You are on page 1of 32

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ




BÁO CÁO BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN THỨ NĂM –


QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

Môn học: Những quy định chung về dân sự, tài sản, thừa kế
Giảng viên: ThS. Đặng Lê Phương Uyên
Nhóm: 6

SINH VIÊN THỰC HIỆN LỚP MÃ SỐ SINH VIÊN


Ngô Quang Tiến QT44.3 1953801015224
Trần Tùng Linh HS48A2 2353801013112
Trần Ngọc Mai HS48A2 2353801013119
Nguyễn Thị Tuyết Nhi HS48A2 2353801013154
Triệu Yến Nhi HS48A2 2353801013158
Lê Thị Huỳnh Như HS48A2 2353801013161
Phạm Nguyễn Huỳnh Như HS48A2 2353801013163

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2024


MỤC LỤC
0
Nội dung..........................................................................................................Trang
MỤC LỤC......................................................................................................1
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ...................................................................4
Câu 1.1: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá
cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................5
Câu 1.2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay
thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có phải là di sản không? Vì
sao?........................................................................................................7
Câu 1.3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất
của người quá cố có cần phải đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..............................................8
Câu 1.4: Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào
của Bản án có câu trả lời?.....................................................................9
Câu 1.5: Nêu suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án
trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất............................................................................................10
Câu 1.6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?......................................................11
Câu 1.7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?.................12
Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên
quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.....13
Câu 1.9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các
con mà dùng số tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được
coi là di sản để chia không? Vì sao?.....................................................14
Câu 1.10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G
trong diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?.......................................14
Câu 1.11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G
là 43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?......................................................................................15
Câu 1.12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ
phần còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ
số 16 không? Vì sao?............................................................................15
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN....................................................................17
1
Câu 2.1: Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý
di sản của ông Đ và bà T? Việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì
sao?........................................................................................................18
Câu 2.2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là
người quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................19
Câu 2.3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H)
quyền quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
...............................................................................................................19
Câu 2.4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền được
tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời...............................................................................................20
Câu 2.5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại
cho người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại
cho con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................21
Câu 2.6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................22
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ......................24
Câu 3.1: Anh/chị hãy cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở
Việt Nam...............................................................................................24
Câu 3.2: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T được xác định là
năm nào? Đoạn nào của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho
câu trà lời?.............................................................................................25
Câu 3.3: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật
Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có
thuyết phục không? Vì sao?..................................................................26
Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật
Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm
Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có
thuyết phục không? Vì sao?..................................................................26
Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên........27

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.............................................................29


Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp
luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu
2
năm 2020 đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và
việc liệt kê phải thỏa mãn những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác
giả, 2) Tên bài viết để trong dấu ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số
và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài
viết được liệt kê theo alphabet tên các tác giả (không nêu chức danh).29
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên.......30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO, NGHIÊN CỨU.........................31

3
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ
Tóm tắt Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân
dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
Nguyên đơn: ông Trần Văn Hòa.
Bị đơn: anh Trần Hoài Nam, chị Trần Thanh Hương.
Ông Trần Văn Hòa và bà Cao Thị Mai là hai vợ chồng, trong thời kỳ hôn
nhân có hai người con là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương, không có
con đẻ và con nuôi nào khác. Bà Mai mất, không để lại di chúc và do không thỏa
thuận được nên ông Hòa làm đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Mai
để lại. Tài sản tranh chấp là nhà, đất tại phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên.
Tòa án xác định tổng giá trị tài sản chung của ông Hòa và bà Mai là
1
6.151.614.500đ gồm 2 giá trị nhà và sân tường bao loan là 306.050.500đ; lán bán
hàng là 21.064.000đ; 84m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận là 3.528.000.000đ;
85,5m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận sau khi trừ nghĩa vụ tài chính đối với
Nhà nước là 1.966.500.000đ; tiền thuê nhà và lán bán hàng ông Hòa quản lý là
300.000.000đ, chị Hương quản lý 30.000.000đ.
Số tài sản trên được hình thành trong thời gian hôn nhân và từ tài sản của hôn
nhân nên được chia đôi cho ông Hòa và bà Mai, tương đương với số tiền là
3.075.807.250đ mỗi người. Bà Mai mất nhưng không để lại di chúc nên di sản của
bà Mai để lại được chia theo quy định của pháp luật. Cụ thể, hàng thừa kế của bà
Mai gồm bố, mẹ, chồng và con. Tuy nhiên, cả bố và mẹ bà Mai đều đã mất trước
bà nên không được hưởng thừa kế tài sản của bà Mai. Vì vậy, phần di sản thừa kế
của bà Mai được chia cho chồng là ông Hòa và hai con là anh Nam và chị Hương,
1
mỗi người được hưởng 3 di sản thừa kế của bà Mai để lại là 1.025.269.083đ.

Cuối cùng, Tòa án đã quyết định: chia cho ông Trần Văn Hòa số di sản với
tổng trị giá 2.220.664.000đ và diện tích đất 38,4m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (theo chỉ giới 4, 5, 6, 7, 8, A, B, 4) thì ông Hòa có trách nhiệm
liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận sau khi
đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước; chia cho anh Trần Hoài Nam số di
sản với tổng trị giá 4.207.001.000đ và diện tích đất 47,1m 2 chưa được cấp giấy

4
chứng nhận quyền sử dụng đất (theo chỉ giới 2, 3, 4, B, 2) thì anh Nam có trách
nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận
sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, ngoài ra còn phải thanh toán
chênh lệch về tài sản cho ông Hòa với số tiền 1.880.412.000đ và chị Hương với số
tiền 995.269.000đ; chia cho chị Trần Thanh Hương được quyền sở hữu số tiền cho
thuê nhà 30.000.000đ mà chị Hương đang quản lý.

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: chị Phùng Thị H1.
Bị đơn: anh Phùng Văn T.
Ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là bố mẹ của phía nguyên đơn có tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân là diện tích đất 398m 2. Ngày 07/07/1984, ông N
chết nhưng không để lại di chúc. Năm 1994, bà G đã chuyển nhượng diện tích
131m2 đất cho ông K. Cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nêu trên cho ông K và cho bà G (với diện tích 267m 2 đất còn lại, giấy này do
anh Phùng Văn T giữ). Sau này, bà G muốn cho con gái là chị Phùng Thị H1 một
phần diện tích đất của bà nên đã yêu cầu anh Phùng Văn T trả lại giấy chứng nhận
sử dụng đất đã giữ trước đó. Nay chị Phùng Thị H1 khởi kiện yêu cầu buộc anh T
trả giấy chứng nhận nêu trên.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định phần di sản là tổng diện tích 398m 2 đất còn Tòa
án cấp phúc thẩm xác định phần di sản được chia là 267m 2, không bao gồm phần
đất đã chuyển nhượng cho ông K, tức phần diện tích 131m2 đất.
Cuối cùng, Tòa án đã quyết định hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và Bản án phúc
thẩm, giao lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại do nhận thấy
sai sót trong việc xác định phần di sản được chia cho bà G và các con được thừa kế
từ tài sản chung của vợ chồng.

Câu 1.1: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của


người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

5
Dựa trên cơ sở pháp lý nêu trên, có thể hiểu di sản bao gồm tài sản riêng và
tài sản chung với người khác của người quá cố. Pháp luật hiện hành thừa nhận cá
nhân có quyền có tài sản riêng ngay cả trong thời kỳ hôn nhân, việc thừa nhận này
được quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra, cá
nhân còn có tài sản trong khối tài sản với các chủ thể khác như tài sản chung của
vợ chồng, việc này đã được pháp luật thừa nhận theo quy định tại Điều 33 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ và chồng đều có quyền ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Ngoài ra, cá nhân còn có thể
có tài sản chung với các chủ thể khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc xác định di sản thừa kế hiện nay có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá
cố hay không hiện đang có ba luồng ý kiến chính:
 Ý kiến đầu tiên cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và các nghĩa vụ
về tài sản của người chết để lại vì có như vậy mới đảm bảo sự công
bằng cho xã hội, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các “chủ nợ”. Tuy
nhiên, ý kiến này lại không phù hợp nếu chúng ta hướng tới xây dựng
một nhà nước pháp quyền, đề cao trách nhiệm của cá nhân với xã hội,
mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho hành vi của chính mình. Nếu
áp dụng ý kiến này vào thực tế sẽ làm cho xã hội quay về chế độ “nợ
truyền đời truyền kiếp” của thời phong kiến trước đây, làm nên một
băng chuyền nếu cha không trả hết nợ thì con trả, con trả không hết thì
cháu trả.
 Ý kiến thứ hai cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài
sản của người chết trong phạm vi di sản để lại tức người thừa kế chỉ
thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà họ được nhận. Ý kiến này
được đánh giá là tiến bộ hơn ý kiến thứ nhất vì nó không còn tàn tích
của chế độ “nợ truyền đời truyền kiếp” của thời trước nhưng chung quy
thì vẫn xác định di sản bao gồm cả các nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại. Tuy nhiên, ý kiến này vẫn không được đa số các nhà khoa
học pháp lý ủng hộ vì khi người còn sống được thừa hưởng di sản của
người đã chết thì theo lẽ thường cũng chẳng ai muốn thừa hưởng thêm
phần nghĩa vụ và công việc của người khác kể cả đó là người thân
thích.
 Ý kiến thứ ba cho rằng di sản thừa kế chỉ là các tài sản của người chết
để lại sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết tức di

6
sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố. Đây là quan
điểm được nhiều nhà khoa học pháp lý đồng ý và cũng đã được thể hiện
rất rõ trong Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên. Ngoài ra,
Điều 659 đến Điều 662 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng cho biết, trước
khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của
người chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ
không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực
hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản của người
chết.
Từ các lập luận trên cùng với các cơ sở pháp lý đã nêu, có thể khẳng định, di
sản thừa kế không bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố.

Câu 1.2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị
thay thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có phải là di sản
không? Vì sao?
Theo quy định của pháp luật, cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản có được
từ hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh hợp pháp. Tất cả công dân đều được
làm tất cả những gì luật không cấm và không trái đạo đức xã hội thì mọi thu nhập
đều được Nhà nước bảo hộ cũng như được để lại thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật
không quy định di sản thừa kế là các quyền tài sản gắn với nhân thân như quyền
nhận trợ cấp,… Về nguyên tắc, di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại và
thuộc sở hữu của người chết. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ tài sản có
được sau khi một người chết cũng được coi là di sản thừa kế:
 Ví dụ: tài sản mà doanh nghiệp khuyến mãi cho người mua hàng bằng
việc bốc thăm, nhưng lúc mua thì chưa bốc thăm, sau khi chết mới bốc
thăm và trúng thưởng, tiền bảo hiểm, tiền lãi,… thì những tài sản thuộc
những trường hợp tương tự như thế vẫn sẽ được coi là di sản thừa kế dù
nó được hình thành sau thời điểm mở thừa kế.
 Trường hợp tiếp theo là khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm
mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó do nguyên nhân
khách quan: đây là những nguyên nhân nằm ngoài ý chí của con người,
không được biết trước và không thể kiểm soát được, như hoả hoạn, lũ
lụt, động đất hoặc các thảm hoạ thiên nhiên khác. Khi những nguyên
nhân này tác động vào di sản thừa kế khiến nó bị hư hỏng hoặc mất giá

7
trị ban đầu thì để đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế, tài sản
mới sẽ có hiệu lực pháp luật thay thế cho di sản thừa kế cũ bị ảnh
hưởng bởi những yếu tố ngoài ý muốn. Từ đó, di sản cũ sẽ không còn
giá trị hiện thực.
 Trường hợp cuối cùng là khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm
mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó do nguyên nhân chủ
quan: đây là những sự vật, sự việc, nằm trong tầm kiểm soát của con
người và hoàn toàn có thể thay đổi được, được xác định có sự tác động
phần nào đó bởi yếu tố con người. Nếu nhằm mục đích chiếm đoạt toàn
bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi một tài sản khác khi
đó tài sản mới này sẽ không được coi là di sản thừa kế. Tuy nhiên nếu
sự thay thế do tự bản thân cá nhân nào muốn thay thế hay đó là sự thay
thế được đồng thuận bởi tất cả những người thừa kế và được pháp luật
thừa nhận thì tài sản mới đó sẽ trở thành di sản.

Ngoài ra, trong quá trình phân chia di sản thừa kế còn phát sinh một loại tranh
chấp đó là tiền phúng điếu cho đám tang người chết. Có ý kiến cho rằng đây cũng
được xem là di sản của người chết nên nó là di sản thừa kế, theo phong tục của dân
ta thì việc đi viếng đám tang là đi viếng người chết thì khoản tiền viếng này phải
nằm trong khối di sản của người chết chứ không thể thuộc về quyền sở hữu của ai
khác, trường hợp có người có nghĩa vụ thờ cúng thì có thể dùng số tiền này để làm
giỗ tuần, mãn tang, giỗ hàng năm,… Cũng có ý kiến cho rằng đây không phải là di
sản thừa kế vì từng có quan điểm: “Biết rằng toàn bộ quyền và nghĩa vụ về tài sản
của người chết để lại, chỉ tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó, khoản tiền
phúng điếu không thể được coi là di sản thừa kế của người chết”, có rất nhiều sự
đồng tình với ý kiến này vì tiền phúng điếu không phải là tài sản của người chết để
lại mà nó có sau thời điểm mở thừa kế và nó cũng không phải kết quả của những
hành vi có trước của người chết nên không thể coi đây là di sản để chia thừa kế.

Từ các lập luận trên, để xem tài sản của người quá cố ở thời điểm mở thừa kế
bị thay thế bởi một tài sản mới và tài sản mới này có được xem là di sản hay không
thì phải tùy vào trường hợp và nguyên nhân mà tài sản mới đó được hình thành.

8
Câu 1.3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử
dụng đất của người quá cố có cần phải đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Đầu tiên, để được xem là di sản thì phải xác nhận miếng đất đó có phải là tài sản
của người đã chết khi họ còn sống hay không.
Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư
pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Tiếp theo, phải xác nhận người
đã chết có phải là người sử dụng đất có đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hay không, nếu có thì mới được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất
về mặt pháp lý.
Căn cứ Điều 168 Luật Đất đai năm 2013: “Người sử dụng đất được thực
hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn
quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận”. Cuối cùng, chỉ khi có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất đó mới có đủ quyền và nghĩa vụ của
chính họ, từ đó họ có thể chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho,…và bao gồm cả
quyền để lại di sản thừa kế.
Từ các lập luận trên, có thể khẳng định, để được coi là di sản, theo quy định
pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố cần phải đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là chứng thư
pháp lý đáng tin cậy nhất để dựa vào đó, người đứng tên được Nhà nước công nhận
các quyền đối với miếng đất được quy định trong Giấy chứng nhận đồng thời nó
cũng sẽ được xem là di sản thừa kế.

Câu 1.4: Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m 2
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không?
Đoạn nào của Bản án có câu trả lời?

9
Trong Bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản.
Dẫn chứng trong Bản án có câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất tăng
85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại diện
Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần
tiếp tục tạm giao cho ông Hòa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà
nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vấn đề này, Hội đồng xét
xử xét thấy: theo sơ đồ hiện trạng được Công ty đo đạc, khảo sát thực tế ngày
21/02/2020 thể hiện, ngôi nhà và lán bán hàng được làm và xây dựng trên cả diện
tích đất đã được cấp giấy chứng nhận và diện tích đất chưa được cấp giấy chứng
nhận. Kết quả xác minh tại UBND phường Đống Đa (nơi có diện tích đất tranh
chấp), Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vĩnh Yên, Chi cục thuế Nhà
nước thành phố Vĩnh Yên thể hiện: gia đình ông Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng,
sân và lán bán hàng trên một phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận;
diện tích đất này hộ ông Hòa đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ
liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp, không thuộc diện đất
quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngôi nhà và lán
bán hàng của hộ ông Hòa, giáp đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp
giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế là 19.000.000đ/m 2.
Do đó, đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải thực
hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và phân
chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Phần
đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Các phần đề nghị khác của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, được
Hội đồng xét xử xem xét để quyết định”.

Câu 1.5: Nêu suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa
án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.
Hướng xử lý của Tòa án: chia phần đất chưa được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Hòa và anh Nam, cụ thể chia cho ông Hòa 38,4m 2 và

10
chia cho anh Nam 47,1m2 và cả hai người đều phải có trách nhiệm liên hệ với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Trong Bản án số 08 về diện tích đất 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng, Toà đã nhận định: “Tài sản của ông Hoà và bà Mai gồm 01 ngôi
nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán hàng xây dựng năm 2006 trên diện
tích đất 169,5m2 Trong đó, diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
là 84m2, còn lại 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy
nhiên hộ ông Hoà đã sử dụng ổn định, ranh giới các hộ xung quanh đều rõ ràng và
không có tranh chấp và cũng không thuộc diện quy hoạch phải di dời, vị trí đất
tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngôi nhà và lán bán hàng của hộ ông Hoà, giáp
đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế (là 19.000.000đ/m2)”. Ngoài ra, dựa theo kết quả của
UBND phường thì cũng có thể hiểu Tòa án đã tự công nhận quyền sử dụng đất của
gia đình ông Hòa. Trong một vài trường hợp, đất sẽ được coi là di sản nếu dựa trên
quyền sử dụng hợp pháp chứ không phải lúc nào cũng dựa trên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực ra chỉ là một hình
thức pháp lý để Nhà nước công nhận ai đó có quyền sử dụng đất hợp pháp chứ nó
không phải là căn cứ xác lập quyền sử dụng đất. Vì vậy, nếu có đủ chứng cứ cho
thấy người chết là người sử dụng đất hợp pháp thì đất đó sẽ được coi là di sản thừa
kế. Và nhận định của Tòa cũng đã chứng minh được ông Hòa và bà Mai là người
sử dụng đất hợp pháp nên Tòa vẫn xem đất này là di sản và chia diện tích cho ông
Hòa và anh Nam quản lý nếu các đương sự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Từ các lập luận trên đã cho thấy, hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08
về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuyết phục
và hợp tình, hợp lý.

Câu 1.6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di


sản của Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Theo nhận định của Tòa án thì diện tích 398m 2 đất là tài sản chung của vợ
chồng ông N và bà G. Năm 1991, bà G chuyển nhượng cho ông K 131m 2 đất nhằm
trả nợ và nuôi gia đình.

11
Căn cứ Khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tài sản
của vợ chồng thì phần đất chuyển nhượng nêu trên được xem như là tài sản chung:
“Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng”.
Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này còn 267m 2. Phần
di sản của ông N là một nửa diện tích 267m 2 (tức 133,5m2) đất chung của vợ chồng
ông và bà G.
Các văn bản pháp luật hiện nay không quy định rõ phần của vợ hoặc chồng
trong khối tài sản chung. Nhưng theo Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia
1
đình năm 2014, tài sản của của vợ chồng được chia đôi, tức mỗi người được 2
khối tài sản chung. Nhưng nếu có chứng cứ chứng minh có sự đóng góp khác nhau
thì phần mỗi người không nhất thiết là ngang nhau:
“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố
sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động
có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”.
Tuy nhiên, quy định này quy định trong trường hợp “vợ chồng ly hôn”. Mặt
khác, Khoản 2 Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về
vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết: “Khi có yêu cầu về
chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng
có thoả thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án
tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế...”
Như vậy, phần diện tích đất của ông N sẽ là 133,5m2. Mặc dù ông N chết và
phần diện tích 267m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà G
(phần đất chỉ còn 267m2 là vì bà đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K vào năm
1991 một phần diện tích đất nêu trên là 131m 2 và năm 1999 bà mới được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng phần đó được hình thành trong thời kỳ hôn

12
nhân, là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, phần di sản của ông N sẽ được tính là
1
tổng diện tích đất chung của vợ chồng ông và bà G theo Điều 612 Bộ luật Dân
2
sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác”.

Câu 1.7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho
ông Phùng Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia. Vì bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông Phùng Văn K và đồng thời ông K cũng được cơ quan nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử đất. Thêm vào đó, việc bà Phùng Thị G chuyển
nhượng đất cho ông Phùng Văn K thì các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng
không ai có ý kiến phản đối gì. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà G đã đồng
ý để bà G chuyển nhượng diện tích 131m 2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Do đó,
phần đất đã được chuyển nhượng là tài sản riêng của ông K và không liên quan gì
đến phần đất chung của hai vợ chồng ông N và bà G nên không được coi là di sản
để chia thừa kế của gia đình bà Phùng Thị G.

Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên
liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn
K.
Hướng giải quyết của Án lệ khi quyết định không đưa 131m 2 đất đã bán cho
ông K vào phần di sản của ông N là hợp lý.
Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về
người thừa kế theo pháp luật quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Việc bà G chuyển nhượng đất nhằm đảm bảo cuộc sống cho gia đình. Mặt
khác, căn cứ theo cơ sở pháp lý nêu trên thì cả bà G và 6 người con đều thuộc hàng
thừa kế thứ nhất, đồng thời những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di
sản bằng nhau. Trong trường hợp bà G đã chuyển nhượng 131m 2 đất cho ông K
phải được sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế. Trên thực tế, các đồng thừa kế đã
biết việc bà G chuyển nhượng quyền sử dụng và không có ý kiến gì về việc chuyển

13
nhượng 131m2 đất cho ông K của bà G nên việc ông K có quyền sở hữu đối với
diện tích đất nêu trên là hợp lý.
Căn cứ Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2015 về căn cứ xác lập quyền sở hữu
theo hợp đồng: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho,
trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của
pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”. Do đó, việc bà G chuyển nhượng cho
ông K quyền sử dụng 131m2 đất có giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền về
quyền sử dụng của ông K nên đối với diện tích đất nêu trên không được tính vào
phần di sản của ông N là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật, bởi vì lúc
bấy giờ diện tích đất nêu trên là thuộc quyền sở hữu của ông K.
Từ những lập luận trên đã cho thấy, hướng giải quyết trong Án lệ trên liên
quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là hoàn toàn
đúng đắn và thuyết phục.

Câu 1.9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của
các con mà dùng số tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó
có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
số tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để
chia.
Phần tài sản chung của ông N và bà G là 398m 2 đất. Khi ông N mất thì không
để lại di chúc nên tài sản sẽ chia theo quy định pháp luật và bà G cùng các con của
bà thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ
luật Dân sự năm 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Vì vậy, bà G và các con đều
có quyền thừa kế và quyền này là ngang nhau đối với di sản thừa kế mà ông N để
lại. Nếu bà G tự ý bán 131m2 đất cho ông K mà không có sự đồng ý của con rồi
dùng số tiền bán đất đó để lo cho cuộc sống cá nhân thì cũng xem như bà G đang
bán đi một phần tài sản chung của vợ chồng, cụ thể là 199m 2 đất và điều này không
ảnh hưởng đến các đồng thừa kế khác, di sản của ông N là 199m 2 đất vẫn sẽ được
chia đều cho bà G và các con. Căn cứ Khoản 1 Điều 218 Bộ luật Dân sự năm
2015: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu
của mình” nên việc bà G bán một phần tài sản chung của vợ chồng là 199m 2 đất để

14
sử dụng cho mục đích cá nhân thay vì lo cho cuộc sống các con là không vi phạm
pháp luật và không thể coi là di sản để chia vì số tiền mà bà G có được qua giao
dịch này đã được sử dụng cho mục đích riêng và không gây ảnh hưởng đến quyền
lợi của các đồng thừa kế khác.

Câu 1.10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị
G trong diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà trong diện tích đất trên là
133,5m2 ứng với 267m2 trong khối tài sản chung của vợ chồng. Vì 267m 2 đất này
đứng tên bà Phùng Thị G và được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên phải được
xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa
1
chia. Bà G chỉ có quyền định đoạt 2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m 2 đất
1
thuộc tài sản chung của vợ chồng bà. Do đó, di sản của bà G để lại là 2 khối tài sản
là 133,5m2 đất.

Câu 1.11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng
Thị G là 43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung
của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là
không thuyết phục.
Di sản lúc này của ông N sau khi đã trừ đi phần đất bán cho ông K là 133,5m 2
và căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về
người thừa kế theo pháp luật quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” thì di sản này
của ông N sẽ được chia đều cho bà G và các con với phần diện tích mà bà G nhận
được là khoảng 19,07m2. Vậy nên, trên thực tế, bà G đã có di sản sở hữu chung với
ông N là 133,5m2, cùng với phần di sản được hưởng thừa kế của ông N là 19,07m 2
và trừ đi phần diện tích bà cho chị H1 là 90m 2 thì tổng diện tích bà G nhận được
phải là 62,57m2 nên việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị
G là 43,5m2 là không thuyết phục.

15
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16 vì nội dung của Án lệ số 16 là
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một
trong số đồng thừa kế chuyển nhượng.

Câu 1.12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5
kỷ phần còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung
của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là
không thuyết phục.
Phần đất 43,5m2 là phần di sản được chia theo quy định của pháp luật nên sẽ
được chia đều cho cả 6 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm cả chị
Phùng Thị H1. Việc chị H1 được bà G chia di sản theo di chúc thì cũng không ảnh
hưởng gì đến quyền thừa kế phần đất 43,5m 2 này của chị cũng như quyền lợi của
các đồng thừa kế khác. Vì vậy, việc quyết định như trên của Tòa án là không đảm
bảo được lợi ích hợp pháp của chị Phùng Thị H1.
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16 vì nội dung của Án lệ số 16 là
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một
trong số đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế đều biết nhưng không
phản đối giao dịch chuyển nhượng trên. Hơn hết, số tiền nhận được từ việc chuyển
nhượng được dùng để lo cho cuộc sống của các đồng thừa kế và bên nhận chuyển
nhượng tức anh Phùng Văn K cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất từ bà Phùng Thị G.

16
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La.
Nguyên đơn: anh Phạm Tiến H.
Bị đơn: anh Phạm Tiến N.
Bố mẹ anh H khi còn sống có một ngôi nhà (nằm trong đất đã có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất). Khi bố mẹ chết đã không để lại di chúc giao lại quyền sử
dụng, quản lý nhà và diện tích nói trên cho con cái nào trong gia đình nên số tài
sản đó để nguyên, không ai quản lý. Anh H và anh Thiện (người cùng chung họ
hàng với anh H) đều phải đi chấp hành án, khi anh H trở về thì ngôi nhà đang trong
tình trạng xuống cấp trầm trọng. Anh H tu sửa lại nhà và quản lý đất theo nguyện
vọng của anh chị em trong nhà (không phân chia). Tuy nhiên, khi anh có ý định
sửa thì anh N cản trở không cho phép và xuất trình giấy ủy quyền với nội dung là
được ủy quyền trông coi bởi anh Thiện đến khi anh Thiện chấp hành án trở về.

17
Anh H yêu cầu Tòa án buộc anh N và anh Thiện ngừng việc cản trở anh tu sửa
ngôi nhà và cháu N (con trai của anh Phạm Tiến T – họ hàng của các đương sự)
ngừng việc xâm phạm quyền trông coi ngôi nhà và quản lý diện tích đất ở trên. Tòa
án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H.
Cuối cùng, Tòa án phúc thẩm đã quyết định: chấp nhận một phần kháng cáo
của bị đơn anh Phạm Tiến N, sửa bản án sơ thẩm về phần quan hệ pháp luật và
không chấp nhận kháng cáo về việc nhận trông coi, quản lý di sản thừa kế đang
trong diện tranh chấp trên.

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án


nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: ông Trà Văn Đạm.
Bị đơn: ông Phạm Văn Sơn Nhỏ.
Ông Đạm đại diện hộ gia đình đứng tên diện tích đất thuộc thửa đất số 528
nằm phía trong thửa đất số 525 do ông Phạm Văn Sơn Nhỏ quản lý và sử dụng.
Ông Đạm thỏa thuận với ông Nhỏ mở một lối đi từ đất của mình đến đường dall
công cộng. Sau khi ông Đạm chi trả chi phí thực hiện xong thỏả thuận với ông
Nhỏ, sự việc phát sinh với ông Nhỏ, bà Chơi và những người cùng hàng thừa kế
với ông Nhỏ làm ông Đạm khởi kiện về việc xin mở lối đi qua đất tại thửa 525 nêu
trên. Tòa án sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông. Tòa án
phúc thẩm đã quyết định không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nhỏ và sửa
Bản án sơ thẩm, vẫn chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đạm.
Cuối cùng, Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự
phúc thẩm và giao hồ sơ lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại.

Câu 2.1: Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền
quản lý di sản của ông Đ và bà T? Việc xác định như vậy có thuyết
phục không, vì sao?
Trong Bản án số 11, Tòa án xác định anh H là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ và bà T. Dẫn chứng từ Bản án cho thấy câu trả lời trên là: “... qua xác
minh với các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều xác nhận, đã ủy quyền toàn bộ
cho anh Hiệu giải quyết vụ án tại Tòa án; nhất trí với việc giao di sản thừa kế cho

18
anh Hiệu trông coi, quản lý … Anh được các đồng thừa kế bao gồm các bà Liền,
Nhi, Nhường, Hoài, Hài đồng ý ủy quyền cho anh, đứng ra trông coi, quản lý, sửa
chữa và tôn tạo lại đất, tài sản trên đất tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường M,
huyện M, tỉnh Sơn La. Toàn bộ nhà và đất là di sản thừa kế do bố mẹ anh để lại.
Quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa kế
thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà
T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực
hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối,
ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là
phù hợp”.
Việc xác định như vậy là hoàn toàn thuyết phục.
Căn cứ Khoản 1 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người quản lý di sản
là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra”.
Ông T và bà H chết đều không để lại di chúc đối với khối tài sản thừa kế đồng
thời cũng không giao quyền quản lý di sản cho bất kỳ ai nên các thành viên trong
gia đình phải thỏa thuận để cử ra một người quản lý số di sản này. Qua các chứng
cứ xác minh, các thành viên đều xác nhận đã ủy quyền toàn bộ cho anh H trông coi
và quản lý di sản thừa kế nên anh H là người quản lý di sản của ông Đ và bà T và
trở thành người thừa kế di sản hợp pháp của hai người theo quy định của pháp luật
là hoàn toàn hợp lý và thuyết phục.

Câu 2.2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có
là người quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di
sản. Dẫn chứng trong Bản án cho thấy câu trả lời trên là: “Năm 2012, sau khi bà T
chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di
sản của ông Đ và bà T. Khi ông Thiện đi chấp hành án, có giao lại cho anh Nghĩa
trông coi di sản của ông bà…”
Căn cứ Khoản 2 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp di chúc
không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người

19
quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý
di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”.
Ông Đ và bà T mất không để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế đồng thời
cũng không giao quyền quản lý di sản cho bất kỳ ai khác. Nhưng dựa theo cơ sở
pháp lý nêu trên và các dẫn chứng trong Bản án thì có thể xác định ông Thiện
trước khi đi chấp hành án chính là người quản lý di sản thừa kế vì ông là người
đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất tức ông Thiện đang là người trực tiếp chiếm
hữu, sử dụng di sản nên việc ông Thiện là người quản lý khối di sản này là hoàn
toàn hợp lý và đúng theo pháp luật.

Câu 2.3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H)
quyền quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di
sản là thuyết phục. Dẫn chứng trong Bản án cho thấy Tòa án đã giao cho anh Hiếu
quyền quản lý di sản là: “Quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người
còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối
di sản của ông Đ, bà T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài
đều có đủ năng lực hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện;
không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với
đạo đức xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh
Phạm Tiến H là phù hợp”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người quản lý di sản
là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra”.
Ông Đ và bà T mất đều không để lại di chúc về số di sản thừa kế đồng thời
cũng không chỉ định ai sẽ là người quản lý số di sản này nên khối tài sản phải được
những người thừa kế thỏa thuận để cử ra người có quyền quản lý. Qua cơ sở pháp
lý nêu trên cùng các dẫn chứng trong Bản án, hoàn toàn có thể thấy, việc Tòa án
giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản là hoàn toàn hợp lý vì anh được
các thành viên đồng thừa kế cử ra quản lý di sản một cách tự nguyện, không bị lừa
dối, ép buộc,… nên anh Hiếu (Tiến H) trở thành người quản lý di sản là đúng theo
quy định pháp luật hiện hành.

20
Câu 2.4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền
được tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại
di sản như trong Bản án số 11
Căn cứ Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ
luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người
khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế
đồng ý bằng văn bản;
c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc theo yêu cầu của người thừa kế”.

Việc quản lý di sản thừa kế chưa chia là điều cần thiết, tránh mất mát, hao
hụt, hư hỏng. Chính vì thế, việc tôn tạo, tu sửa lại di sản là đang bảo quản di sản,
không nhằm mục đích bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp nên hành vi tôn
tạo, tu sửa lại di sản được xác định là không trái với quy định của pháp luật. Người
quản lý di sản có thể tìm những giải pháp tốt nhất để bảo quản di sản như mua sắm
vật liệu che nắng, che mưa, tránh không để cho di sản bị hao hụt, hư hỏng, ăn mòn,
tiêu hủy theo thời gian, có thể thuê kho, thuê mặt bằng để tập kết di sản, xây dựng
hàng rào để bảo quản,… Nhìn chung, người quản lý di sản có quyền cũng như

21
nghĩa vụ tôn tạo và tu sửa lại di sản để bảo toàn sự nguyên vẹn và tình trạng ban
đầu của di sản.

Câu 2.5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền
giao lại cho người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông
Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai).
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015, người đang
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ: “Bảo quản di sản; không được
bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức
khác”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người quản lý di sản
là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra”.
Theo đó, ta thấy khi ông Đ và bà T chết đã không để lại di chúc nên việc quản
lý di sản của ông Thiện không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế.
Giấy ủy quyền cho con trai là anh N của ông T không có giá trị pháp lý, không
phải là cơ sở để phát sinh quyền quản lý di sản của anh N đối với di sản của ông bà
Đ và T. Do đó, ông Thiện không có quyền giao lại cho con trai là anh N trông coi,
sử dụng di sản của ông bà Đ và T.
Thực tiễn xét xử cho thấy nếu không phải là người thừa kế chính thống theo
di chúc hay người được cử làm người thừa kế theo quy định của pháp luật mà chỉ
là người được trao quyền từ người đang quản lý hiện hữu thì khả năng cao cho
thấy rằng việc ủy quyền này là không có căn cứ pháp lý và trái với quy định của
luật hiện hành. Nếu không thuộc trường hợp là người được chỉ định trong di chúc
hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra thì không thể trở thành người quản
lý di sản. Vì vậy việc giao lại tài sản cho người khác quản lý trong trường hợp này
là không đúng theo quy định pháp luật.

22
Câu 2.6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý
không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Quyết định số 147, Toà án xác định người quản lý không có quyền tự
thoả thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục. Dẫn chứng trong
Quyết định cho thây câu trả lời trên là: “Thửa 525 nêu trên là tài sản chung của ông
Ngót và bà Chơi tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di
sản của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ
không có quyền định đoạt. Tuy nhiên, ông Nhỏ lại tự ý thoả thuận cho ông Đạm
mở lối đi khi không được sự đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất
của ông Ngót là vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 617 Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013”.
Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về
nghĩa vụ của người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản: “Bảo quản di sản;
không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng
hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”.

Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013: “ Trường hợp
nhóm người sử dụng đất mà quyền sử dụng đất phân chia được theo phần cho
từng thành viên trong nhóm, nếu từng thành viên của nhóm muốn thực hiện quyền
đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì phải thực hiện thủ tục tách thửa theo
quy định, làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất và được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất theo quy định của Luật này. Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm
người sử dụng đất không phân chia được theo phần thì ủy quyền cho người đại
diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất”.
Xét cụ thể trong trường hợp của Quyết định trên, ta nhận thấy ông Nhỏ chỉ là
người quản lý di sản của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của
bà Chơi, không có quyền định đoạt. Tòa án xác định ông không có quyền tự ý thỏa
thuận mở lối đi khi không được sự đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ
nhất của ông Ngót qua di sản là đúng, hợp lý và xác đáng.

23
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời
hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.
Đại diện phía nguyên đơn là bà Cấn Thị N2.
Bị đơn gồm cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C.
Phía nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và chia di sản
thừa kế của cụ K theo quy định của pháp luật.
Có sự tranh luận về tài sản của cụ T đã chia hay vẫn là tài sản chung chưa
chia. Tòa án cấp sơ thẩm đã sai sót, xác định tại thời điểm các đương sự khởi kiện
(tháng 11/2010) là đã hết thời hiệu để chia thừa kế của cụ T, nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm xác định di sản của cụ T để lại là tài sản chung chưa chia và tuyên chia cho
08 người con của cụ T là không đúng theo quy định.
Tòa án cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế của cụ T đã hết
và không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia tài sản chung đối với
phần di sản của cụ T là đúng.
Cuối cùng, Tòa án đã quyết định chấp nhận Kháng nghị số 73/2016/KN-DS
với Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2013/DS-PT, đồng thời hủỷ toàn bộ Bản án
dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2012/DS-
ST.

Câu 3.1: Anh/chị hãy cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa
kế ở Việt Nam.
Có 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam:
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản:
 Căn cứ Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Thời hiệu khởi
kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa
kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
 Căn cứ Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.

24
Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý
di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di
sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo
quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy
định tại điểm a khoản này”.
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác:
 Căn cứ Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Thời hiệu khởi
kiện để người thừa kế yêu câu chia di sản, xác nhận quyền thừa
kế của mình hoặc bác bỏ quyên thừa kế của người khác là mười
năm, kế từ thời điểm mở thừa kế”.
 Căn cứ Khoản 2 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế”.
 Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại:
 Căn cứ Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Thời hiệu khởi
kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
 Căn cứ Khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Thời
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Câu 3.2: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T được xác định
là năm nào? Đoạn nào của Quyết định tạo lập thành Án lệ số
26/2018/AL cho câu trà lời?
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972.
Dẫn chứng trong Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26 cho thấy câu trả lời
trên là: “Cụ T chết năm 1972, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đã hết. Có
đồng thừa kế không thống nhất xác định di sản của cụ T để lại là tài sản chung
chưa chia, nên không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia di sản
25
của cụ T để lại như chia tài sản chung cho 8 người con của cụ T. Do đã hết thời
hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, nên những người đồng thừa kế đang quản lý di
sản là cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C được tiếp tục quản lý sử dụng và sở
hữu”.

Câu 3.3: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ


luật Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào
không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự năm
2015 cho di sản của cụ T là có cơ sở văn bản pháp luật và thuyết phục. Bởi vì vụ
án tranh chấp di sản thừa kế trên là trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 bắt đầu có
hiệu lực (1/1/2017) nên theo quy định tại Điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân
sự năm 2015, đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có
hiệu lực, thì “Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Đồng thời
theo quy định tại Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ
ngày 01/01/2017): “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối
với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời
hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó…”
Như vậy, đối với vụ việc tranh chấp trên, thời hiệu áp dụng theo Bộ luật Dân
sự năm 2015 là vẫn còn nên người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ


luật Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ
thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản
nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm cho di sản của cụ T là có
cơ sở văn bản pháp luật.
Căn cứ Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2017): “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với
bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn
này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó…”
Căn cứ Điều 36 Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990) về thời hiệu khởi kiện về
thừa kế:
26
“1. Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có
quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác.
2. Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do
người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
3. Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được
quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điêu này thì thời
gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.
4. Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời
hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điêu này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh
này”.
Điều này là thuyết phục vì theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 688 Bộ
luật Dân sự năm 2015, đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật
này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này. Mặt
khác khi áp dụng thời hiệu 30 năm cho di sản của cụ Thi thì thời hiệu khởi kiện
vẫn còn hiệu lực vì cụ Thi mất vào năm 1972 nhưng các con của cụ Thi khởi kiện
vào năm 2010. Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành,
Tòa án áp dụng quy định Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu
đối với trường hợp mở thừa kế trước kế 01/01/2017. Đồng thời “đối với các giao
dịch dân sự được xác lập trước ngày BLDS có hiệu lực mà các văn bản pháp luật
trước đây có quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa
vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện, thì áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn
bản pháp luật đó”.
Từ các lập luận và các cơ sở pháp lý nêu trên trong trường hợp này thì thời
hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định
của pháp luật.

Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.


Án lệ số 26/2018/AL giải quyết vấn đề áp dụng thời hiệu mới (30 năm) cho
những thừa kế là bất động sản trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi
hành (01/01/2017) và thời điểm bắt đầu tính thời hiệu. Tuy nhiên, Án lệ này chỉ
mới bàn về thời hiệu được áp dụng chứ chưa bàn về hệ quả của việc hết thời hiệu.

27
Thời hiệu là một khoảng thời gian nên chắc chắn sẽ có những lý do khách
quan làm gián đoạn khoảng thời gian đó gọi là khoảng thời gian không tính vào
thời hiệu . Án lệ này vẫn chưa giải quyết được các khía cạnh vấn đề của thời hiệu,
ta vẫn có thể kết hợp các quy định về không tính thời hiệu để kéo dài thời hạn cho
phép người dân được tiếp cận với pháp luật hơn.
Chia di sản thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp vì khi có sự thay đổi về
mặt thế hệ sẽ kéo theo những thay đổi về mặt pháp lý tạo khó khăn trong quá trình
xác định chia thừa kế. Tòa án khi đưa ra quyết định phải xem xét nhiều khía cạnh
để có các quyết định mang tính thuyết phục nhất. Đây có thể xem là một án lệ có
tính áp dụng vì thực tế xảy ra thường xuyên. Việc áp dụng Bộ luật Dân sự năm
2015 vào Án lệ này sẽ đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế và vấn đề chia
di sản thừa kế được giải quyết theo quy trình hợp lý của pháp luật.

28
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và
pháp luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành
Luật từ đầu năm 2020 đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự
theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn những thông tin theo trật
tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết để trong dấu ngoặc kép, 3)
Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài
viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo alphabet tên
các tác giả (không nêu chức danh).
1. Đặng Lê Phương Uyên, “Xây dựng quy định xác lập quyền đối với bất
động sản liền kề theo thời hiệu”, Tạp chí khoa học pháp lí Việt Nam, Số 12/2023,
tr.64 đến tr.73 .
2. Lại Thị Bích Hà - Lê Thị Trang, “Công chứng văn bản thỏa thuận xác lập
chế độ tài sản vợ chồng - Bất cấp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí nghề
Luật, Số 10/2023, tr.9 đến tr.15.
3. Nguyễn Phúc Thiện, “Quyền thừa kế của con dâu, con rể theo Bộ luật dân
sự Trung Quốc - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lí Việt Nam,
Số 09/2022, tr.24 đến tr.34.
4. Nguyễn Thanh Thư - Nguyễn Chí Hiếu, “Bàn về quy định người thừa kế là
cá nhân không được quyền hưởng di sản trong Bộ luật dân sự 2015”, Tạp chí nhà
nước và pháp luật, Số 10 (414)/2022, tr.53 đến tr.61.
5. Nguyễn Thị Hường, “Quyền đối với bất động sản liền kề và vấn đề đăng kí
quyền đối với bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Luật học, Số 1/2024, tr.24 đến tr.32.
6. Nguyễn Trịnh Ngọc Linh, “Bảo đảm quyền sử dụng đất của đồng bào dân
tộc thiểu số tại khu vực Tây Nguyên”, Tạp chí Luật học, Số đặc biệt “Chào mừng 5
năm thành lập phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại Đắk Lắk”, tr.111 đến
tr.123.
7. Ninh Thị Hiền - Đặng Hùng Võ, “Bảo đảm an toàn pháp lí trong giao dịch
bất động sản từ lý luận sở hữu toàn dân về đất đai”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
Pháp, Số 11/2023, tr.21 đến tr.37.

29
8. Trần Thị Thu Hằng, “Quyền của người thừa kế theo di chúc trong pháp
luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí nghề Luật, Số 11/2023, tr.34 đến tr.40.
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên.
Để tìm được những bài viết trên, thành viên của nhóm đã truy cập vào các
trang tạp chí chuyên ngành Luật được liệt kê cùng với tên các bài viết nêu trên. Sau
đó, thành viên nhóm đã tìm kiếm các từ khóa liên quan đến “pháp luật về tài sản”
hoặc “pháp luật về thừa kế”, chắt lọc các bài viết thực sự liên quan đến những quy
định về tài sản và thừa kế. Tiếp đến, thành viên nhóm sẽ đọc sơ qua về nội dung
bên trong các bài viết để ghi chú lại các trang có các thông tin đắt giá quy định về
tài sản và thừa kế. Cuối cùng, tổng hợp lại thành file Word và sắp xếp tên tác giả
theo bảng chữ cái.

30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO, NGHIÊN CỨU
1. Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân
Tối cao.
4. Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa
kế của Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2023.
5. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb.
Hồng Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm).
6. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007.
7. Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
9. Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh.
10.Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
11.Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.

31

You might also like