You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


BÀI TẬP TUẦN


Môn : Những quy định chung về Luật Dân sự,
Tài sản và Thừa kế
(Buổi thảo luận thứ năm)
Lớp: 126 - TM46B1
Nhóm thảo luận : Nhóm 1
Danh sách thành viên
STT Họ và tên MSSV
1 Tô Hồng Ngọc 2153801011140
2 Nguyễn Thị Yến Nhi 2153801011157
3 Trần Hoàng Phúc 2153801011166
4 Chu Thị Thủy Tiên 2153801011184
5 Trần Thanh Tùng 2153801011188
6 Nguyễn Hoàng Thiên Thanh 2153801011193

Năm học 2021 – 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ...........................................................................................1
Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST ngày 28/08/2020 về vụ việc “Tranh chấp thừa kế tài
sản” của TAND thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc:.........................................................1
Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL:..............................................................................................1
1.1 Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không ? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời............................................................................................................................. 2
1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản
mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không ? Vì sao ?.....................................................3
1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố
có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời............................................................................................................................. 4
1.4 Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời..........4
1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 và diện
tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...............................................5
1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là
bao nhiêu ? Vì sao ?............................................................................................................6
1.7 Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?...........................................................................6
1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện
tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K....................................................................7
1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì
sao? 7
1.10 Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?...................................................................................................8
1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?..............8
1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?..............9
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN............................................................................................9
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 về việc “Tranh chấp quyền quản lý di
sản thừa kế” của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La..................................................................9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

2.1 Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông Đ
và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục ko, vì sao?................................................10
2.2 Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi chấp hành án có là người quản lý di sản
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................................................10
2.3 Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiệu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................11
2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................11
2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời..........................................................................................................12
2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời................................................................................................................................. 13
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ.............................................14
Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL:..........................................................................................14
3.1 Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam................................14
3.2 Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?..........15
3.3 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết định
tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?..........................................................15
3.4 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?.....................16
3.5 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công
bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?.....................................17
3.6 Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên...........................................17
VẤN ĐỀ SỐ 4: TÌM TÀI LIỆU.........................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................23
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ

Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST ngày 28/08/2020 về vụ việc “Tranh chấp thừa kế tài
sản” của TAND thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc: 

Nguyên đơn là ông Trần Văn Hòa, bị đơn là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh
Hương. Ông Trần Văn Hòa và bà Cao Thị Mai kết hôn với nhau năm 1980. Trong quá trình
hôn nhân, bà Mai và ông Hoà có 2 con chung là anh Nam và chị Hương. Tài sản chung của
hai vợ chồng ông Hòa bà Mai gồm 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán
hàng xây dựng năm 2006 trên diện tích đất 169,5m 2 (trong đó 84m2 đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất còn 85,5m2 còn lại thì chưa được cấp giấy chứng nhận nhưng được
hộ ông Hòa sử dụng ổn định, ranh giới các hộ xung quanh đều rõ ràng và không có tranh
chấp, không thuộc diện phải quy hoạch di dời). Năm 2010 ông Hòa và bà Mai cho anh Tạ
Xuân Trinh thuê gian bán hàng giáp với phần đất của hộ ông Thuỷ và bà Hạnh. Tiền thuê
nhà do bà Mai nhận. Năm 2017, bà Mai chết, anh Trinh giao tiền cho chị Hương là con của
bà Mai. Anh Nam, chị Hương yêu cầu tòa xác định diện tích đất 85,5m 2 là tài sản chung của
gia đình nhưng không được HĐXX chấp thuận. Đối với diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HĐXX xét thấy đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà
Mai, chỉ có điều dương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tài sản được hình
thành trong thời gian hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hòa, bà Mai. Do trước khi chết bà
Mai không để lại di chúc nên di sản của bà Mai chia cho mỗi người được hưởng 1/3 di sản
thừa kế của bà Mai. Diện tích đất 38,4m 2 và 47,1m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thì ông Hòa và anh Nam sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ
liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận.

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL:

Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2
trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là
267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện
tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị
G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà
Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã
được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác
định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2
nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị
G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm
xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn
K) để chia là không đúng.

1.1 Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không ? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. 

Cho tới thời điểm hiện tại thì pháp luật chưa có quy định nào định nghĩa di sản là gì mà
chỉ nêu di sản gồm những gì. Theo Điều 612 BLDS 2015 thì : “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” 
Về vấn đề nghĩa vụ của người quá cố có phải là một phần của di sản hay không thì
quan điểm của các nhà làm luật trước đây cho rằng là có. Cụ thể là trong Thông tư
81/TANDTC ngày 24-7-1981 (đã hủy bỏ) quy định rằng: “Di sản thừa kế bao gồm: Các tài
sản thuộc quyền sở hữu của người để thừa kế (...); các quyền về tài sản (...);   Các nghĩa vụ
về tài sản của người để thừa kế phát sinh do quan hệ hợp đồng, do việc gây thiệt hại hoặc
do quyết định của cơ quan có thẩm quyền.” Ngoài ra, Thông tư số 594/NCPL ngày 27-8-
1968 (đã hủy bỏ) cũng nêu rằng : “Di sản thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá
nhân về những tài sản mà người mất đó để lại, mà còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa
vụ tài sản phát sinh do quan hệ phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do việc thiệt hại mà
người chết để lại.” Như vậy, theo các thông tư trên thì di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của
người quá cố.
Trong quá trình sửa đổi BLDS 2015, quan điểm nghĩa vụ của người quá cố không nằm
trong di sản được đa số các nhà khoa học pháp lý đồng ý. Điều này thể hiện trong Điều 612
BLDS 2015 (đã nêu trên). Theo đó, từ Điều 659 đến Điều 662 trong BLDS 2015 thì có thể
hiểu rằng trước khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là
chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng
chính tài sản của người chết.1
Do đó, từ BLDS 2015 có thể kết luận rằng, di sản không bao gồm cả nghĩa vụ của
người quá cố.

1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không ? Vì sao ?

Từ trước đến nay, pháp luật chưa có quy định nào về vấn đề di sản bị thay thế có được
xem là di sản hay không. Nhưng trên thực tế thì có những trường hợp di sản của người đã
mất để lại bị thay thế bởi một tài sản mới.
Cụ thể là di sản có thể tham gia vào một giao dịch dân sự như mua bán, trao đổi để lấy
một khoản tiền hoặc một tài sản khác thì trong trường hợp này, phần tiền hoặc tài sản khác
đó vẫn được xem là di sản vì nó có giá trị tương đương với di sản và được hình thành trên
nền tảng của di sản mà người chết để lại.
Ví dụ: Trước khi chết, người để lại thừa kế có thực hiện một giao dịch dân sự mua bán đất,
bên mua đặt cọc trước một khoản tiền hứa sau 6 tháng sẽ trao đủ và nhận đất, tức là tại thời
điểm mở thừa kế phần đất ấy vẫn là tài sản của người chết và là di sản thừa kế, đúng hạn 6
tháng người mua trao đủ tiền và nhận đất thì đất lại bị thay thế bởi khoản tiền mua đất (sau
thời điểm mở thừa kế) thì khoản tiền đó vẫn được xem là tài sản để lại cho người thừa kế vì
nó phát sinh trên nền tảng của di sản mà người chết đã thực hiện giao dịch trước khi chết để
lại.
Do đó, ta nên xem tài sản mới thay thế phần tài sản do người chết để lại là di sản để chia
thừa kế nhằm đảm bảo quyền lợi của người được nhận thừa kế.

1
Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.HCM. NXB Hồng
Đức, 2018, tr. 415
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời. 

Không cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng đất
của người quá cố mới được coi là di sản.  
Căn cứ vào Điểm Tiểu mục 1.3 phần II Nghị quyết 02/2004/NQ – HĐTP thì “người chết
để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có giấy chứng nhận nhưng có di sản là nhà ở, vật
kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước…) gắn liền với quyền sử
dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì trong trường hợp đương sự có văn bản
của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng
chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản
là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.”
Ngoài ra, trong tiểu mục 1.2 phần II Nghị quyết số 02/2004/QĐ - HĐTP cũng quy định
rằng : “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các giấy tờ
quy định tại các Khoản 1,2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai 2003 , thì kể từ ngày 1 - 7 - 2004
quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.” Nghĩa là
trong trường hợp người quá cố không có giấy chứng nhận, quyền sử dụng đất có là di sản
hay không còn phụ thuộc vào người quá cố có một loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1,2
và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 hay không. Nếu người quá cố có một trong những giấy tờ
quy định tại các Khoản 1,2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 (được nhắc lại trong Điều 100
Luật Đất đai 2013) thì quyền sử dụng đất là di sản. Nếu người quá cố không có một trong
những giấy tờ quy định tại các Khoản 1.2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 thì quyền sử dụng
đất không được coi là di sản.

1.4 Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả
lời. 

Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85.5 m2 chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là di sản. Câu trả lời được thể hiện trong đoạn trích sau ở phần Nhận
định của Tòa án : 
4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

“Hội đồng xét xử xét thấy: Theo sơ đồ hiện trạng được Công ty đo đạc, khảo sát thực tế
ngày 21/02/2020 thể hiện, ngôi nhà và lán bán hàng được làm và xây dựng trên cả diện tích
đất đã được cấp giấy chứng nhận và diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận. Kết quả
xác minh tại UBND phường Đống Đa (nơi có diện tích đất tranh chấp), Phòng Tài nguyên
và Môi trường thành phố Vĩnh Yên, Chi cục thuế Nhà nước thành phố Vĩnh Yên thể hiện:
Gia đình ông Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán cán bán hàng trên một phần diện
tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này hộ ông Hòa đã quản lý, sử dụng
ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp,
không thuộc diện tích đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước
ngôi nhà và lán bán hàng của hộ ông Hòa, giáp đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện
được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế là
19.000.000đ/m2. Do đó, đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà Mai, chỉ có điều là đương sự
phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và
phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.”'

1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 và
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 

Về phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận trong Bản án số 08, Tòa đã xử theo
hướng công nhận đây là tài sản chung của ông Hòa bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Hướng xử lý nêu trên của là hoàn toàn hợp lý.
Căn cứ vào Điểm b tiểu mục 1.3 phần II Nghị quyết 02/2004/NQ – HĐQP thì trường hợp
người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc
khác gắn liền với quyền sử dụng đất đó thì nếu không có văn bản của UBND cấp có thẩm
quyền các nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm
quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét
để giao quyền sử dụng đất, thì Tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất. Tuy UBND phường Đống Đa chưa có văn bản cho biết rõ là việc sử
dụng đát đó có vi phạm quy hoạch hay không, nhưng theo ông Nguyễn Ngọc Thu đại diện
theo pháp luật của UBND phường Đống Đa trình bày: “Hộ ông Hòa đang sử dụng diện tích

5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

đất tăng ổn định, không thuộc diện quy hoạch di dời, không tranh chấp” nên có xem xét để
giao quyền sử dụng đất do không vi phạm quy hoạch.
Hơn nữa, như ông Thu đã đề cập thì ông Hòa đã sử dụng diện tích đất tăng ổn định, các
hộ liền kề cũng không có tranh chấp về việc ông Hòa sử dụng diện tích đất tăng này nên có
thể ngầm hiểu họ cũng công nhận quyền sử dụng đất của ông.
Như vậy là hoàn toàn có đủ căn cứ để chứng minh ông Hòa là người sử dụng đất hợp
pháp và do đó, hướng xử lý của tòa về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là thỏa đáng và thuyết phục.

1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N
là bao nhiêu ? Vì sao ?

Theo nhận định của Tòa án thì diện tích 398 m2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông
N và bà G. Năm 1991 bà G chuyển nhượng cho ông K 131 m 2 đất nhằm trả nợ và nuôi gia
đình. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 về tài sản chung của vợ
chồng thì phần đất chuyển nhượng trên được xem như là tài sản chung:“ 2. Tài sản chung
của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình,
thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”

Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này còn 267 m 2. Phần di sản
của ông N là một nửa diện tích 267 m2 đất chung của vợ chồng ông và bà G, tức là 133,5m2.

1.7 Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?

- Theo nhận định của Tòa án thì diện tích 398 m2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông N
và bà G. Năm 1991 bà G chuyển nhượng cho ông K 131 m2 đất nhằm trả nợ và nuôi gia
đình. Căn cứ vào khoản 2 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 về tài sản chung của vợ
chồng thì phần đất chuyển nhượng trên được xem như là tài sản chung: “2.Tài sản chung của
vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực
hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”

6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này còn 267 m2. Phần di sản của
ông N là một nửa diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng ông và bà G, tức là 133,5m2.

1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.

- Hướng giải quyết của Án lệ khi quyết định không đưa 131 m2 đất đã bán cho ông Vào
phần di sản của ông N là hợp lý. Như đã phân tích ở trên, bà G chuyển nhượng đất nhằm
đảm bảo cuộc sống cho gia đình. Mặt khác, theo Điều 651 BLDS 2015 quy định về người
thừa kế theo pháp luật thì cả bà G và 6 người con đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất, đồng thời
những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Trong trường hợp bà
G chuyển nhượng 131 m2 đất cho ông K phải được sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế.
Trên thực tế, các đồng thừa kế đã biết việc chuyển nhượng và không có ý kiến phản đối. Nên
có thể xem hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 131 m2 đất của bà G cho ông K là hoàn
toàn hợp pháp. Căn cứ theo Điều 223 BLDS 2015 về căn cứ xác lập quyền sở hữu theo hợp
đồng: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay
hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu
tài sản đó”, ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131 m2 đất.

1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng số
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để chia.

Bởi vì sau khi ông N mất mà không để lại di chúc hay thoả thuận khác thì tài sản
chung của hai vợ chồng sẽ được chia đôi là 196m2 đất mỗi người. Việc bà Phùng Thị G tự ý
bán 131m2 đất cho ông K mà không có sự đồng ý của các con của bà và sử dụng phần tiền
đó cho cá nhân thì có thể xem là bà G đã bán một phần đất thuộc phần của mình trong khối
tài sản chung của hai vợ chồng. Điều này là hoàn toàn hợp lý do bà G có quyền định đoạt
phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và số tiền thu được không được sử dụng vì

7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

lợi ích của các đồng thừa kế khác nên không thể xem như đã chia thừa kế ứng với phần di
sản này.

1.10 Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?

Có đoạn trong Án lệ cho rằng: “Diện tích 267m 2 đất đứng tên bà Phùng Thị G, nhưng
được hình thành trong thời gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ
chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định
đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m 2 đất chung của vợ chồng bà. Do đó, phần di
sản của bà Phùng Thị G để lại là 1/2 khối tài sản (133,5m2)” 

Vì vậy ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là 133,5m2 .

1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

Việc Toà án xác định phần còn lại của di sản bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là chưa thuyết
phục.

Bởi vì bà G cũng nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông N cho nên bà và các con
là những đồng thừa kế nên cùng được hưởng phần di sản của ông N (133,5m 2 đất) bằng
nhau, tức là khi chia thừa kế mỗi người sẽ được hưởng 19,07m 2 đất. Căn cứ Điều 651 BLDS
2015 quy định về chia thừa kế: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo
thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;… 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di
sản bằng nhau.”

Do đó tính thêm phần di sản của bà Phùng Thị G còn lại trong diện tích đất chung là
133,5m2 với số đất được thừa kế từ ông N thì tổng diện tích đất bà G có là 152,57m 2. Bà G
để lại di chúc cho chị H1 90m2 đất thì phần đất còn lại trong di sản của bà phải là 62,57m 2.

8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì Án lệ này có nội dung xoay quanh việc
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các
đồng thừa kế chuyển nhượng.

1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là chưa
thuyết phục vì theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác” thì bà đã được
chia ½ số tài sản nhưng bà đáng lý phải được chìa thêm 1/7 trong số ½ của diện tích 267m 2
đất còn lại (sau khi trừ bỏ 131m2 mà bà đã bán cho ông Phùng Văn K) vì bà cũng thuộc một
trong số những thành viên được nhận thừa kế từ ông Phùng Văn N.

Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16 vì nội dung của Án lệ số 16 là nói về việc
thừa nhận diện tích 131m2 đất mà bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K là hợp pháp
và không còn thuộc phần di sản thừa kế còn lại phải chia.

VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 về việc “Tranh chấp quyền quản lý di
sản thừa kế” của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

Bị đơn: Anh Phạm Tiến N


Nội dung đơn khởi kiện:
Giữa anh Phạm Tiến H (anh Hiệu) và anh Phạm Tiến T (anh Thiện), cháu Phạm Tiến N
(cháu Nghĩa) có họ hàng với nhau, anh Thiện là anh trai ruột của anh Hiệu và cháu Nghĩa là
con trai anh Thiện
Nguyên nhân khởi kiện: Đòi lại nhà đất của bố mẹ, cũng như nguyên nhân khởi kiện cháu
Nghĩa đến Tòa án với nội dung: bố mẹ đẻ anh là Phạm Tiến Đ, mẹ đẻ là Đoàn thị T, bố mẹ
sinh 7 người con là bà L, N, Nh, H, H anh Phạm Tiến T và anh Phạm Tiến H. Khi bố mẹ còn
sống có một ngôi nhà gỗ 4 gian lợp ngói nằm trên diện tích đất 311m2 (có giấy CNQSD đất
đứng tên bà Đoàn Thị T). Đến năm 1994 ông Đ chết, năm 2012 bà Đoàn Thị T chết. Khi
9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

chết, bố mẹ anh không để lại di chúc giao cho người con nào trong gia đình được quyền sử
dụng, quản lý ngôi nhà và đất nói trên, do đó ngôi nhà và phần đất trên được để nguyên
không ai quản lý vì các anh chị đã lập gia đình và không ai trông nom nên đã xuống cấp
trầm trọng, nay anh Hiệu đã đi chấp hành án xong trở về, bản thân anh Hiệu cũng đã có nhà
nên không liên quan đến nhà của bố mẹ anh, còn anh Thiện vẫn đang chấp hành án nên
nguyện vọng của các anh chị em trong nhà là giao cho anh Hiệu tu sửa lại ngôi nhà và quản
lý đất đai của bố mẹ làm nơi thờ cúng chứ không phân chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa
thì cháu Nghĩa cản trở không cho xuất trình giấy ủy quyền của anh Thiện với nội dung là ủy
quyền cho cháu Nghĩa trông coi ngôi nhà đến khi anh Thiện chấp hành án trở về
Với những tình tiết trên nên anh Hiệu đề nghị Tòa án giải quyết buộc cháu Nghĩa và anh
Thiện không được cản trở việc tu sửa ngôi nhà cháu Nghĩa không được xâm phạm đến tài
sản của bố, mẹ anh, phải bàn giao lại nhà và đất của bố mẹ anh để lại cho anh tu sửa trông
coi, quản lý để làm nơi thờ cúng bố mẹ anh.

2.1 Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục ko, vì sao?

Trong bản án số 11, Tòa án xác định anh Hiệu (Phạm Tiến H) là người có quyền quản lý
di sản của bố mẹ anh là ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T.
Việc xác định như vậy có tính thuyết phục, bởi lẽ theo Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015
quy định: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc, hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra.” Ông Đ và bà T chết, không để lại di chúc, nên việc quản lý di sản
của ông Thiện không có sự nhất trí bằng văn bản của các bên đồng thừa kế, vì vậy ông Thiện
không có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi hay sử dụng di sản của ông Đ
và bà T. Đồng thời, liên quan đến vấn đề này, còn có các bà Liền, bà Nhi, Nhường, Hoài,
Hài đều đã xác nhận và ủy quyền toàn bộ cho anh Hiệu giải quyết vụ án trên, cũng như đã
nhất trí với việc giao di sản thừa kế cho anh Hiệu trông coi và quản lý. 

2.2 Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án ông không phải là người quản lý
số di sản trên.
10
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Căn cứ Điều 616 BLDS 2015 có quy định: Người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa
kế thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế
chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di
sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được những người
quản lý di sản.
3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo
quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 của Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quản lý.

2.3 Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiệu (Tiến H) quyền quản lý di
sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong Bản án số 11, Việc Tòa án giao cho anh Hiệu (Tiến H) quyền quản lý di sản là
thuyết phục.
Căn cứ Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015: “Người quản lý di sản là người được chỉ định
trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”.
Những người con còn lại của ông Đ và bà T là Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hải đều xác
nhận, đã ủy quyền toàn bộ cho anh Hiệu; nhất trí với việc giao di sản thừa kế cho anh Hiệu
trông nom, quản lý.

2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 618 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định về Quyền của người quản lý di sản:

“1. Người quản lý di sản quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
quyền sau đây:

a)    Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di
sản thừa kế

b)    Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế
11
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

c)    Được thanh toán chi phí bảo quản di sản

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại Khoản 2 Điều 616 của Bộ
luật này có quyền sau đây:

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản

3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người
quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.”

Trong các quy định về quyền của người quản lý di sản, không hề đề cập đến việc người
quản lí di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản,. Vì vậy, khi là người quản lý di sản, người
quản lý di sản không có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong Bản án số 11.

2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai)
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 618 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định về Quyền của người quản lý di sản:

“1. Người quản lý di sản quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
quyền sau đây:

a)    Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế

b)    Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế

c)    Được thanh toán chi phí bảo quản di sản

12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại Khoản 2 Điều 616 của Bộ
luật này có quyền sau đây:

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản

3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người
quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.”

Theo các Điều Khoản được liệt kê phía trên, người quản lý di sản không có quyền giao
lại cho người khác quản lý di sản. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 616 của BLDS 2015 
“Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thỏa thuận cử ra”. Cha mẹ của ông Thiện - Ông Đ bà T chết và không để lại di chúc. Việc
quản lý di sản của ông Thiện không hề có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Vì
thế, ông Thiện không có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi, sử dụng di
sản của ông bà Đ T.

2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận
mở lối đi cho người khác qua di sản là hoàn toàn thuyết phục.

Theo Điểm b Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ bảo quản di sản của
người quản lý di sản: “Không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn
bản”.

13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Trong trường hợp của Quyết định số 147, ông Nhỏ đã tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở
lối đi khi không được sự đồng ý của bà Chơi và các đồng thừa kế thứ nhất của ông Ngót,
không những vi phạm Điểm b Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 mà còn vi phạm Điều 167 và
Điều 168 Luật đất đai năm 2013.

Vì thế, Tòa án đã khẳng định ông Nhỏ không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho ông
Đạm trên đất di sản thuộc quyền sở hữu của ông Ngót và bà Chơi là hoàn toàn thuyết phục. 

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL:


   Tại Hà Nội, vợ chồng Cấn Văn K (gọi tắt: cụ K), Hoàng Thị T (gọi tắt: cụ T) có tám
người con. Từ khi lấy nhau, cụ K và cụ T đã tạo lập được mảnh đất rộng 612 m², định cư ở
đây. Năm 1972, cụ T chết, không để lại di chúc. Cụ K sau đó đã lấy Nguyễn Thị L (gọi tắt:
cụ L) và có bốn người con chung. Cụ K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
mảnh đất cư trú, rồi qua đời năm 2002, cũng không để lại di chúc. Nhà đất được vợ hai là cụ
L và con trai là ông C (ông C là con bà L) quản lý, sử dụng.
   Vấn đề nảy sinh khi tám người con của vợ thứ nhất yêu cầu phân chia di sản thừa kế của
bố mẹ để lại là cụ K và cụ T. Ngày 02 tháng 11 năm 2010, nguyên đơn tám anh chị em do
Cấn Thị N2 đại diện đệ đơn khởi kiện bị đơn là mẹ kế và em trai cùng cha khác mẹ là ông C,
đơn gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, được thụ lý giải quyết từ sơ thẩm, phúc thẩm tại
Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội rồi giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân
tối cao, đưa ra nhận định để xét xử lại.

3.1 Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.

Điều 623 BLDS 2015 quy định 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế như sau:
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì
di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có
người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại
Điều 236 của Bộ luật này. (Điều 236 quy định: “Người chiếm hữu,
14
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.”
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại
Điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết
để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3.2 Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?

Tùy thuộc theo các quốc gia khác nhau họ sẽ có những quy định khác nhau về thời
hiệu đối với yêu cầu chia di sản.
  Đối với pháp luật Campuchia - Quốc gia có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di
sản, cụ thể ở Khoản 1 Điều 1248 Bộ luật dân sự Campuchia: “Người thừa kế phải có sự
chấp nhận đơn giản hoặc chấp nhận có giới hạn hoặc từ bỏ quyền thừa kế trong vòng 3
tháng kể từ ngày biết được việc thừa kế của mình đã phát sinh. Tuy nhiên thời gian này có
thể kéo dài thêm theo yêu cầu của người thừa kế.”
   Đối với pháp luật Pháp - Quốc gia không có sự áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia
di sản, cụ thể ở Điều 815 Bộ luật dân sự Pháp: “Không ai có thể bị buộc phải chấp nhận
trong tình trạng di sản chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu chia di sản trừ
trường hợp việc này được tạm hoãn theo bản án hoặc theo pháp luật.”

3.3 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?

    Thời điểm mở thừa kế với di sản của cụ T là năm 1972 căn cứ theo Khoản 1 Điều 611
Thời điểm, địa điểm mở thừa kế quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài
sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày
được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

    Trong phần nhận định của Tòa án của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL
đoạn 7 có cho câu trả lời: “Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi
hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu
đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều
36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này
thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của
pháp luật.” 

3.4 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? 

    Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho di
sản của cụ T là không có cơ sở văn bản nào. Tuy nhiên quyết định này là hợp lý, thuyết
phục:
    Thứ nhất, căn cứ vào Điểm d của Khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015 về Thời
hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này. Trước đó Khoản 1 Điều 688 của Bộ luật
dân sự 2015 đã nêu rõ quy định tại các khoản a, b, c được áp dụng đối với giao dịch dân sự
được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực (tức ngày 01/01/2017). Mặc dù theo quy
định của Khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015 chỉ áp dụng đối với giao dịch dân sự.
Nhưng về vấn đề thừa kế theo pháp luật thì còn bỏ ngỏ nhưng thực tế về việc áp dụng thời
hiệu của Bộ luật dân sự 2015 sẽ được Tòa án hiểu là bao gồm có thừa kế theo pháp luật. Dựa
trên tinh thần của Nghị quyết số 58/1998 Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và
Nghị quyết số 1037/2006 Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự
nhà ở. Cả 2 Nghị quyết đều quy định về thời hiệu yêu cầu chia di sản, thừa kế nhà ở đã được
coi là giao dịch dân sự dù đây không phải thừa kế theo di chúc mà là thừa kế theo pháp lệnh.
Ngoài ra việc Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu dài hơn các luật cũ mang lại lợi ích
cho các chủ thể có liên quan trong việc tranh chấp về chia di sản, tạo cơ hội cho Tòa án xử lý
1 cách triệt để. Nếu hết thời hiệu Tòa án không xử nhưng thực tế thì tranh chấp vẫn còn đó
gây ra những hệ lụy về sau.
Thứ hai, việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015
cho di sản của cụ T là hợp lý vì thực tế vẫn còn tranh chấp giữa những người thừa kế của cụ

16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

T dù thời hiệu yêu cầu chia tài sản đã chấm dứt. Điều này tạo nên hành lang pháp lý cho các
vụ việc tranh chấp về di sản thừa kế được giải quyết nhằm đảm bảo lợi ích của những người
được chia thừa kế.

3.5 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? 

   Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
chưa có cơ sở văn bản.
   Căn cứ vào Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở
thừa kế”. Bộ luật dân sự lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu kể từ thời điểm mở thừa kế và không
hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 thì có áp
dụng thời điểm bắt đầu là kể từ thời điểm mở thừa kế hay kể từ ngày công bố Pháp lệnh trên.
   Tuy việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật dân sự 2015 cho
di sản cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
chưa có cơ sở văn bản nhưng nó thuyết phục. Nội dung Án lệ là sự kết hợp giữa Bộ luật dân
sự 2015 và khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990. Như vậy, thời điểm bắt đầu tính thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế  từ ngày Pháp lệnh thừa kế năm 1990 công bố ngày
10/9/1990. Với quy định trên thời hiệu chia di sản thừa kế vẫn còn, được Tòa án kéo dài
thêm nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế.

3.6 Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.

  Việc xác định thời hiệu là một vấn đề hết sức phức tạp đặc biệt khi luôn có những sự chồng
chéo trong việc áp dụng của các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau tạo sự khó khăn
trong quá trình xác định. Vậy nên cần 1 án lệ như vậy, một bản án xét trên nhiều khía cạnh
pháp luật để làm sao đảm bảo được tối đa lợi ích của các bên tham gia, làm sao để đảm bảo
được tính công bằng cho vụ việc
  Theo em, Án lệ 26/2018/AL đã mở ra một phương án hợp lý đối với vấn đề bất cập của
BLDS hiện nay, mở rộng phạm vi áp dụng thời hiệu (không chỉ áp dụng cho giao dịch dân
17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

sự mà còn áp dụng cho cả thừa kế theo pháp luật). Án lệ còn cho phép giải quyết những
trường hợp yêu cầu chia di sản đã bị hết thời hiệu theo BLDS trước đây nhưng hiện nay các
bên vẫn có tranh chấp. Áp dụng hiệu lực hồi tố ở đây để bảo đảm được quyền lợi và công
bằng cho đương sự là hợp lý.

VẤN ĐỀ SỐ 4: TÌM TÀI LIỆU


1.Tài liệu thứ nhất
 Hoàng Thị Hải Yến, Hồ Thị Bảo Ngọc
 “Một số bất cập trong quy định về quyền thừa kế thế vị liên quan đến hoạt động công
chứng” 
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 08/2021 - năm thứ mười sáu
 Tr.10-tr.15
2. Tài liệu thứ hai
 Phan Thị Hồng
 “Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về thừa kế”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 02/2018- Năm thứ mười ba
 Tr.28-tr.35
3. Tài liệu thứ ba
 Trần Thị Thu Hằng
 “Cần xác định chính xác những đặc điểm đặc thù của người thừa kế bắt buộc trong
giải quyết tranh chấp về thừa kế”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 10/2020 - năm thứ mười lăm
 Tr.8-tr.12
4. Tài liệu thứ tư
 Trần Thị Thanh Thủy
 “Bàn về quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên mua nợ trong hoạt động mua, bán nợ
của ngân hàng thương mại”

18
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp


 Số 10/2018- Năm thứ mười lăm
 Tr.23-tr.27
5. Tài liệu thứ năm
 Phùng Văn Hải
 “Xác định các căn cứ pháp lý để tính toán lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác
một số loại tài sản”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 10/2018- Năm thứ mười lăm
 Tr.28-tr.33
6. Tài liệu thứ sáu
 Nguyễn Thị Thu Hồng
 “Hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công ở Việt Nam”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 10/2018- năm thứ mười lăm
 Tr.61-tr.68
7. Tài liệu thứ bảy
 Nguyễn Thị An Na 
 “Một số vấn đề cần lưu ý khi luật sư tham gia giải quyết tranh chấp về quyền đối với
tài sản”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 6/2019- Năm thứ mười bốn
 Tr.23-tr.29
8. Tài liệu thứ tám
 Cao Vũ Minh 
 “Trưng dụng tài sản trong pháp luật Việt Nam”
 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 Số 01/2022
 Tr.01-tr.15
9. Tài liệu thứ chín 
19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

 Châu Thị Vân


 “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu”
 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 Số 01/2018
 Tr.33-tr.42
10. Tài liệu thứ mười 
 Ngô Thị Anh Vân, Đặng Lê Phương Uyên
 “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”
 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 Số 06/2019 
 Tr.24-tr.36
11. Tài liệu thứ mười một
 Đỗ Văn Đại
 “Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ luật dân sự 2015 có
hiệu lực”
 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 Số 02(123)/2019 - 2019
 Tr.65-tr.73
12. Tài liệu thứ mười hai
 Nguyễn Thị Hạnh, Vũ Thị Hương
 “Bình luận các sai sót trong giải quyết một vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 05/2019 - năm thứ mười bốn
 Tr.59-tr.62
13. Tài liệu thứ mười ba
 Lâm Tố Trang
 “Hoàn thiện quy định pháp luật về việc công nhận đăng ký biện pháp bảo đối với tài
sản là quyền sở hữu trí tuệ”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 02/2020 - năm thứ mười lăm
20
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

 Tr.10-tr.15
14. Tài liệu thứ mười bốn
 Lê Thị Giang
 “Thời điểm phát sinh của hợp đồng tặng cho tài sản – Thực trạng và đề xuất hoàn
thiện pháp luật”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 02/2020 - năm thứ mười lăm
 Tr.26-tr.31, tr.43-tr.47
15. Tài liệu thứ mười lăm
 Ngô Thanh Hương
 “Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu – một số bất cập và kiến nghị
hoàn thiện”
 Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
 Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm
 Tr.25-tr.32
16. Tài liệu thứ mười sáu
 Châu Thị Vân
 “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu.”
 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 01(113)/2018
 Tr.33-tr.38
17. Tài liệu thứ mười bảy
 Đỗ Văn Đại, Lương Văn Lắm
 “Xử lý việc lấn chiếm tài sản của người khác trong pháp luật Việt Nam.”
 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 04(59)/2010
 Tr.56-end
18. Tài liệu thứ mười tám
 Mai Hồng Quỳ
 “Xử lý tài sản bảo đảm là nhà ở và vấn đề bảo đảm quyền con người.”
21
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

 Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
 01(86)/2015
 Tr.42-tr.47
Để tìm được những tài liệu trên, thì đầu tiên nhóm em truy cập vào những tạp chí nổi
tiếng uy tín như: Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp; Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Tạp chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
…; tiếp theo là vào từng tạp chí để tìm từng số xuất bản từ năm 2018 đến 2022. Trên các
trang web đó có phần mục lục của từng số, vậy nên chỉ cần tìm xem những bài có liên quan
đến tài sản và thừa kế để điền đầy đủ các thông tin yêu cầu vào.

22
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền
sở hữu và thừa kế, Nhà xuất bản Hồng Đức, chương V.
2. Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Vieent Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB
Hồng Đức.
3. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết & Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam,
NXB Đại học quốc gia.

23

You might also like