di sản mà họ nhận được. Họ không phải chịu trách nhiệm
thanh toán các khoản nợ vượt quá giá trị di sản.
- Giả sử:
Ông A qua đời, để lại di sản trị giá 100.000 bảng Anh.
Ông A có một khoản vay chưa thanh toán trị giá 50.000 bảng Anh.
Ông A có hai người con, B và C.
• Theo Luật Anh:
B và C sẽ thừa kế di sản của ông A, mỗi người nhận được 50.000 bảng Anh.
B và C sẽ có trách nhiệm thanh toán khoản vay 50.000 bảng Anh của ông A.
• Theo Luật Pháp:
B và C sẽ thừa kế di sản của ông A, mỗi người nhận được 50.000 bảng Anh.
B và C sẽ chỉ chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của ông A trong phạm vi
50.000 bảng Anh mỗi người.

Câu 2: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không?
Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”
Di sản có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố. Theo Điều 615 BLDS 2015 quy
định về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:

3
Di sản: succession trong Luật Pháp
4
Người thừa kế: héritier trong Luật Pháp
6
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm
vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Câu 3: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có phải là di sản không? Vì sao?
Do câu hỏi không nói rõ nguyên nhân tại sao di sản đó bị thay thế, mục đích
thay thế đó là gì, vì vậy tôi xin được chia ra các trường hợp như sau:
- Thứ nhất, Nếu việc di sản đó được thay thế bởi nguyên nhân khách quan:
• Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân con người không biết trước,
không lường trước được hậu quả, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Ví
dụ: hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, bão tố hay các thảm họa tự nhiên khác…
• Những yếu tố này tác động vào di sản thừa kế làm cho nó bị hư hỏng và thay
vào đó là di sản mới, di sản cũ không còn giá trị hiện thực. Ví dụ Ông A chết
để lại di sản thừa kế là ngôi nhà, nhưng do hỏa hoạn làm cho ngôi nhà thiêu
cháy rụi hoàn toàn và không còn giá trị sử dụng. Trước thời điểm mở thừa kế
ngôi nhà khác được xây dựng thay thế ngôi nhà này. Khi đó ngôi nhà mới này
sẽ được coi là di sản thừa kế mà ông A để lại. Trường hợp này để đảm bảo
quyền lợi của những người thừa kế tài sản mới thay thế cho di sản thừa kế đó
sẽ có hiệu lực pháp luật, phần tài sản mới này sẽ được chia theo pháp luật,
đồng thời tài sản là ngôi nhà đó cũng sẽ được chia theo quy định của pháp
luật về thừa kế
- Thứ hai, Được thay thế bởi nguyên nhân chủ quan:
• Nguyên nhân chủ quan được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố
con người. Trường hợp này xác định thay thế vì mục đích gì, đó là nhằm
chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế cũ đó hay nhằm mục đích khác. Sự thay thế
7
do tự bản thân cá nhân nào muốn thay thế hay đó là sự thay thế được sự đồng
thuận bởi tất cả những người thừa kế và được pháp luật thừa nhận. Nếu nhằm
mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi
một tài sản khác khi đó tài sản mới này sẽ không được coi là di sản thừa kế.
• Tại thời điểm mở thừa kế di sản được quy định còn tồn tại thì di sản đó được
chia theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, nếu vì lý do chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà
không có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được coi là di sản
thừa kế và người làm thất thoát di sản có trách nhiệm trả lại phần giá trị làm thất thoát
để chia thừa kế5.

Câu 4: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố có cần phải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ
sở pháp lí khi trả lời.
Câu trả lời là có. Theo điều 612 BLDS 2015 : “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Vậy
di sản phải là tài sản của người chết.
Theo điều 105 BLDS 2015 :
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Đất đai được coi là bất động sản 6
Theo khoản 1 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013 có quy định: “Đăng ký đất đai là bắt buộc
đối với người sử dụng đất và người được giao đất để quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu”.
 Vậy để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố cần phải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

5
LS Thanh Hương. “Tài sản được thay thế mới có được coi là di sản không?” Wikipedia,
https://luatminhgia.com.vn/tai-san-duoc-thay-the-moi-co-duoc-coi-la-di-san-khong.aspx.
6
Theo Điều 107 BLDS 2015
8
Câu 5: Trong bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu
trả lời.
Trong bản án số 08, Toà án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản. Đoạn cho câu trả lời là: Tại phiên toà đại diện
Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp
tục tạm giao cho ông Hoà có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên phần đề nghị này của đại diện
Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận mà Hội đồng xét xử nhận thấy,
qua kết quả xác minh tại UBND, Phòng Tài nguyên và môi trường, Chi cục thuế Nhà
nước thành phố thể hiện: diện tích đất này hộ ông Hoà đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều
năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp, không thuộc
diện đất quy hoạch phải di dời, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy đây vẫn là tài sản của ông Hoà,
bà Mai, chỉ có điều đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không
xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lí nêu trên của Toà án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hoàn toàn thuyết phục.

- Thứ nhất, theo điểm b tiểu mục 1.3 phần II của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP7 thì
“Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các
loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản
là nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với quyền sử dụng đất đó thì: Trong trường hợp
đương sự không có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử
dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để
giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với

7
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2004
9
quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó
cho đương sự để Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền
sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của
pháp luật về đất đai”
- Song song, trong phần nhận định của Toà án, kết quả xác minh tại UBND phường Đống
Đa, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố, Chi cục thuế Nhà nước thành phố Vĩnh
Yên thể hiện: Gia đình ông Hoà đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên
một phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này hộ ông Hoà đã
quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng,
không có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm
tiếp giáp với phía trước ngôi nhà và lán bán hàng của hộ ông Hoà, giáp đường Nguyễn
Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát về việc cho
rằng diện tích đất tăng 85,5m2 không được coi là di sản thừa kế. Ngoài ra, từ kết quả
xác minh của UBND phường thì có thể ngầm hiểu họ cũng công nhận quyền sử dụng
đất của gia đình ông Hoà. Có ý kiến cho rằng: “Về bản chất “cái” được coi là di sản có
giá trị tài sản là quyền sử dụng đất hợp pháp, chứ không phải giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực ra chỉ là một hình thức pháp lý, Nhà
nước công nhận một ai đó có quyền sử dụng đất hợp pháp, chứ nó không phải là căn cứ
xác lập quyền sử dụng đất”. Do đó, nếu có chứng cứ chứng minh người quá cố là người
sử dụng hợp pháp đích thực quyền sử dụng đất thì nên coi đó là di sản. Vì đã có chứng
cứ chứng minh ông Hòa, bà Mai là người sử dụng đất hợp pháp, do đó, Tòa án đã coi
diện tích đất tăng 85,5 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản
nếu các đương sự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

Câu 7: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Phần di sản của Phùng Văn N là 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2
đất chung của vợ chồng. Sở dĩ, Tòa án xem xét phần di sản của ông Phùng Văn N trong
phần tài sản chung của vợ chồng ông có diện tích 398 m2 chỉ là 133,5 m2 vì Tòa án cho
rằng việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng
Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có

10
lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Từ đó xác định vì
mục đích chăm lo đời sống cho gia đình nên phần tài sản bà Phùng Thị G bán cho ông
K được tính vào phần tài sản chung của vợ chồng mặc dù thực tế thời điểm bà G định
đoạt phần tài sản chung này thì ông Phùng Văn N đã chết. Việc quyết định của Tòa án
như vậy là hợp tình và hợp lý.

Câu 8: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia vì việc bà G chuyển nhượng đất cho ông K các con bà
đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà G có lời khai bà G bán
đất để lo cuộc sống của bà và các con; đồng thời, ông K cũng đã được cơ quan nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà G đã
đồng ý để bà G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông K. Nhận định của Toà
án cho rằng Toà án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất cho bà G đã bán cho ông K
vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Do đó, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho
ông K không được coi là di sản để chia.

Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Theo em, hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã
chuyển nhượng cho ông K là hợp lý. Vì ông K đã mua lại mảnh đất nói trên vào năm
1991 từ bà G mà không có bất kỳ sự phản đối hay tranh chấp nào từ phía các con bà G
mặc dù họ cũng đã được biết về việc này và phần tiền từ việc chuyển nhượng này cũng
đã được các con bà G xác nhận là dùng để lo cho gia đình. Bên cạnh đó thì ông K cũng
đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất này
nên phần đất này không được xem là di sản để chia của gia đình bà G là hợp lý.

Câu 10: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán mảnh đất đó không nhằm mục đích lo cho cuộc sống
của các con mà sử dụng tiền thu được cho mục đích cá nhân của bà, thì số tiền đó không
11
thể coi là di sản để phân chia. Lý do là vì phần tài sản chung của ông N và bà G là 398m2
đất, và khi không có di chúc của ông N, tài sản chung sẽ được chia đều theo quy định
của pháp luật.8 Bà G và các con chung của bà được phân loại là hàng thừa kế thứ nhất
theo quy định tại khoản 1, Điều 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015: "Thừa kế hàng đầu
bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, me nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết",
do đó, bà G và các con chung của bà có quyền thừa kế và có quyền bằng nhau đối với
tài sản ông N để lại. Trong trường hợp bà G tự ý bán 131m2 đất cho ông K mà không
có sự đồng ý của các con, và bà G sử dụng số tiền thu được cho mục đích cá nhân, có
thể xem như bà G đã bán một phần của tài sản chung của vợ chồng (196m2). Giao dịch
này không ảnh hưởng tới phần thừa kế của các đồng thừa kế khác, và di sản của ông N
(196m2) sẽ được chia đều cho bà G và các con. Điều này hoàn toàn hợp lý vì bà G có
quyền quyết định về phần tài sản của mình trong tài sản chung của hai vợ chồng, như
quy định tại Điều 218, Khoản 1 của Bộ luật Dân sự năm 2015: "Mỗi chủ sở hữu chung
theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình." Do đó, có thể khẳng định
rằng, việc bà G bán một phần của tài sản chung của vợ chồng (196m2) để sử dụng cho
mục đích cá nhân không vi phạm pháp luật và không thể coi là di sản để phân chia, vì
số tiền từ giao dịch này đã được sử dụng cho lợi ích cá nhân (không gây ảnh hưởng đến
lợi ích của các đồng thừa kế khác).

Câu 11: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất ở trên là bao nhiêu? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà trong diện tích đất trên là 133,5m2
ứng với 267m2 trong khối tài sản chung của vợ chồng. Vì 267m2 đứng tên bà Phùng
Thị G, được hình thành trong thời gian hôn nhân, nên phải được xác định là tài sản chung
của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Bà G chỉ có quyền định
đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất thuộc tài sản chung của vợ chồng
bà. Do đó, di sản của bà G để lại là ½ khối tài sản (133,5m2).

Câu 12: Việc Toà án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2
có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là
không thuyết phục vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là

8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014


12
267m2 :2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ theo điểm a
khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần mà bà G nhận được
là: 133,5:7 = ~19,07m2. Vậy trên thực tế, phần di sản mà bà G để lại (trừ đi phần diện
tích bà cho chị H1) là: 133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 = 62,57m2. Đây không phải là nội
dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay quanh việc công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế
chuyển nhượng.

Câu 13: Việc toà án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại”
có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là
không thuyết phục. Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp luật,
đáng ra phải được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức bao gồm
cả chị Phùng Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di sản theo di
chúc không hề ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án quyết định chỉ chia
cho 05 người con còn lại là không đảm bảo quyền lợi cho chị Phùng Thị H1. Đây không
phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL. Vì nội dung của Án lệ số 16 nằm ở đoạn 2
phần Nhận định của Tòa án, là về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa
kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã
được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tức là về việc bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng
một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K.

13
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN

I. Tóm tắt bản án và các quyết định, án lệ

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La
- Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H
- Bị đơn: Anh Phạm Tiến N
- Nội dung: Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Tiến H và bị đơn
Phạm Tiến N là: “Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế”
• Bố mẹ của nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị T khi còn
sống có tạo dựng được một khối tài sản gồm diện tích 311m2 đất và 01 ngôi nhà gỗ
4 gian; diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà
Đoàn Thị T tại tiểu khu C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Năm 1994,
ông Đ chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà đều không để lại di chúc đối với
khối di sản thừa kế nêu trên và không giao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai. Các
thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản lý khối di sản của ông Đ, bà T.
Khi anh H được sự ủy quyền của các chị em trong gia đình, đã tiến hành sửa chữa,
tôn tạo lại ngôi nhà trên đất; thì bị đơn anh Phạm Tiến N là cháu của ông Đ, bà T
ngăn cản, không cho làm với lý do trước khi đi chấp hành án, anh N đã được bố đẻ là
ông Phạm Tiến T giao cho quản lý khối di sản của ông Đ bà T, nên anh N có trách
nhiệm trông coi, quản lý khối di sản này. Cả anh H và anh N đều không có yêu cầu
chia di sản thừa kế của ông Đ, bà T mà chỉ tranh chấp về quyền quản lý khối di sản
của ông bà.
• Quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La: chấp nhận một phần kháng cáo của
bị đơn anh Phạm Tiến N; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H, giao
cho anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà
Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số
0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại tiểu khu C, thị
trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La.

14
II. Trả lời câu hỏi

Câu 1: Trong Bản án số 11, Toà án xác định ai là người có quyền quản lí di sản của
ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Bản án số 11, tại phần nhận định Toà án có nêu rõ rằng : “ Quá trình giải
quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất đều nhất trí
giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Xét thấy, các ông bà
Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự; quyết định trên
cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di
sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.” Vì vậy, ông Phạm Tiến H là người có quyền
quản lý di sản của ông Đ và bà T.
Căn cứ vào Điều 616 BLDS 2015 cho thấy :
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế
chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản
tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di
sản.

3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quản lý.”.

Ông Phạm Tiến H đều được những người còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất nhất trí giao
việc quản lý khối di sản của ông Đ và bà T nên việc xác định ông H có quyền quản lý
di sản của ông Đ và bà T là hợp lý.

Câu 2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản
lí di sản không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án không phải là người
quản lý di sản. Tại phần nhận định, Toà án có nhận định rằng năm 2012, sau khi bà T
chết, ông Thiện là người trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của
ông Đ và bà T. Khi ông Đ, bà T chết không để lại di chúc; việc quản lý tài sản của ông

15
T không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Theo BLDS: “Trường hợp
di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người
quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản
đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.” 9 . Vì vậy các đồng
thừa kế chưa cử được người quản lý di sản, nên ông Thiện trước khi chấp hành án vẫn
chưa là người quản lý di sản.

Câu 3: Trong Bản án số 11, việc Toà án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý
di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản là hoàn toàn thuyết
phục, thỏa đáng, phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự.
- Bởi vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 (tương ứng là Khoản 1 Điều
638 BLDS 2005) thì “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc
hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.”
- Trong trường hợp này, do ông Đ và bà T không để lại di chúc nên không thể xác định
việc chỉ định người quản lý di sản theo di chúc là ai, cho nên người quản lý di sản sẽ
xác định theo hướng người quản lý di sản là người được những người thừa kế thỏa
thuận cử ra. Như trong phần NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN của Bản án số 11 đã có đề
cập, những người thừa kế hợp pháp của ông Đ và bà T là các ông bà Hiệu, Liền, Nhi,
Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự; đều nhất trí đồng ý quyết định
cử ra người đại diện quản lý di sản của ông Đ và bà T là anh Phạm Tiến H dựa trên
cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Vì thế cho nên, việc Tòa án xác định anh
Phạm Tiến H là người quản lý di sản do ông Đ và bà T để lại là hoàn toàn hợp lý,
thuyết phục, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự

Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn đạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản thì có quyền tôn tạo, tu sửa lại
di sản như trong Bản án số 11, tuy nhiên phải được những người thừa kế đồng ý bằng
văn bản. Tài sản có nguy cơ bị hư hỏng, mất giá trị nếu không được tu sửa; khi đó
người quản lý thực hiện nghĩa vụ của mình là bảo quản di sản sẽ phải tiến hành sửa

9
Căn cứ vào khoản 2 Điều 616 BLDS
16
chữa tài sản để tránh mất mát. Tương tự như trong Bản án số 11, anh Phạm Tiến H tu
sửa, tôn tạo lại căn nhà đã cũ dựa trên sự ủy quyền của các chị em trong gia đình. Do
vậy, khi thực hiện nghĩa vụ bảo quản di sản thì người quản lí di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản nhằm đảm bảo trạng thái của di sản, tuy nhiên việc này phải được sự
đồng ý của những người thừa kế thể hiện bằng văn bản.
- Cơ sở pháp lý: “…Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố,
thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những
người thừa kế đồng ý bằng văn bản; …”10

Câu 5: Khi là người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản trong trường hợp bản thân không thể tiếp tục việc quản lí di sản
mà phải thông qua một người khác, việc này cũng cần sự đồng ý của người ủy người
ủy quyền, nghĩa là những người thừa kế. Trong Bản án số 11 ông Thiệu giao lại cho
con trai quyền quản lý di sản vì ông đang chấp hành án nên không thể đảm nhiệm công
việc của người quản lý di sản, vì vậy cần ủy quyền cho con trai để đảm bảo di sản được
quản lý, tuy nhiên trên thực tế, ông Thiệu tại thời điểm đó không phải là người được ủy
quyền trên văn bản là người quản lý di sản mà là ông H, hơn nữa việc ông Thiệu ủy
quyền cho con trai chưa có sự đồng ý của những người đồng thừa kế, do vậy, trường
hợp của ông Thiệu theo Bản án số 11 không có quyền giao lại cho người khác quản lí di
sản. Tóm lại, Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản khi thỏa mãn các điều kiện của Điều 564 BLDS 2015:
“1. Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây:
a) Có sự đồng ý của bên ủy quyền;
b) Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
2. Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
3. Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu.”

10
Căn cứ Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015
17
Câu 6: Trong Quyết định số 147, Toà án xác định người quản lí không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là có thuyết phục.
- “Thửa 525 nêu trên là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng trong thời
kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần diện tích
đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ không có quyền định đoạt. Tuy nhiên,
ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi khi không được sự đồng ý của
bả Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất của ông Ngót là vì phạm quy định tại điểm
b Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015: “Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng
cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được
những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”
- Như vậy, ông Nhỏ là người quản lý không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho
người khác qua di sản, không có quyền tự định đoạt di sản nếu không có sự đồng ý
của chủ di sản.

18
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

I. Tóm tắt bản án và các quyết định, án lệ

Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu
cầu choa di sản thừa kế là bất động sản
- Nguyên đơn: ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông
Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1. Người đại diện cho các đồng nguyên
đơn là bà Cấn Thị N2;
- Bị đơn: cụ Nguyễn Thị L, ông Cấn Anh C. Người đại diện cho các đồng bị đơn theo
ủy quyền là ông Lê Hồng L.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: gồm 07 người.
- Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 – Thời hiệu thừa kế;
- Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990 – Thời hiệu khởi kiện về thừa
kế.
- Nội dung vụ án:

• Cụ Cấn Văn K và cụ Hoàng Thị T sinh được 8 người con gồm các ông, bà: Cấn
Xuân V, Cấn Thị N1, Cấn Thị N2, Cấn Thị M1, Cấn Thị T1, Cấn Thị H, Cấn
Xuân T, Cấn Văn S (chết năm 2008) có vợ là bà Nguyễn Thị M và hai con là Cấn
Thùy L và Cấn Hoàng K.
• Năm 1972 cụ T chết. Năm 1973, cụ K kết hôn với cụ Nguyễn Thị L sinh được 4
người con là các ông, bà: Cấn Thị C, Cấn Thị M2, Cấn Anh C và Cấn Thị T2.
• Sinh thời cụ K, cụ T tạo lập được 612m2 đất, trên đất có 2 căn nhà 3 gian, tọa lạc
tại thôn T, xã P, huyện Th, thành phố Hà Nội, được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 2002 đứng tên hộ cụ Cấn Văn K. Sau khi cụ T chết, toàn bộ nhà
đất nêu trên do cụ K và cụ L quản lý. Năm 2002 cụ K chết, khối tài sản này do
cụ L và ông Cấn Anh C quản lý.
• Cụ K và cụ T chết không để lại di chúc. Nay các đồng nguyên đơn là con cụ K
với cụ T khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và chia di sản thừa kế của
cụ K theo quy định của pháp luật, trong đó bà N1, bà N2, bà M1, bà T1, bà H,
ông T, bà C và bà Nguyễn Thị M (vợ ông S) đề nghị kỷ phần ông, bà được hưởng
giao lại cho ông V làm nơi thờ cúng cha mẹ, tổ tiên.

19
• Về quan hệ huyết thống và di sản thừa kế như Nguyên đơn trình bày là đúng. Cụ
L thừa nhận trước khi kết hôn với nhau, cụ K đã có các tài sản là 3 gian nhà cấp
4 lợp rạ và 3 gian bếp trên diện tích đất 612m2. Quá trình quản lý, sử dụng, vợ
chồng cụ có cải tạo và xây dựng lại một số công trình phụ, tường bao như hiện
nay. Năm 2002, Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ
cụ Cấn Văn K. Thời điểm này hộ cụ K có 06 người gồm: Cụ K, cụ L, ông T, bà
M2, bà T2 và ông C. Nay các nguyên đơn khởi kiện, cụ L và ông C đề nghị giải
quyết theo quy định của pháp luật.
• Ngày 20/7/2012, TAND thành phố Hà Nội ban hành Bản án dân sự sơ thẩm số
30/2012/DS-ST.
• Ngày 13/8/2012, cụ L và ông C kháng cáo.
• Ngày 17/6/2013, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội quyết định ban hành
Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2013/DS-PT.
• Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 05/4/2014, bà Cấn Thị N2 đại diện các Nguyên
đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm
nêu trên.

II. Trả lời câu hỏi

Câu 1: Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di
sản không?
Ở nước ngoài có một số hệ thống pháp luật áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di sản.
Ví dụ có thể kể đến như:
- Pháp luật Anh:
• Theo Đạo luật Quản lý Di sản 1975, thời hiệu yêu cầu chia di sản là 12 năm.
• Tính từ ngày mở thừa kế 11
• Ví dụ: Ông A qua đời vào ngày 1/1/2020. Người thừa kế có thể yêu cầu chia di sản
cho đến ngày 31/12/2032.
- Pháp luật Pháp:
• Theo Bộ luật Dân sự Pháp, thời hiệu yêu cầu chia di sản là 30 năm.12

11
ngày người để lại di sản qua đời
12
Điều 726
20
• Tính từ ngày mở thừa kế.
• Ví dụ: Bà B qua đời vào ngày 1/1/2020. Người thừa kế có thể yêu cầu chia di sản
cho đến ngày 31/12/2050.
- Pháp luật Đức:
• Theo Bộ luật Dân sự Đức, thời hiệu yêu cầu chia di sản là 3 năm. 13
• Tính từ ngày người thừa kế biết được mình là người thừa kế.
• Ví dụ: Ông C qua đời vào ngày 1/1/2020. Con trai ông C là D không biết mình là
người thừa kế cho đến ngày 1/1/2023. D có thể yêu cầu chia di sản cho đến ngày
31/12/2026.
- Pháp luật Hoa Kỳ:
• Mỗi bang của Hoa Kỳ có luật riêng về thời hiệu yêu cầu chia di sản.14
• Thông thường, thời hiệu dao động từ 2 đến 10 năm.
• Ví dụ: Tại bang California, thời hiệu yêu cầu chia di sản là 4 năm.
• Tính từ ngày mở thừa kế.
• Ví dụ: Bà D qua đời vào ngày 1/1/2020. Người thừa kế có thể yêu cầu chia di sản
cho đến ngày 31/12/2024.

Câu 2: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Điều 150 BLDS 2015 quy định bốn loại thời hiệu sau đây:
a) Thời hiệu hưởng quyền dân sự: Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết
thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự.
Theo Khoản 2 Điều 153 BLDS 2015, thời hiệu hưởng quyền dân sự có tính liên tục
từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, kể cả trong trường hợp việc hưởng quyền dân sự
được chuyển giao hợp pháp cho người khác; nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời
hiệu phải được tính lại từ đầu, sau khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt. Thời hiệu
hưởng quyền dân sự bị gián đoạn khi có một trong các sự kiện sau đây:
- Có sự giải quyết bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với quyền dân sự đang được áp dụng thời hiệu;

13
Điều 1956 Bộ luật Dân sự Đức (BGB)
14
Bang California (Điều 361.5); Bang New York (Mục 213-a); Bang Texas (Mục 16.051); Bang
Florida (Mục 733.702); Bang Illinois (Mục 5/13-205)
21
- Quyền dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên
quan tranh chấp và đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án.
b) Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự: Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn
mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện
nghĩa vụ.
Tương tự như thời hiệu hưởng quyền dân sự, theo Khoản 2 Điều 153 BLDS 2015,
thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự có tính liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc,
kể cả trong trường hợp việc miễn trừ nghĩa vụ dân sự được chuyển giao hợp pháp cho
người khác; nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu phải được tính lại từ đầu, sau
khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự cũng bị gián
đoạn khi có một trong các sự kiện xảy ra như trên.
c) Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự: Theo Khoản 1 Điều 154 BLDS 2015, thời hiệu
khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc
thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người
có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
d) Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự: Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là
thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích
công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu. Theo Khoản 2 Điều 154
BLDS 2015, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh
quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Căn cứ vào khoản 1 điều 611 BLDS 2015 quy định về thời điểm, địa điểm mở
thừa kế quy định: “thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp
Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định
tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật này”. Cụ T chết năm 1972, như vậy, thời điểm mở thừa kế
đối với di sản cụ T là năm 1972.

22
Đoạn của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL: “Như vậy kể từ ngày
Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623
Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước
ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-
1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản
của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.”

Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản và thuyết phục. Cụ thể, sau khi khẳng định “Theo quy định
tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế” và “Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688
Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân
sự này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”, Án lệ số
26 đã xác định “Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa
án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối
với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017”

Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố có cơ sở của văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
chưa có cơ sở văn bản. Nhưng nó vẫn mang tính thuyết phục:
- Án lệ số 26/2018/AL có tính thuyết phục, bởi vì trước đây pháp luật Việt Nam đã
có quy định phạm vi là giao dịch dân sự nhưng thực tiễn vẫn vận dụng cho cả thừa
kế theo pháp luật đó là các nghị quyết của quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở,
mặc dù tiêu đề là giao dịch dân sự về nhà ở nhưng thực tế các quy định về nghị
quyết này vẫn được vận dụng trong thừa kế theo pháp luật. Án lệ này đã có tiền lệ
trước đó nên hoàn toàn có thể chấp nhận.

23
- Ngoài ra, án lệ số 26/2018/AL còn bổ sung: “Trường hợp này, phải xác định thời
điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh
Thừa kế ngày 30-8-1990. Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo
quy định của Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13”. Như vậy, thời hiệu 30 năm mới
này đối với thừa kế mà mở trước khi có pháp lệnh không phải là thời điểm mở thừa
kế vào thời điểm cá nhân chết mà là thời điểm pháp lệnh được công bố. Pháp lệnh
thừa kế được thông qua vào ngày 30 - 8 - 1990 nhưng được công bố vào ngày
mùng 10 - 9 - 1990. Như vậy, ngày để tính bắt đầu thời hiệu mới 30 năm này đối
với thừa kế mở trước ngày có pháp lệnh không phải ngày 30 - 8 - 1990 mà là ngày
10 - 9 - 1990. Thời hiệu 30 năm nhưng thời điểm bắt đầu chậm đi rất nhiều so với
thời điểm mở thừa kế, tạo điều kiện cho các chủ thể liên quan được quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp và tranh chấp được xử lý ở cơ quan toà án, tạo điều
kiện cho người dân tiếp cận công lý. Án lệ bổ sung những điểm còn chưa rõ ràng
trong văn bản pháp lý, cụ thể là BLDS 2015 nên nội dung án lệ trên là thuyết phục.
Nếu chúng ta cứng nhắc lấy từ thời điểm mở thừa kế thì cái tình huống trong vụ
việc này sẽ được xem là hết thời hiệu, như vậy Toà án từ chối giải quyết nhưng
tranh chấp vẫn còn, các bên vẫn còn sự xung đột.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.


Án lệ số 26/2018/AL đã giải quyết được hai vấn đề vô cùng quan trọng liên
quan đến thời hiệu, yêu cầu chia di sản:
• Vấn đề thứ nhất là án lệ số 26/2018/AL khẳng định sẽ áp dụng cho cả thừa kế
theo pháp luật dù người để lại di sản chết trước ngày 1/1/2017. Cụ thể, BLDS
năm 2015 có một điều khoản chuyển tiếp đó là Điểm d Điều 688 quy định: “ Thời
hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, từ khi BLDS 2015
có hiệu lực, các quy định về thời hiệu của BLDS 2015 được áp dụng. Nếu chỉ tập
trung vào nội dung của quy định này thì sẽ thấy không có khó khăn trong việc áp
dụng quy định này cho thừa kế trước đây. Tuy nhiên, xét về mặt nội hàm của quy
định này lại nằm trong Khoản 1 Điều 688. Khoản 1 Điều 688 có phạm vi điều
chỉnh là giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực. Như
vậy quy định áp dụng về thời hiệu đó nằm trong quy định về giao dịch dân sự. Nếu
trường hợp tạo ra bản án số 26/2018/AL là thừa kế theo di chúc thì đây được xác
định là giao dịch dân sự theo Điều 624 BLDS 2015 (thể hiện ý chí của cá nhân
24
nhằm định đoạt tài sản được thông qua hành vi pháp lý để dịch chuyển quyền sở
hữu của người để lại di sản cho người khác sau khi người này chết), nhưng trong
nội dung bản án tạo ra án lệ số 26/2018/AL như trên thì không phải thừa kế theo
di chúc mà là thừa kế theo pháp luật (việc chuyển tài sản của người chết cho những
người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy
định)15 không phải là giao dịch dân sự. Trường hợp trên được xét vào Khoản 1
Điều 688 thì đây là trường hợp chưa được Bộ luật quy định.
BLDS 2015 chưa có quy định đầy đủ, chỉ bàn về thời hiệu mới cho giao dịch dân
sự trong khi đó trường hợp trên đang trong tình huống là thừa kế theo pháp luật
không phải là giao dịch dân sự thì án lệ số 26/2018/AL đã bổ sung như sau: “Như
vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy
định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường
hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp
lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này
thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy
định của pháp luật.” Qua đó, thấy được án lệ đã mở rộng phạm vi các quy định
mới về thời hiệu yêu cầu chia di sản.
• Vấn đề thứ hai là đối với những trường hợp thừa kế mà người để lại di sản
chết trước khi có pháp lệnh thì không lấy thời điểm mở thừa kế làm thời điểm
bắt đầu mà lấy từ thời điểm Pháp lệnh Thừa kế được công bố. Qua đó, đáp
ứng tinh thần của BLDS 2015 theo tinh thần, tư tưởng là tạo điều kiện cho người
dân tiếp cận với công lý. Việc đảm bảo kéo dài thời hiệu sẽ đảm bảo công bằng,
công lý đối với tất cả mọi người, hạn chế trường hợp từ chối giải quyết do thời
hiệu, tạo điều kiện cho Toà án giải quyết các tranh chấp về thừa kế nhiều hơn. Nếu
chúng ta không áp dụng BLDS 2015 với thời hiệu 30 năm cho những thừa kế được
mở ra trước đây thì sẽ dẫn đến việc nhiều tranh chấp phát sinh sẽ không được Toà
án giải quyết, khiến các bên giải quyết với nhau bằng con đường bạo lực. Từ đó,
án lệ sẽ tạo ra sự ổn định tốt hơn cho xã hội.
Ngoài ra, án lệ số 26/2018/AL còn có tính thuyết phục, bởi vì trước đây pháp luật
Việt Nam đã có quy định phạm vi là giao dịch dân sự nhưng thực tiễn vẫn vận

15
Trần Chiến, Quy định về thừa kế theo pháp luật, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

25
dụng cho cả thừa kế theo pháp luật đó là các nghị quyết của quốc hội về giao dịch
dân sự về nhà ở, mặc dù tiêu đề là giao dịch dân sự về nhà ở nhưng thực tế các quy
định về nghị quyết này vẫn được vận dụng trong thừa kế theo pháp luật. Án lệ này
đã có tiền lệ trước đó nên hoàn toàn có thể chấp nhận.

Án lệ số 26/2018/AL còn bổ sung: “Trường hợp này, phải xác định thời điểm bắt đầu
tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-
8-1990. Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của Bộ luật
Dân sự số 91/2015/QH13”. Như vậy, thời hiệu 30 năm mới này đối với thừa kế mà mở
trước khi có pháp lệnh không phải là thời điểm mở thừa kế vào thời điểm cá nhân chết
mà là thời điểm pháp lệnh được công bố. Pháp lệnh thừa kế được thông qua vào ngày
30 - 8 - 1990 nhưng được công bố vào ngày mùng 10 - 9 - 1990. Như vậy, ngày để tính
bắt đầu thời hiệu mới 30 năm này đối với thừa kế mở trước ngày có pháp lệnh không
phải ngày 30 - 8 - 1990 mà là ngày 10 - 9 - 1990. Thời hiệu 30 năm nhưng thời điểm bắt
đầu chậm đi rất nhiều so với thời điểm mở thừa kế, tạo điều kiện cho các chủ thể liên
quan được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp và tranh chấp được xử lý ở cơ
quan toà án, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý. Án lệ bổ sung những điểm
còn chưa rõ ràng trong văn bản pháp lý, cụ thể là BLDS 2015 nên nội dung án lệ trên là
thuyết phục. Nếu chúng ta cứng nhắc lấy từ thời điểm mở thừa kế thì cái tình huống
trong vụ việc này sẽ được xem là hết thời hiệu, như vậy Toà án từ chối giải quyết nhưng
tranh chấp vẫn còn, các bên vẫn còn sự xung đột.

26
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật
về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020 đến
nay.

STT Họ và tên tác giả Tên bài viết Tên Tạp chí Số, năm Số
của Tạp chí trang

1 Đỗ Thị Thu Hằng “Giải quyết tranh chấp Tạp chí Pháp Số 2 38-43
về quyền sở hữu nhà luật Dân sự Năm 2022
chung cư"

"Áp dụng di chúc trong Tạp chí Luật sư Số 10 64-69


thừa kế theo Bộ luật Dân Năm 2023
sự 2015"

2 Lê Thị Nga "Một số vấn đề cần lưu Tạp chí Công Số 12 52-57
ý khi thực hiện hợp đồng báo Năm 2020
mua bán nhà đất"

"Thủ tục đăng ký quyền Tạp chí Sổ tay Số 5 70-75


sở hữu tài sản" Luật sư Năm 2022

3 Đặng Hữu Nghĩa "Phân biệt tài sản chung Tạp chí Luật học Số 1 45-51
và tài sản riêng của vợ Năm 2021
chồng theo Bộ luật Dân
sự 2015"

"Quyền, nghĩa vụ của Tạp chí Toàn án Số 6 27-32


người thừa kế theo pháp nhân dân Năm 2023

27
luật"

4 Nguyễn Văn "Bảo vệ quyền sở hữu trí Tạp chí Khoa Số 1 28-33
Thắng tuệ trong lĩnh vực công học và Công Năm 2021
nghệ thông tin" nghệ

"Giải quyết tranh chấp Tạp chí Pháp Số 3 48-53


về thừa kế theo pháp luật & Xã hội Năm 2023
luật"

5 Bùi Quang Tuấn “Vấn đề pháp lý về Tạp chí Nghiên Số 3 34-40


quyền tài sản chung của cứu Lập pháp Năm 2020
vợ chồng trong hôn
nhân"

"Thực trạng và giải pháp Tạp chí Pháp lý Số 4 58-63


hoàn thiện pháp luật về Năm 2022
thừa kế theo di chúc"

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên

Để tìm được những tài liệu này, có thể thực hiện các cách sau:
- Sử dụng các trang web của Tạp chí chuyên ngành Luật: Hầu hết các Tạp chí
chuyên ngành Luật đều có trang web riêng để có thể tìm kiếm các bài viết theo
chủ đề, tác giả, số phát hành, v.v.
- Sử dụng các cơ sở dữ liệu pháp lý: Các cơ sở dữ liệu pháp lý cung cấp truy cập
vào một kho tàng lớn các văn bản pháp luật và bài viết chuyên ngành, bao gồm
- Tham khảo sách và tài liệu chuyên ngành: Nhiều sách và tài liệu chuyên ngành
về luật thừa kế cũng có thể cung cấp thông tin hữu ích.
- Tìm kiếm trên Google Scholar: Google Scholar là một công cụ tìm kiếm chuyên
dụng cho các bài viết khoa học, bao gồm cả các bài viết về luật thừa kế. Để tìm
kiếm được những tạp chí này, có thể sử dụng các từ khóa như "luật thừa kế", "di
chúc", "thừa kế theo pháp luật", v.v. để tìm kiếm các bài viết phù hợp.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nghiên cứu
1. Điều 612 BLDS 2015 (Đuều 634 BLDS 2005); Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao và các điều luật liên quan
khác
2. Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc
3. Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
4. Điều 616, 617 và 618 BLDS 2015 (Điều 638, 639, 640 BLDS 2005) và các điều
luật liên quan khác
5. Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La;
Quyết đinh số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
tạo TP. Hồ Chí Minh
6. Điều 623 BLDS 2015 và các điều luật liên quan khác
7. Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản
8.

Tài liệu đọc thêm


1. Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương V
2. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 4-7, 8-10, 11-13
3. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nể và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.236 đến 237
4. Đạo luật Anh, Điều 1 – Điều 10
5. Bộ luật Dân sự Pháp
6. Bộ luật Hoa kỳ
7. Bộ luật Dân sự Đức
8. Tạp chí Pháp luật Dân sự, số 2/2020, tr.38 đến tr.43
9. Tạp chí Luật sư, số 10/2023, tr.64 đến tr.69
10. Tạp chí Công báo, số 12/2020, tr.52 đến tr.57
11. Tạp chí Sổ tay Luật sư, số 5/2022, tr.70 đến tr.75
12. Tạp chí Luật học, số 1/2021, tr.45 đến tr.51
13. Tạp chí Toàn án nhân dân, số 6/2023, tr.27 đến tr.32
14. Tạp chí Pháp luật & Xã hộ, số 3/2023, tr.48 đến tr.53
15. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 3/2020, tr.34 đến tr.40
29
16. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 1, tr.28 đến tr.33
17. Tạp chí Pháp lý, số 4/2022, tr.58 đến tr.63

30

You might also like